ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN THỊ LAN
CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN PHỤC HƯNG VÀ SỰ
THỂ HIỆN NÓ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
BI KỊCH CỦA WILLIAM SHAKESPEARE
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Hà Nội, 2010
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
NGUYỄN THỊ LAN
CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN PHỤC HƯNG VÀ SỰ
THỂ HIỆN NÓ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
BI KỊCH CỦA WILLIAM SHAKESPEARE
CHUYÊN NGHÀNH: TRIẾT HỌC
Mã Số : 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Hướng Dẫn Khoa Học:
PGS.TSKH.NGƯT. Đỗ Văn Khang
Hà Nội, 2010
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu thu được trong
luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2010
Nguyễn Thị Lan
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1. BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN PHỤC HƯNG ................... 13
1.1. Thời đại và những tiền đề của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng ........... 13
1.2. Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng trào lưu tư tưởng cơ bản tạo nên giá trị
rực rỡ của nền văn nghệ Phục hưng ............................................................ 25
Chương 2. BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN TRONG MỘT SỐ TÁC
PHẨM BI KỊCH CỦA WILLIAM SHAKESPEARE ....................................................... 43
2.1.Thời đại Phục hưng ở Anh và con người Shakespeare ......................... 43
2.2. Hamlet, Otenlo, Vua Lia và Macbet những tác phẩm tiêu biểu của
W.Shakespeare thể hiện được tính nhân văn cao cả ................................... 58
2.3. Shakespeare - con người có cống hiến vĩ đại đối với chủ nghĩa nhân
văn Phục hưng ............................................................................................. 82
Chương 3. SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN
VĂN PHỤC HƯNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN KIỂU
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................................... 84
3.1. Định hướng về kế thừa và phát huy các giá trị của chủ nghĩa nhân văn . 84
3.2. Giải pháp kế thừa và phát huy các giá trị của chủ nghĩa nhân văn
Phục hưng trong việc xây dựng chủ nghĩa nhân văn kiểu mới ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................... 86
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 96
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử Triết học cũng như Mỹ học thành tựu nghiên cứu con
người có một giải tần rất rộng. Có những thời điểm sự sáng tạo theo quy luật
của cái Đẹp đã đưa con người đạt đến đỉnh cao đáng ghi nhớ, có thể kể tới Mỹ
học cổ đại Hy Lạp với thành tựu "con người là thước đo của muôn loài"
(Protagorat). Phục hưng với sự phát hiện "con người khổng lồ". Cận đại với
"con người trớ trêu đi tìm cái đẹp hài hoà". Thời đại xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với con người tạo nên “dáng đứng tạc vào thế kỷ”, làm lay chuyển nhân
loại đi theo hướng nhân văn kiểu mới. Nhìn toàn cục, những thành tựu kể trên
đều dựa vào chủ nghĩa nhân văn (CNNV) có mầm mống từ thời cổ đại Hy Lạp,
kế thừa, phát triển tiếp ở Phục hưng và hoàn thiện dần đến ngày nay. Sự hoàn
thiện đó được biểu hiện ở các mục tiêu xây dựng xã hội mới.
Đối với Đảng và Nhà nước ta mục tiêu lớn nhất đề ra hiện nay là : Xây
dựng nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành một quốc gia "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [10,341]. Đây là
những cơ sở mang tính nhân văn đối với sự tiến bộ và phát triển của con
người Việt Nam trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là
nền tảng để xây dựng CNNV kiểu mới - tức là CNNV cho con người Việt
Nam trong thời kỳ mới, giai đoạn phát triển mới. Trong đó CNNV được hiểu
là học thuyết hướng đến con người, khẳng định vị thế của con người, tôn
trọng con người, mở đường cho sự phát triển toàn diện đối với sở trường, tài
trí, khả năng của mỗi con người, cũng như tất cả mọi người.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, dân tộc Việt Nam
đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất
nước một cách toàn diện. Quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam có những nét
5
tương đồng với châu Âu thời Phục hưng : thoát thai từ chế độ phong kiến,
xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến
tranh. Do đó, để phát huy tối đa sức sáng tạo của người Việt Nam nhằm CNH
- HĐH thành công chúng ta cần thiết phải nghiên cứu sâu về CNNV Phục
hưng để có thể kế thừa, tiếp thu những giá trị của nó.
Chính trong thời Phục hưng - những năm của thế kỷ XIV, XV, XVI
với những thành tựu đã có, với những trầm tích hào quang để lại người ta thấy
đây thật sự là thời đại của những "con người khổng lồ". Sự "khổng lồ" ấy nằm
trong trí tuệ, tư tưởng của những cá nhân cụ thể cũng như tư duy của thời đại.
Nghiên cứu CNNV Phục hưng chúng ta không thể không nghiên cứu William
Shakespeare nhà soạn kịch thiên tài của nước Anh nói riêng, của nhân loại nói
chung. Tư tưởng nhân văn chủ nghĩa của ông không chỉ mang lại sức sống
cho thời đại Phục hưng mà còn khơi nguồn cho dòng chảy nhân văn tạo nên
bước tiến bộ trong lịch sử loài người. Có thể nói, CNNV được hội tụ một cách
rõ nét, sâu sắc, qua các tác phẩm nghệ thuật của W.Shakespeare, nhất là các
tác phẩm bi kịch của ông. Với lẽ đó, luận văn đã chọn một số tác phẩm bi
kịch tiêu biểu của W.Shakespeare như Hamlet, Otenlo, Vua Lia và Macbet để
phân tích sự thể hiện tính nhân văn của thời đại.
Trong tiến trình hội nhập và đổi mới đất nước, dân tộc và con người
Việt Nam tất yếu phải tiếp xúc với các dân tộc và những nền văn hóa. Nhu
cầu xây dựng nước Việt Nam "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" đòi hỏi phải phát
huy những trầm tích văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc để tạo nên những
phong thái riêng, những yếu tố riêng làm nên sự tự hào cho con người Việt
Nam trước cộng đồng thế giới, đồng thời chúng ta phải chủ động và triệt để
tiếp thu các thành tựu trí tuệ của nhân loại. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để
trong khi tiếp thu, lĩnh hội, hợp tác với bạn bè thế giới, người Việt Nam vẫn
ngẩng cao đầu tự tin, giữ được phong thái riêng của mình, trong khi thực tiễn
6
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới đã và đang đặt ra nhiều
vấn đề bức xúc đối với dân tộc : những giá trị truyền thống tốt đẹp đang bị
xuống cấp, những thói quen không còn phù hợp vẫn tồn tại và có xu hướng
lấn át cái tiến bộ, trật tự xã hội xuất hiện nhiều vấn đề cần nghiêm túc điều
chỉnh. Cùng với việc CNH - HĐH đất nước thì nhu cầu văn minh hóa, nhân
văn hóa, đồng bộ hóa xã hội cũng nảy sinh một cách tự nhiên. Trong đó, sự
nghiệp CNH - HĐH làm nền tảng vật chất, kỹ thuật để thực hiện thành công
việc văn minh hoá đất nước. Quá trình văn minh hóa đất nước là quá trình
thực hiện việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng và tiến bộ
xã hội. Đó cũng chính là những nội dung cốt lõi của CNNV. Nghĩa là, người
Việt Nam cần được đào tạo, bồi dưỡng để nhân văn hóa chính mình, văn minh
hóa chính mình, tự bỏ đi những thói quen, nếp nghĩ không còn phù hợp để
chủ động vận dụng những giá trị có được từ sự nghiệp CNH - HĐH vào thực
tiễn cuộc sống. Người Việt Nam đã có những nền tảng nhân văn, đã có nền
văn hiến dân tộc ngàn năm. Nhưng trong thời đại mới, những giá trị ấy cần
được nâng lên một trình độ mới, cao hơn về chất, tạo ra bước đột phá, vượt
lên chính mình để người Việt Nam sánh ngang với những dân tộc văn minh,
những cường quốc phát triển trên thế giới.
Đi từ khởi điểm đến mục đích cần có những giải pháp để đạt đến hiệu
quả tối ưu. Vì vậy, trong tiến trình vận động để hiểu rõ về giá trị của phương
thức sản xuất mới, để tìm hiểu thấu đáo những giá trị nhân văn được tạo nên
bởi con người thì con đường ngắn nhất, cách thức hợp lý, hiệu quả nhất là tìm
hiểu về CNNV ở chính quê hương của nó - nơi thăng hoa của CNNV đến
đỉnh cao. Đó chính là Tây Âu thời Phục hưng. Những giá trị và thành tựu của
thời kỳ Phục hưng đã được lịch sử chứng minh.
Với những căn cứ trên, luận văn được thực hiện nhằm nghiên cứu bản
chất triết học của CNNV Phục hưng và sự thể hiện của nó trong một số tác
7
phẩm bi kịch : Hamlet, Otenlo, Vua Lia và Macbet của W.Shakespeare. Đồng
thời, đề xuất một số vấn đề của CNNV kiểu mới ở nước ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cho đến nay có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về CNNV
Phục hưng và về các tác phẩm bi kịch của W.Shakespeare. Tuy nhiên chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu đề tài trên bình diện bản chất CNNV
Phục hưng qua một số tác phẩm bi kịch của W.Shakespeare.
Gần với đề tài này, nhưng ở một góc độ khác, có một số công trình như :
* Sách tiếng Việt
1. Đặng Thai Mai (1949) : Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng dưới thời kỳ
văn hóa Phục hưng. Tập thi luận và tài liệu.
Trong tác phẩm này, tác giả đã giới thiệu một cách tương đối toàn diện
và có sự phân tích một cách sâu sắc về những điều kiện phát sinh, các yếu tố,
các nhân vật cùng nhiều tác phẩm tiêu biểu của phong trào văn hóa Phục
hưng. Đồng thời, trong cuốn sách này, tác giả cũng phân tích vai trò, ảnh
hưởng của CNNV Phục hưng đối với các thời kỳ lịch sử sau này. Tác phẩm
cho thấy “Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng có tính khoa học” và “tiến triển
theo sự giác ngộ của nhân dân, quần chúng và xã hội” [28,3]. Tác phẩm
mang đậm tính chất văn học, ngôn từ gọt rũa, chau chuốt, mang tính tư tưởng
cao, có nhiều giá trị.
2. VP.Vonghin (1956) : Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng và chủ nghĩa
xã hội.
Cuốn sách trình bày “nguồn gốc, nội dung, thực chất và quá trình phát
triển của CNNV qua các thời đại từ thế kỷ XIV đến nay, phân tích mối quan
hệ giữa CNNV và chủ nghĩa xã hội” [43,3]. Theo quan điểm của Vonghin một nhà bác học người Nga nổi tiếng những năm 1950 - trong cuốn sách tác
giả đã đưa ra quan điểm về CNNV theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Đồng
8
thời, tác giả cũng nêu lên vai trò của CNNV các thế kỷ XVI và XVII “đối với
thời đại của nó có một giá trị tiến bộ không ai chối cãi được”[43, 8]. Trong
tác phẩm này, ông cũng phân tích vắn tắt quan điểm của các đại biểu như
T.More, Voltaire…
Tuy nhiên, cuốn sách chưa luận chứng một cách hệ thống các thành tựu
và hạn chế của CNNV, chưa nêu bật các giá trị xã hội và tầm vóc tư tưởng mà
CNNV xác lập nên trong thời đại Phục hưng. Những nội dung viết về CNNV
của tác giả còn sơ lược…
3. PGS.TS Lê Nguyên Cẩn (biên soạn) : Tác giả tác phẩm văn học
nước ngoài trong nhà trường : William Shakespeare
Cuốn sách viết về thời kỳ Phục hưng bao gồm những nội dung cơ bản của
CNNV, văn học Phục hưng Anh. Tác phẩm cũng đi vào nghiên cứu cuộc đời, sự
nghiệp, tư tưởng, phong cách sáng tác của W.Shakespeare. Nội dung chính của
cuốn sách tập trung đi vào phân tích các tác phẩm cụ thể của W.Shakespeare
như : Thương nhân thành Vơnidơ, Hamlet, vở kịch Rômêô và Juliet…
Nhìn chung, các vấn đề, các tác phẩm mà cuốn sách đề cập đến được
phân tích, nhìn nhận dưới góc độ văn học chứ không phải góc độ triết học.
Tuy nhiên, cuốn sách là một tư liệu đáng quý cho luận văn trong quá trình
nghiên cứu.
* Sách tiếng Anh
1. Donald Kagan (cùng nhiều tác giả) (1999) : The Wester Heritage prentice
hall, Internation Ltd (UK) London ( từ trang 212 : Renaissance and discovery)
2. Robert E. Lerner (cùng nhiều tác giả) (1993): Western Civilizations their history and their culture W.W.Norton and Company Ltd 10 Coptic street
London (Chương 13 : The Civilization of the Renaissance trang 403 đến trang
440)
9
Đây là những công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh của các tác giả
nước ngoài. Trong những cuốn sách này, các tác giả đã trình bày một cách hệ
thống về lịch sử văn minh phương Tây, con người phương Tây hay những di
sản văn minh phương Tây. Trong các tác phẩm ấy có những chương, phần
viết về thời Phục hưng (tác giả luận văn đã ghi rõ số trang trong phần ngoặc
đơn sau mỗi tác phẩm). Các cuốn sách này viết về thời Phục hưng trong vai
trò là một giai đoạn tất yếu của lịch sử với những thành tựu to lớn, thậm chí
rất huy hoàng. Tác giả của những công trình này đã thể hiện phương pháp làm
việc khoa học, nghiêm túc, có hệ thống, đưa ra được những dẫn chứng, cứ
liệu sinh động về thời Phục hưng. Những công trình này đã mang lại những
thông tin, tư liệu quý giá, có thể sử dụng để nghiên cứu tổng hợp về thời kỳ
này. Tuy nhiên, những công trình mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu lịch sử,
thống kê. Đây chưa phải là những chuyên luận nghiên cứu sâu về thời kỳ
Phục hưng và CNNV.
3. Kenneth Muir (1985) : Interpretations of Shakespeare : Bristish
accademy Shakespeare lectures.
Cuốn sách bằng tiếng Anh này tập hợp những bài giảng của các nhà
phê bình nổi tiếng cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX bình luận về sự thể hiện
trong nghệ thuật kịch của W.Shakespeare bao gồm : Những nội dung cơ bản
như : tư tưởng chính trị của W.Shakespeare, các tác phẩm kịch nổi tiếng của
ông, cách thể hiện nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm Hamlet, Otenlo,
Vua Lia, Macbet… Mặc dù cuốn sách không trực tiếp nói về vấn đề mà luận
văn bàn đến, nhưng những bài giảng của các nhà phê bình được viết khoa học,
dễ hiểu là nguồn tư liệu quan trọng cho đề tài mà luận văn đang nghiên cứu.
Như vậy, từ trước đến nay chưa có một công trình nào trùng với luận
văn về cả tên gọi và tính chất khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
10
Luận văn nghiên cứu bản chất triết học của CNNV thời kỳ Phục hưng.
Từ đó, tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số tác phẩm bi kịch Hamlet,
Otenlo, Vua Lia và Macbet của W. Shakespeare. Những tác phẩm biểu hiện sâu
sắc tư tưởng nhân văn của W.Shakespeare và nội dung của CNNV. Trên cơ sở
đó, luận văn mạnh dạn đề xuất một số giải pháp kế thừa để xây dựng CNNV
kiểu mới ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn nghiên cứu bối cảnh xã hội, những tiền đề cho sự ra đời của
CNNV Phục hưng
- Sự thể hiện của CNNV trong các tác phẩm bi kịch Hamlet, Otenlo,
Vua Lia và Macbet của W.Shakespeare
- Luận văn cũng đề xác định định hướng và giải pháp kế thừa CNNV
Phục hưng trong việc xây dựng CNNV kiểu mới ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bản chất triết học của CNNV và sự thể
hiện nó trong tác phẩm bi kịch của Shakespeare.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ khoa học Triết học, luận văn
chỉ đi sâu nghiên cứu bốn tác phẩm kịch Hamlet, Otenlo, Vua Lia và Macbet
của W.Shakespeare một trong những đại biểu điển hình nhất của phong trào
văn hóa Phục hưng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn đã vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải
11
quyết vấn đề. Đồng thời, luận văn còn dựa vào luận điểm của Lênin, khi
Lênin nói rằng, mỗi một xã hội luôn có hai nền văn hóa, văn hóa của giai cấp
thống trị giữ vai trò thống trị. Như thế, khi giai cấp tư sản lớn mạnh muốn
chiếm lĩnh xã hội nó phải chiếm lĩnh văn hóa trước. Luận văn đã tìm thấy sự
điển hình này ở thời đại Phục hưng.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng phương pháp liên ngành : Triết học - Mỹ
học - Văn học qua việc xác định ảnh hưởng của tư tưởng triết học thời đại,
của văn học đối với sự hình thành CNNV Phục hưng.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã nghiên cứu được bản chất cũng như biểu hiện của CNNV
trong một số tác phẩm bi kịch của W.Shakespeare.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn được thực hiện nhằm tìm ra tiến trình phát triển của tư tưởng
nhân văn và đặc trưng phát triển của CNNV trong các tác phẩm bi kịch của
W.Shakespeare
Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu giảng dạy, nghiên cứu, tham
khảo trong những nội dung có liên quan đến chủ nghĩa nhân văn, đến tư tưởng
và các tác phẩm kịch của W.Shakespeare về những vấn đề con người và sự
tiến bộ, phát triển của xã hội loài người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương và 7 tiết.
12
Chương 1
BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN PHỤC HƯNG
1.1. Thời đại và những tiền đề của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng
Châu Âu thời hậu kỳ Trung cổ đã có những biến đổi về mọi mặt. Từ
trong lòng xã hội phong kiến, sức sản xuất phát triển nhanh chóng, công
nghiệp tiến bộ vượt bậc, do sự phân công lao động giữa các ngành nghề và
các vùng sản xuất đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế hàng hoá - điều kiện cơ
bản cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản với thế lực kinh tế
ngày càng mạnh đang gặp phải trở lực phong kiến - Giáo hội bảo thủ - bức
tường già cỗi còn rất kiên cố. Những đòi hỏi bức thiết cho sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản như một ngòi nổ đang chờ bung phá. Những điều kiện để châm
ngòi nổ đã được chuẩn bị trên nhiều phương diện như : kinh tế xã hội, văn
hóa, tư tưởng, nghệ thuật, tôn giáo.... Đặc biệt, để thuyết phục Giáo hội và
khai mở dân trí, các nhà nhân văn Phục hưng trước hết đã dựa vào những
thành tựu của khoa học văn hóa - xã hội. Châu Âu thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ
XVII sôi động và quyết liệt với những cuộc phát kiến vĩ đại, những hoạt động
thương mại xuyên quốc gia, phong trào văn hoá Phục hưng và cải cách tôn
giáo... Những thành quả của các phong trào trên đã đặt nền móng vững chắc
cho nền văn minh châu Âu thời kỳ Cận đại. Mở đầu cho thời kỳ bung phá ấy
là sự ra đời và phát triển của phong trào văn hoá Phục hưng.
1.1.1. “Renascita” hay “Le-Renaissance” - “Phục hưng”, “Tái sinh”
hay " Sống lại "
Phong trào văn hoá Phục hưng - ngọn gió mới này bắt đầu thổi lên từ đất
Italia. Tiếp đó nó lan rộng ra các nước ở tây Âu và trung Âu. Người Italia gọi
phong trào này là “Renascita”, người Pháp đặt tên cho nó là “Le - Renaissance”,
13
"Renascita” hay “Le- Renaissance” đều cùng một nghĩa, có thể dịch là “Phục
hưng” hoặc “Tái sinh” hoặc nôm na hơn nữa có thể dịch là “sống lại”.
Nhưng “Phục hưng” cái gì ? Cái gì được “Tái sinh”, được làm “sống
lại”? Một số học giả phương Tây cho rằng phong trào này nhằm kh«i phôc l¹i
nền văn hoá cổ đại Hy Lạp và La Mã vừa được phát hiện nhờ những cuộc
khai quật, nhờ những bản sách chép tay từ thời đó còn giữ gìn được. Đúng là
từ thế kỷ XIV và tiếp theo là trong hai thế kỷ XV, XVI ở châu Âu có cả một
phong trào đi tìm kiếm những di tích của hai nền văn hoá cổ đại Hy Lạp, La
Mã. Người ta đua nhau học tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh để đọc các bản
chép tay đó. Việc dịch thuật, giới thiệu sách và xuất bản các tác phẩm triết
học, văn học cổ Hy Lạp đã thu hút được số đông những học giả, nhà nghiên
cứu, những ông chủ nhà in… Đúng là chưa bao giờ Hy Lạp và La Mã cổ đại
được chú ý, được đề cao, được say mê nghiên cứu đến như vậy.
Nhưng thật là sai lầm nếu cho rằng mục đích của văn hoá Phục hưng là
nhằm khôi phục lại những nền văn hoá cổ đại đó, thật là sai lầm nếu nghĩ rằng
phong trào sôi động này chỉ mang ý nghĩa phục cổ đơn thuần.
Thật vậy, nhờ được tận mắt nhìn ngắm những di tích còn xót lại của hai
nền văn minh Hy Lạp, La Mã mà các cuộc khai quật mới phát hiện được, nhờ
được tự mình đọc và tìm hiểu ý nghĩa của các tác phẩm cổ đại Hy Lạp, La Mã
(qua nguyên tác hoặc bản dịch) phương Tây có dịp để đối chiếu và so sánh
với nền văn hoá Trung cổ, họ đã rút ra được một kết luận quan trọng : Thời
kỳ Trung cổ Nhà nước phong kiến và Nhà thờ đã kìm hãm nền văn hoá, hơn
thế nữa, đã chà đạp thô bạo lên quyền sống, quyền tự do của con người. Họ
cảm thấy như mình vừa trải qua một “đêm trường” tăm tối. Họ nhận ra rằng
cổ đại Hy Lạp sở dĩ đã xây dựng một nền văn minh rực rỡ chính là vì nó chưa
hề biết đến chế độ phong kiến, nó chưa phải chịu sự thống trị tinh thần của
Giáo hội Thiên Chúa. Ph.Ănghen viết “Trong những cuốn sách viết tay còn
cứu vớt được sau khi nền văn minh Byzăngxơ đã sụp đổ, trong những pho
14
tượng thời cổ đại khai quật được trong những đống hoang tàn ở La Mã,
người ta thấy cả một thế giới mới lạ hiện ra trước mắt phương Tây kinh
ngạc : đó là thời cổ đại Hy Lạp; những hình thức chói loà của nó đánh tan
những bóng ma của thời Trung Cổ” [25, 102].
Nhưng đối với Châu Âu các thế kỷ XIV, XV, XVI, vấn đề đâu phải là
khôi phục lại nền văn hoá, văn minh Hy Lạp, La Mã cho dù những nền văn
minh, văn hoá đó đã khiến cho họ phải “kinh ngạc” ! Những sản phẩm làm cho
họ "kinh ngạc" ấy lại thuộc về chế độ công xã thị tộc tan rã chuyển sang chế độ
chiếm hữu nô lệ. Lịch sử theo đà phát triển của nó chỉ tiến tới chứ không thể
quay lại. Vì vậy, vấn đề là “Phục hưng” là làm “sống lại” những truyền thống
văn hoá tốt đẹp của cổ đại Hy Lạp, La Mã chỉ là một cái cớ, đằng sau cái cớ
cần khôi phục ấy là vì mục đích khác, mục đích phát triển cái mới.
Những truyền thống văn hóa được các nhà nhân văn cổ đại Hy Lạp, La
Mã đã nêu cao như :
- Truyền thống trân trọng, đề cao con người trái ngược với thái độ miệt
thị, coi rẻ con người của thời kỳ Trung cổ.
- Truyền thống đấu tranh cho tự do của con người, trái ngược với nền
chuyên chế độc tôn của phong kiến và Giáo hội.
Vì thế phong trào văn hoá Phục hưng trong khi hướng về cổ đại để học
tập những truyền thống tốt đẹp đó, đã luôn phê phán, tố cáo Trung cổ phong
kiến và nhà thờ đồng thời nói lên nhu cầu, khát vọng của con người mới, vạch
rõ và biểu dương những khả năng, triển vọng của con người mới, xã hội mới.
Con người mới là những con người sẽ xây dựng xã hội mới, con người
mà thời đại Phục hưng đang cần đến. Đó là “những con người khổng lồ…
khổng lồ về tư tưởng, về nhiệt tình và về tính cách, khổng lồ về tài năng mọi
mặt và về sự hiểu biết sâu rộng” [25,106]. Kiểu người “khổng lồ” đó trên thực
tế đã xuất hiện như Leonadơvanxi, nhà hoạ sỹ kiêm bác học, kiêm kỹ sư…
15
Đó là Anbe Đuyree, vừa là học sỹ, vừa là nhà điêu khắc, nhà kiến trúc.
Copenic người đề xuất ra lý thuyết mới về hệ mặt trời. Những Crixtop Colong,
những Vacxco đơ Gama, những Magielang… đã có công trong các cuộc phát
kiến địa lý… Trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đó là những nhân vật
Gacgangchuya và Phangtagruyen của Rabơle, đó là bác sỹ Fauxt trong vở
kịch của Maclovơ, đó là Hamlet, Otenlo… của W.Shakespeare, là David của
Mikenlanggelo, nàng Monalisa của Leonadơvanxi….
Cuộc vận động tư tưởng, văn hóa Phục hưng đã gặt hái được những
thành công, đã đơm hoa kết trái tốt đẹp, phong phú vô cùng. Nó đã làm cho
tây Âu như bừng thức giấc sau “đêm trường Trung cổ” đưa những nước này
tiến nhanh, tiến mạnh vào lịch sử Cận đại. Văn hoá Phục hưng vì vậy được
thừa nhận là một trong những nền văn hoá rực rỡ của loài người.
Tác động thúc đẩy của cuộc vận động tư tưởng và văn hoá Phục hưng đối
với lịch sử phương Tây và lịch sử nhân loại nói chung là điều rõ ràng. Nhưng
chúng ta cần phải nói rằng bản thân cuộc vận động tư tưởng và văn hoá đó là sản
phẩm của một bước ngoặt lịch sử, do những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
bấy giờ đòi hỏi, tạo ra và quy định. Cần tránh hai khuynh hướng sai lầm khá phổ
biến xưa nay là “Trung cổ hoá” hoặc “hiện đại hoá” thời Phục hưng.
Khuynh hướng thứ nhất, "Trung cổ hóa", phủ nhận chất lượng mới của
thời Phục hưng, chỉ coi nó như là giai đoạn sau của thời Trung cổ, coi những
thành tựu của nó như là hoa quả muộn mằn của Trung cổ, do Trung cổ gieo
giống và chăm nom. Nhưng về thực chất, khuynh hướng này do các học giả
nặng tư tưởng bảo thủ, gắn với lập trường và quan điểm của giai cấp quý tộc
phong kiến và đẳng cấp tăng lữ đề xướng ra.
Khuynh hướng thứ hai, "hiện đại hóa" thì ngược lại, quan niệm rằng
Phục hưng là một "lát cát" hoàn toàn với Trung cổ và mở đầu cho thời hiện
đại. Khuynh hướng này đề cao Phục hưng nhằm tô vẽ cho nền văn minh tư
16
sản. Những người đề xướng khuynh hướng này nhấn mạnh rằng. Buổi bình
minh của kỷ nguyên tư bản chủ nghĩa thật là huy hoàng tráng lệ và đó chính
là sự tự khẳng định của chủ nghĩa tư bản ngay trong buổi mới chào đời, là
cống hiến đầu tiên, to lớn của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử nhân loại…
Khoa kinh tế - Chính trị học Macxít nhận định rằng : Phục hưng (hai thế kỷ
XV - XVI Tây Âu) là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ từ Trung cổ - phong
kiến sang thời Cận đại tư bản chủ nghĩa.
Ph.Ănghen viết “Khoa học tự nhiên cận đại, cũng như toàn bộ lịch sử
cận đại bắt đầu từ thời kỳ cường thịnh mà người Đức chúng ta gọi là thời kỳ
cải cách tôn giáo - vì đấy là một tai họa của dân tộc đã xảy đến với chúng ta
trong thời gian đó - mà người Pháp gọi là thời kỳ Phục hưng và người Italia
gọi là Cinquecentô, tuy rằng các danh từ đó chưa có một danh từ nào nói
được đầy đủ hết ý nghĩa. Đó là thời đại bắt đầu từ nửa cuối của thế kỷ XV.
Chính quyền nhà vua, dựa vào bọn tư sản thành thị, đã đập tan thế lực của
giai cấp quý tộc phong kiến và đã lập ra những nước quân chủ lớn chủ yếu
dựa trên dân tộc tính, trong khuôn khổ các nước quân chủ đó, các quốc gia
châu Âu cận đại và xã hội tư sản cận đại đều phải phát triển; và trong khi
giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc còn đương đối chọi với nhau thì cuộc
chiến tranh nông dân ở Đức đã báo trước những cuộc đấu tranh giai cấp sau
này bằng cách đưa lên vũ đài không những là người nông dân khởi nghĩa mà
thôi - điều này không còn phải là mới lạ nữa - mà đằng sau họ còn là những
người báo hiệu cho giai cấp vô sản hiện đại, tay cầm cờ đỏ, miệng đòi quyền
công hữu tài sản” [25, 112]. Và Ph.Ănghen đánh giá “đó là bước ngoặt tiến
bộ, vĩ đại nhất, từ trước đến bây giờ loài người chưa từng thấy” [25,113].
Bước ngoặt đã diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo, tư
tưởng khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật. Nó làm biến đổi sâu sắc đời
sống vật chất và tinh thần của xã hội Tây Âu, phơi bày tính chất trì trệ, lạc
hậu, lỗi thời của những thiết chế tinh thần và vật chất của chế độ phong kiến
và Nhà thờ Trung cổ. Nó tạo nên một đà phát triển mới cho các lĩnh vực nói
17
trên, khiến cho xã hội Tây Âu vào nửa sau của thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII
thực sự đã mang bộ mặt mới, khởi sắc phồn vinh, đầy khí thế.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của công thương nghiệp
Vùng bắc Italia là một trung tâm kinh tế và một trung tâm văn hóa phát
triển mạnh thế kỷ XIV. Ở đó các quốc gia - đô thị như Vơnizơ, Giênơ,
Plorăngxơ... đã chứng kiến một thời kỳ phát đạt của công thương nghiệp.
Trên cơ sở một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển như vậy, một nền
văn hóa nghệ thuật mới, phong phú, rực rỡ đã đơm hoa kết trái. Chính vì vậy
mà Italia trở thành cái nôi của phong trào văn hóa Phục hưng.
Thành phố Venezia (Venise)
18
Thành phố Firenze (Florence)
Vùng thấp (gồm các nước Hà Lan, Bỉ và Luycxămbua ngày nay) cũng
là một trung tâm kinh tế và văn hóa hình thành tương đối sớm (hình như cùng
một lúc với vùng trung tâm kinh tế Bắc Italia). Ở đó, các đô thị như Bruygiơ,
Anve (ngày nay thuộc Bỉ), Amxtexđam (nay thuộc Hà Lan) cũng tấp nập, trù
phú vô cùng. Chính vì vậy nơi đây cũng từng là một trung tâm văn hóa mới
của thời kỳ Phục hưng.
Sau sự kiện Côngxtăngtinốp bị Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng (1453) cắt đứt
đường giao thông liên lạc, buôn bán giữa Tây và Đông, các nước phương Tây
bèn lao đi tìm những con đường giao thông buôn bán mới. Các phát kiến địa
lý dẫn tới một kết quả to lớn, bất ngờ, ngoài dự kiến. Trong tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ănghen đã nói về ý nghĩa đó như sau : Việc tìm
ra châu Mỹ và đường hàng hải quanh châu Phi đã tạo ra cho giai cấp tư sản
đang lên một hoạt động mới. Thị trường của Ấn Độ và Trung Hoa, việc chiếm
19
châu Mỹ làm thuộc địa, việc buôn bán với các thuộc địa, việc tăng thêm một
số phương tiện trao đổi và số lượng hàng hóa, những cái ấy nói chung đã đem
lại cho thương nghiệp, hàng hải, công nghiệp một đà phát triển chưa từng có,
và do đó, đã làm cho yếu tố cách mạng phát triển nhanh chóng trong lòng xã
hội phong kiến đang suy tàn.
Phương thức kinh doanh phong kiến hay phường hội trước kia không còn
có thể thoả mãn được nhu cầu đang lên theo sự mở mang nhiều thị trường mới...
Từ khi những con đường biển mới được phát hiện, việc buôn bán giờ
đây chuyển hướng ra các đại dương là chính nên các đô thị ven biển trở thành
những điểm kinh tế tấp nập chưa từng thấy : Vơnizơ, Gienevơ, Baccơlon,
Lixbon... Trong các đô thị này đã xuất hiện những tổ chức kinh tế mới. Ở
Anve Sở giao dịch được thành lập, trước cửa có tấm biển : Vì lợi ích của
thương nhân các dân tộc và các chủng tộc. Hầu hết những việc trao đổi, mua
bán đều thông qua sở giao dịch này. Tiền vốn của sở rất to, có thể mua hàng
hóa từ Ấn Độ hay từ châu Mỹ sang. Sở cũng cho vay lãi. Vua chúa các nước
thường là con nợ của sở.
Đến đầu thế kỷ XVI, một kiểu tổ chức thương nghiệp nữa ra đời :
Nghiệp đoàn thương mại nghiệp đoàn này do những người cùng họ hàng tổ
chức ra và mang những cách gọi khác nhau. Ví dụ : ở Italia, đó là Ragio, ở
Đức đó là Firma, ở Anh đó là Partnership. Vào giữa thế kỷ XVI, khi việc
buôn bán giữa các lục địa phát triển mạnh thì các thương đoàn Đông Ấn của
Hà Lan được độc quyền buôn bán với Ấn Độ. Các ngân hàng lần lượt được
xây dựng ở Giene, Vơnizơ, ở Amxtexđam… và ngày càng cải tiến thể thức
gửi tiền, rút tiền… Chữ số Arập thay thế chữ số La Mã trong việc tính toán.
Khối lượng tiền lưu thông trên thị trường ngày càng tăng. Nói riêng ở châu
Âu thì từ năm 1400 đến năm 1690, ước tính đã từ 800 triệu lên tới 3.300 triệu.
Việc tăng nhanh khối lượng tiền tệ này đã dẫn tới những cuộc khủng hoảng
20
- Xem thêm -