Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự ở việt nam...

Tài liệu đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự ở việt nam

.PDF
90
44
69

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH QUẢNG ĐỨC TUYÊN ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hình sự Mã số: 60380104 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Kết quả của luận văn chưa được công bố ở công trình nào khác. Tác giả Quảng Đức Tuyên DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự. CQĐT : Cơ quan điều tra. GCNNBC : Giấy chứng nhận người bào chữa. HĐXX : Hội đồng xét xử. TAND : Tòa án nhân dân. TANDTC: : Tòa án nhân dân tối cao. TTHS : Tố tụng hình sự. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân. XHCN : Xã hội chủ nghĩa. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục chữ viết tắt Mục lục LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. .............................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. .................................................................................. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ........................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. ........................................................ 4 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 4 6. Bố cục của Luận văn. ............................................................................................. 4 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..................................................................................................................... 5 1.1. Khái quát chung về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. ............................ 5 1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. ....................................5 1.1.2. Quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp: ..14 1.2. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử .........................18 1.2.1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo .......................................................18 1.2.2. Các hình thức bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo ...............................20 1.3. Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật TTHS một số nước trên thế giới ..................................................................................................29 1.3.1. Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn. ...............29 1.3.2. Một số nhận xét. .....................................................................................35 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................................... 38 2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử ...........................................................................................................38 2.1.1. Quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa ..................................38 2.1.2. Quy định về địa vị tố tụng (quyền, nghĩa vụ) của bị cáo, người bào chữa. . ........................................................................................................................... 43 2.1.3. Quy định về thủ tục tố tụng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử . .....................................................................................................................53 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự 57 2.2.1. Thực trạng tự bào chữa ............................................................................58 2.2.2. Thực trạng nhờ người khác bào chữa ......................................................59 2.2.3. Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân ................................................. 62 CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ . ................................................................................................................................. 64 3.1. Yêu cầu cải cách tư pháp đối với việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và quyền bào chữa của bị cáo nói riêng. .................................64 3.1.1. Bảo đảm quyền con người - Mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Cải cách tư pháp ở nước ta. ....................................64 3.1.2. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp ......................66 3.1.3. Các quan điểm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử của Tòa án. ................................68 3.2. Một số giải pháp, kiến nghị bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. ....................................................................................70 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS ...................................................70 3.2.2. Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể ..................................................74 3.2.3. Hoàn thiện cơ chế và giải pháp đảm bảo trên thực tế quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp. ..............................................80 PHẦN KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong các giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp là một trong những biện pháp bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Đây c ng là nội dung liên quan đến chủ trương và chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, thể hiện trong Nghị quyết số 0 NQ-TW ngày 2-12002 và Nghị quyết số 4 NQ-TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp 1 2, ộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định rất rõ quyền bào chữa của bị cáo là một trong những quyền Hiến định, có liên quan đến việc bảo đảm và thực hiện các quyền và tự do cơ bản khác của công dân. Trong những năm vừa qua, có thể khẳng định đội ng luật sư tham gia bào chữa nhằm giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo tại các phiên tòa hình sự ở Tòa án các cấp đã góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công lý, từng bước đảm bảo tranh tụng dân chủ tại phiên tòa. Tuy nhiên, nhiều vấn đề liên quan việc thủ tục xét cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, xác định giá trị pháp lý của các bản cung, lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra không có mặt người bào chữa; những trường hợp bắt buộc phải có mặt người bào chữa tại phiên tòa, c ng như việc giải quyết các yêu cầu của người bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử còn chưa được nhận thức và thực hiện thống nhất. Từ thực tiễn xét xử của các Tòa án địa phương và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy vấn đề lý luận và thực tiễn phát sinh liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp chưa được giải quyết một cách thấu đáo hoặc còn bị xem nhẹ. Mặt khác, vấn đề cơ chế giải quyết, bồi thường oan sai c ng như vấn đề bảo đảm quyền của bị cáo đang bị tạm giam khi bị hủy án điều tra, xét xử lại hoặc việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo khi xem lại bản án có hiệu lực pháp luật theo trình 2 tự giám đốc thẩm, tái thẩm c ng chưa được đặt ra và quy định trong pháp luật thực định. Vì vậy, vấn đề này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện các quy định nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án theo đúng tinh thần cải cách tư pháp. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương và triển khai chiến lược cải cách tư pháp, trong đó tại Nghị quyết số 49-NQ TW ngày 2 6 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Như vậy, có thể nói, việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn to lớn. Việc hoàn thiện các quy định trong tố tụng hình sự sẽ góp phần vào việc bảo đảm dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, tạo cơ hội cho bị cáo có thể tiếp cận với công lý. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam” là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Theo cách tiếp cận truyền thống, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo tại phiên tòa là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng nói chung và luật tố tụng hình sự nói riêng. Trước thời kỳ đổi mới (trước khi ban hành ộ luật Tố tụng hình sự), các quyền này của bị can, bị cáo có được ghi nhận nhưng việc thực hiện còn nhiều hạn chế và mang tính chất hình thức. Hiện nay, cùng với việc thực hiện đường lối cải cách tư pháp và đổi mới, vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án được chú trọng hơn. 3 Nhiều vụ án, thông qua hoạt động tranh tụng giữa người tiến hành tố tụng và Luật sư, sự thật khách quan đã được làm sáng tỏ. Liên quan đến đề tài này, ở phạm vi khái quát chung, đã có nhiều nhà nghiên cứu và thực hành nghề luật có nhiều tác phẩm được xuất bản và bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp chưa được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu. Là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự, nhưng những năm qua chỉ có một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành luật, phần bài giảng trong các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật và Học viện Tư pháp. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. - Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu, đưa ra những giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp. - Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: + Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung và của bị cáo trong giai đoạn xét xử nói riêng; + Nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử; + Phân tích các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa cho bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp; + Nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án; phân tích và đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 c ng như các văn bản hướng dẫn về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; 4 + Làm rõ yêu cầu khách quan của việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử; đề xuất hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cơ chế và các biện pháp đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử và thực tiễn xét xử ở một số địa phương phía Nam và tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2004 - 2010. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đề tài không nghiên cứu toàn diện về chế định Luật sư, người bào chữa theo quy định chung của pháp luật tố tụng mà chỉ tập trung nghiên cứ các quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn tố tụng xét xử tại Tòa án. Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án nhân dân (chủ yếu tập trung ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm) được nghiên cứu dưới góc độ cơ quan tiến hành tố tụng. 5. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật, về chủ trương cải cách tư pháp và tôn trọng, bảo vệ quyền con người. Đồng thời, trong quá trình hoàn thành Luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh, điều tra xã hội và khảo sát thực tiễn… 6. Bố cục của Luận văn. Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn dự kiến được kết cấu gồm 03 Chương với 09 mục. 5 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái quát chung về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. 1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Quyền bào chữa là một trong những quyền con người được luật pháp quốc tế ghi nhận thể hiện trong nhiều công ước khác nhau, được cụ thể hóa tại Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị có hiệu lực từ ngày 23/3/1976. Việt Nam đã tham gia Công ước này vào tháng 1 2. Quyền là một khái niệm để chỉ những điều mà “pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế” 1. “ ào chữa là việc dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án hoặc cho một việc làm đang bị lên án” 2. Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Tư Pháp năm 2006 (Tr.64 ) thì bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. àn về khái niệm quyền bào chữa, hiện nay có nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau về nội dung của quyền này. Tiến sỹ luật học Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng của ..., bị cáo trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng”3. Theo quan điểm này thì nội dung của quyền bào chữa đã vượt quá phạm vi quyền bào chữa của bị cáo bởi lẽ, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo được pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh rất nhiều, nhưng có những quyền không thuộc nội hàm của quyền bào chữa. Hơn nữa, theo thiển nghĩ, quan 1 Từ điển Tiếng Việt, Nxb Tư Pháp (2006), tr.648 Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng (2006), tr.38 3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, tr.59 2 6 điểm này cho rằng “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng” là chưa hợp lý mà phải là “tổng hợp các quyền” thì chính xác hơn. Thực tế, có nhiều quyền của bị cáo được ghi nhận trong tố tụng hình sự, nhưng c ng có một số quyền mà bị cáo có thể tự thực hiện khi pháp luật không quy định. Việc quy định hành vi bào chữa phải dựa trên cơ sở “phù hợp với quy định của luật tố tụng hình sự” là chưa bao hàm được hết nội hàm của khái niệm này vì trong thực tế bị cáo có thể tự bào chữa bằng cách “im lặng” hoặc dùng lý lẽ của mình để lập luận; hoặc đưa ra vật chứng để chứng minh sự vô tội hay tìm kiếm tình tiết giảm nhẹ cho chính bản thân mình. Luật tố tụng hình sự Việt Nam không cấm “im lặng” và c ng không yêu cầu bị cáo phải thể hiện qua lời nói phù hợp với pháp luật. Tiến sỹ Hoàng Thị Minh Sơn lại cho rằng “quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để chống lại sự buộc tội…”4. Nhìn ở góc độ của mình, tác giả chưa hoàn toàn nhất trí với quan điểm này vì nó chưa phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện nay. Trong luật tố tụng hình sự không quy định bất kỳ ai chống lại sự buộc tội, mà chỉ quy định những quyền để người bị buộc tội bảo vệ được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Cùng bàn về quyền bào chữa, tác giả chia sẻ với quan điểm PGS. TS Phạm Hồng Hải khi cho rằng: “Trong tố tụng hình sự, quyền bào chữa chỉ xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội”. ản chất của bào chữa là việc bảo vệ người bị buộc tội khỏi sự buộc tội, kết tội một cách oan sai của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự bằng cách đưa ra những lý lẽ, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ những phân tích trên có thể thấy, Quyền bào chữa có những đặc điểm sau: - Hành vi thực hiện quyền bào chữa là hành động chứ không phải không hành động 4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam . tr.49 7 - Quyền bào chữa chỉ thuộc về người nào đó bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam hoặc khi người đó bị cáo buộc đã phạm vào tội theo quy định của Bộ luật hình sự tức bị khởi tố, điều tra, truy tố, đặc biệt là bị xét xử trước Tòa án Trong Bộ luật tố tụng hình sự 1 và LTTHS năm 2003, các nhà lập pháp của nước ta đã nhận thức được ý nghĩa to lớn về chức năng bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự, từ đó đã cụ thể hóa quyền bào chữa – quyền hiến định của bị can bị cáo, nâng cao yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa cho các chủ thể trên thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự nước ta (Điều 11 – BLTTHS 2003). Quyền bào chữa của bị cáo được quy định khá rõ trong Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo đó, Quyền bào chữa là một quyền tố tụng quan trọng với hình thức thực hiện chức năng bào chữa cụ thể. Các chủ thể được quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để bác bỏ, phủ nhận sự buộc tội của Viện kiểm sát hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án. Họ có thể tự bào chữa, hoặc nhờ người bào chữa, hoặc kết hợp vừa nhờ người bào chữa vừa tự bào chữa. Việc nhờ người bào chữa không bị giới hạn về số lượng. Trong hoạt động tố tụng hình sự, quyền bào chữa là quyền quan trọng nhất của người bị tình nghi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng do bị cáo thực hiện nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự. Thông thường, sự tham gia của người bào chữa phụ thuộc vào ý chí của bị cáo. ị cáo có thể trực tiếp mời hoặc ủy quyền cho người thân của mình mời người bào chữa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt như: Người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, hoặc bị can, bị cáo bị đề nghị xử phạt về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình thì Luật tố tụng hình sự quy định phải có sự tham gia của người bào chữa mà không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo (K2, Đ57, LTTHS). Việc quy định này nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi cho bị cáo c ng như thể hiện tính nhân đạo của Bộ luật tố tụng hình sự nước ta. Mặt khác, việc quy định này nhằm tăng thêm tính bảo đảm quyền bào chữa cho những chủ thể này, khi mà sự tham gia của người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp 8 cho chính bị cáo mà còn có ích cho cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động bào chữa đối với hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội chính là yếu tố hạn chế sai lầm, hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này, đồng thời phải không ngừng hoàn thiện năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Cơ sở đầu tiên để bị cáo thực hiện quyền của mình chính là sự chủ động từ chính bị cáo hoặc gia đình của họ, thể hiện qua việc sử dụng quyền lựa chọn người bào chữa; hoặc từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua hình thức yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền cử người bào chữa cho bị cáo (đối với trường hợp chưa thành niên hoặc người có khả năng bị xử phạt ở khung hình phạt có mức án cao nhất là tử hình). Tiếp theo, nhiệm vụ phải tôn trọng các quyết định của bị cáo hoặc quyết định của tổ chức hoặc cơ quan có thẩm quyền, chức năng như Đoàn luật sư; Ủy ban Mặt trận tổ quốc, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước từ những cơ quan tiến hành tố tụng là cơ sở pháp lý tiếp theo để người bào chữa tham gia vào trong vụ án. Trên thực tế, quyền bào chữa là quyền chủ thể của bị cáo. Do vậy, trong các trường hợp thông thường thì chỉ ý chí của họ mới có tính tuyệt đối và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền này của họ. Tuy nhiên, đối với các trường hợp được quy định tại khoản 2, Điều 57 LTTHS thì quyền quyết định của các chủ thể này không còn tính tuyệt đối mà bị phụ thuộc vào sự xem xét quyết định của Tòa án trên cơ sở các căn cứ, điều kiện luật định. a) Mối quan hệ giữa quyền bào chữa với các quyền con người khác Nếu nhận thức quyền con người là một trong những giá trị nhân bản cao nhất mà bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều đề cao và bảo vệ thì quyền bào chữa chính là một trong những thành tố cấu thành nên quyền con người. Giữa quyền con người và quyền bào chữa luôn có mối quan hệ khăng khít. Quyền con người có phạm trù 9 rộng hơn quyền bào chữa, nó bao trùm, khái quát hơn trong khi đó quyền bào chữa chỉ là một trong những quyền con người. Quyền con người không phải là một khái niệm trừu tượng khi chúng ta xem xét nó trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền con người c ng không đơn thuần là thuộc tính bẩm sinh, vốn có của con người mà là một khái niệm mang tính lịch sử, gắn liền với các cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Chỉ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, nhà nước có sự vi phạm quyền con người thì vấn đề quyền con người mới được đặt ra. Tương tự như vậy, quyền bào chữa c ng mang thuộc tính lịch sử, gắn liền với sự hình thành và phát triển của nghề luật sư trên thế giới Ở mỗi thời kỳ, chế độ khác nhau thì quyền bào chữa được quy định khác nhau. Xét trên phương diện cá nhân thì quyền con người luôn có trước quyền bào chữa. Quyền con người xuất hiện ngay từ khi một người được sinh ra trong khi đó quyền bào chữa chỉ xuất hiện khi một chủ thể bị tình nghi là vi phạm pháp luật hình sự. Xét về góc độ lịch sử hình thành Nhà nước và pháp luật, theo nhiều nhà sử học và luật học, quyền bào chữa của người bị tình nghi phạm tội xuất hiện sớm nhất ở châu Âu cùng với sự xuất hiện của Tòa án. “Trong Nhà nước Hy Lạp cổ, khi tổ chức Tòa án đã hình thành, nguyên cáo hoặc bị cáo được nhờ người thân thuộc của mình bào chữa và việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè, người thân bị giai cấp thống trị bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán”5. Quyền này c ng được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam từ thời nhà Lê (142 - 1788) qua Bộ luật Hồng Đức (còn gọi là Lê Triều Hình Luật) có ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền được trình bày của người phạm tội khi xét xử một cách thấu tình, đạt lý...”6. 5 6 Nguyễn Văn Tuân (2001), Luật sư và hành nghề luật sư, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.5,6 Phan Trung Hoài (2006), Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, tr.21-24. 10 Nhìn từ quan niệm coi quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của con người có thể nói, sự phát triển của tư tưởng về quyền con người gắn liền với tiến trình phát triển, vận động của các quan điểm chính trị- triết học và pháp lý qua từng thời đại lịch sử khác nhau, từ thời kỳ cổ đại phương Tây cho đến thời kỳ xuất hiện triết học Mác – Lênin. Quan điểm của các nhà sáng lập triết học Mác – Lênin về quyền con người đã kế thừa những tinh hoa của các trào lưu tư tưởng chính trị pháp lý trước đó, đồng thời đã đưa ra những tư tưởng mới. Quan điểm này c ng khẳng định quyền con người là sự thống nhất giữa hai mặt tự nhiên và xã hội, trong đó mặt xã hội là yếu tố quyết định. Khi đề cập đến vấn đề quyền bào chữa của người bị tình nghi phạm tội, đặc biệt là bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo khi xét xử, không thể không đề cập đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với những trải nghiệm trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước, tiếp thu các tư tưởng pháp lý tiến bộ, bản thân bị chính quyền Hong Kong bắt giữ và đưa ra xét xử, với sự trợ giúp bào chữa của luật sư F.H. Loseby, ác Hồ là người thấu hiểu hơn ai hết vị trí, vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Điều này được phản ánh rõ nét trong các bài viết, tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo chí, trong đó thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn những tinh hoa tư tưởng pháp lý tiến bộ về quyền được hưởng sự công bằng của pháp luật và sự trợ giúp về mặt pháp lý, chỉ có thể được thể hiện một cách thực chất nhất khi dân tộc có được nền độc lập và tự do. Chính Người đã chuyển hóa một cách tài tình quan điểm về quyền tự do cá nhân trong tư tưởng pháp lý tư sản thành quyền của “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”7 được ghi nhận trong áng văn bất hủ “Tuyên ngôn độc lập”. Với việc ban hành Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1 45 quy định về tổ chức các đoàn thể luật sư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt tính kế thừa cách mạng, trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật c , miễn là nội dung không trái với các nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Kể từ đây 7 Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr.1 11 quyền bào chữa của bị cáo có một cơ sở pháp lý để tồn tại, phát triển và tạo điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện. Việc pháp luật Việt Nam quy định ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn về quyền bào chữa c ng là cách ngày càng hoàn thiện, bảo đảm thực thi quyền con người theo các cam kết và trách nhiệm quốc tế về quyền con người trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. b) Quyền bào chữa của bị cáo trong mối quan hệ giữa ba chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử. Các công trình, tài liệu do các nhà nghiên cứu và hành nghề luật ở Việt Nam công bố thời gian qua cho thấy diện mạo chung về cách hiểu chức năng bào chữa trong mối quan hệ với các chức năng buộc tội và chức năng xét xử chưa được thống nhất. Điều này phản ánh không chỉ ở sự giao thoa, tiếp thu những điểm, mặt tiến bộ của các mô hình tố tụng hình sự cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế- xã hội của Việt Nam, mà còn có ý nghĩa trong việc làm rõ bản chất, nội hàm của chức năng bào chữa, nhận thức về quyền bào chữa như là một thành trì cần thiết để thực hiện các quyền tự do, dân chủ khác của công dân, c ng như vị trí của người bào chữa trong tiến trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng nói chung và góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa nói riêng. Ông Christopher Maxwell, (công tố viên cao cấp bang New South Wales Australia) cho rằng “một xã hội lành mạnh đòi hỏi phải quản lý các công dân bằng hệ thống pháp luật- một hệ thống cần phải đạt được sự cân bằng giữa các quyền của những người bị buộc tội và quyền của các cộng đồng trông chờ những người đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ” 8. Nhìn từ góc độ lý luận, chức năng gỡ tội tồn tại song song với chức năng buộc tội như là nhu cầu tất yếu khách quan. Khi chưa xác định ai là người bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc chưa bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì tố tụng hình sự chưa xuất hiện chức năng bào chữa. 8 Christopher Maxwell (2010), Nhân quyền và quá trình thực hành quyền công tố, Tài liệu hội thảo quốc tế “Quyền con người trong TTHS” do VKSNTC tổ chức tại TPHCM, tr.01 12 Khi có người bị bắt và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giữ hoặc có người mặc dù không bị bắt và không áp dụng biện pháp ngăn chặn nêu trên nhưng bị nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội thì trong tố tụng hình sự đã bắt đầu xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Buộc tội trong tố tụng hình sự được quan niệm là hành vi của cơ quan tố tụng hình sự xác định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã được xác định. Chính bắt đầu từ thời điểm này trong tố tụng hình sự xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, đồng thời quá trình tranh tụng được tiếp tục cho đến khi tố tụng hình sự kết thúc. Theo quan điểm này, “chức năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử nữa” 9. Nhóm tác giả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã nhận định “TTHS không được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng của nó là chức năng bào chữa” và “tranh tụng chính là sự xác định mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa như là sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập”. Sự đấu tranh nhằm phủ định giữa hai chức năng này chính là “động lực làm cho hoạt động TTHS vận động và phát triển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác làm thay đổi bản chất của vụ án hình sự, từ ch chưa xác định được sự thật khách quan của vụ án đến ch sự thật đó được làm sáng tỏ”10. Theo tiêu chí ưu tiên bảo đảm quyền con người trong TTHS thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là nhóm chủ thể mà bảo đảm quyền con người của họ được ưu tiên trước hết bởi lẽ quyền con người của nhóm chủ thể này có nguy cơ bị hạn chế, bị xâm phạm nhiều nhất trong hoạt động TTHS. Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS là một trong những chỉ số phản ánh tính dân chủ, tính nhân đạo của pháp luật TTHS. Theo một quan niệm khác, xem xét chức năng gỡ tội được coi là đối trọng của chức năng bào chữa xuất phát từ địa vị pháp lý và cách thức sử dụng các biện pháp 9 Phạm Hồng Hải (1 ), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội , Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 26-38 10 Nguyễn Thái Phúc và nhóm tác giả (2009), Bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt NamĐề tài nghiên cứu khoa học cấp ộ, T rường Đại học Luật TPHCM, tr.126 13 thực hiện chức năng đó khác nhau. Chức năng buộc tội, cùng với chức năng xét xử được hậu thuẫn bởi các biện pháp cưỡng chế do Nhà nước đặt ra và trước quyền lực cưỡng chế ấy, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có nguy cơ bị xâm hại. Do đó, việc bảo đảm quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa, c ng như quyền của người bào chữa được coi là điều kiện tất yếu cho việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng một cách công bằng, tạo cơ hội cho người bị buộc tội khả năng tiếp cận với công lý và TTHS có được bản chất dân chủ của nó. Môi trường pháp lý tạo điều kiện cho việc thực hiện chức năng gỡ tội được thể hiện thông qua việc “Nhà nước có biện pháp đảm bảo cho người bào chữa được thực hiện các kỹ năng chuyên môn của họ mà không bị đe dọa, cản trở, quấy rối hoặc can thiệp không đúng đắn, cũng như người dân, người bị tình nghi phạm tội có thể tiếp cận một cách bình đẳng và hiệu quả đối với các dịch vụ pháp lý mà người bào chữa cung cấp” 11. Có thể nhận thấy, các quan niệm nói trên đã bước đầu làm rõ được các chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, trong mối quan hệ với chức năng xét xử. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề cơ chế và điều kiện bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, cùng với nó là giải quyết những vướng mắc trong tổng thể vận hành chung của cả hệ thống tư pháp, giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng chưa được quan tâm đúng mức. Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy rõ sự lúng túng giữa sự đi trước về mặt lý luận khoa học pháp lý và nhận thức, với thực trạng cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật, những cản ngại đối với sự tham gia của người bào chữa trong các giai đoạn TTHS. Điều này dẫn đến bức xúc trong dư luận người dân, có ảnh hưởng đến niềm tin vào tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Như vậy, có thể khẳng định, việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo chỉ có thể được thực thi trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản của TTHS, xác định rõ những đặc trưng cơ bản của mô hình TTHS Việt Nam và địa vị pháp lý của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, trong đó có hai chủ thể quan 11 Phan Trung Hoài (2010), Về địa vị pháp lý và vai trò của người bào chữa nhằm thực hiện chức năng gỡ tội trong TTHS- Tham luận Đề tài khoa học cấp ộ của VKSNDTC, Hà Nội. 14 trọng trong quá trình đảm bảo quyền bào chữa trong các phiên tòa xét xử các cấp là bị cáo và người bào chữa. 1.1.2. Quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp: Nghiên cứu vấn đề quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp không thể không đề cập đến vị trí của Tòa án trong mô hình TTHS của một quốc gia. Về phương diện lý luận, “mô hình tố tụng hình sự theo cách hiểu chung nhất, là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án, có thể là hoạt động tích cực của các bên tranh tụng hay là hoạt động tích cực của Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác hay là sự kết hợp cả hai” 12. Cho dù cách thức tổ chức tố tụng hình sự như thế nào thì khả năng tìm kiếm công lý thông qua việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tình nghi phạm tội, trong đó bị cáo là một chủ thể quan trọng, vẫn phải được coi là định hướng cơ bản trong việc xác định Tòa án phải nắm địa vị tố tụng là người trọng tài khách quan. Theo quan điểm này tố tụng hình sự là “một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, mà ở đó việc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là không thể tránh khỏi và các quyền và lợi ích đó có thể bị xâm phạm một cách nghiêm trọng” 13. Bởi lẽ, hoạt động TTHS là lĩnh vực hoạt động có thể dẫn đến sự xung đột giữa hai lợi ích đều cần được bảo vệ là lợi ích chung của nhà nước, của xã hội và lợi ích riêng của cá nhân – chủ thể tham gia vào hoạt động TTHS. Những biện pháp cưỡng chế bảo vệ xã hội chống lại các hành vi tội phạm nguy hiểm đến lượt mình có thể trở thành mối đe dọa thực tế với quyền con người nếu như vi phạm các quy định của luật về điều kiện, trình tự, thủ tục, căn cứ áp dụng. Trên cách tiếp cận này, điều quan trọng không chỉ là ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự các 12 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đề án mô hình TTHS Việt Nam, tr.4 Nguyễn Thái Phúc, Bảo đảm quyền con người trong TTHS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam- Tham luận tại Hội thảo quốc tế do VKSND tối cao tổ chức tại TP Hồ Chí Minh ngày 23 và 24 03 2010. 13 15 quyền và tự do Hiến định của công dân dưới hình thức những quyền tố tụng cơ bản mà công dân có được khi tham gia với những tư cách tố tụng cụ thể, mà còn là vấn đề bảo đảm một cách hiện thực các quyền và tự do đó trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Quyền bào chữa được thể hiện dưới hai hình thức: bào chữa do chính bị cáo tự thực hiện và bào chữa thông qua sự giúp đỡ của người bào chữa. Hai hình thức này có thể tiến hành song song hoặc không tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa có tác dụng bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Điều đó có nghĩa là khi bị cáo nhờ người khác bào chữa cho mình thì họ vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại như: LTTHS quy định tại phiên toà sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này vẫn bào chữa cho bị cáo. ị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. * Về quyền tự bào chữa. Tự bào chữa là một trong những hình thức để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Đó là quyền năng tố tụng đặc thù của bị cáo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép họ tự mình thực hiện các hành vi tố tụng và biện pháp bào chữa theo quy định của pháp luật nhằm minh oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Quyền tự bào chữa xuất hiện sớm, ở mọi thời điểm của các giai đoạn tố tụng hình sự, đối với tất cả các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Tham gia tố tụng hình sự bị cáo có những quyền tố tụng nhất định để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung các Điều 3 , 34, LTTHS năm 1 , trong đó tách quy định về bị can, bị cáo tại Điều 34 thành những quy định riêng tại
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan