đồng viễn tạo có điều khiển trạng thái lượng tử một qubit bất kì trong môi trường nhiễu
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Khoa Vật lí
Khóa luận tốt nghiệp
ĐỒNG VIỄN TẠO CÓ ĐIỀU KHIỂN
TRẠNG THÁI LƯỢNG TỬ MỘT QUBIT BẤT KÌ
TRONG MÔI TRƯỜNG NHIỄU
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Văn Hợp
2
Lời cảm ơn
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn đến thầy Nguyễn Văn Hợp,
người đã hết lòng dạy dỗ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các quý thầy cô khoa Vật lí - Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Vật lí Lí thuyết đã
nhiệt tình giảng dạy, chỉ bảo cho tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại khoa.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã luôn
bên tôi và khích lệ tôi trong suốt thời gian học tập và làm việc.
Hà Nội, tháng 5 -2016
Sinh viên
3
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
2
Mở đầu
3
Chương I. Một số khái niệm cơ bản
8
I.1. Bit lượng tử
8
I.2. Rối lượng tử
10
I.3. Độ rối lượng tử
13
I.4. Cổng logic lượng tử
18
I.5. Tạo rối lượng tử
27
I.6. Phép đo lượng tử
29
Chương II. Một số giao thức truyền trạng thái lượng tử cơ bản
32
II.1. Viễn chuyển trạng thái lượng tử.
32
II.2. Viễn tạo trạng thái lượng tử
34
II.3. Đồng viễn tạo trạng thái lượng tử
36
Chương III. Đồng viễn tạo trạng thái lượng tử của một qubit bất kì có
điều khiển trong môi trường nhiễu
42
III.1. Đồng viễn tạo tất định trạng thái lượng tử của một qubit bất kì
có điều khiển
42
III.1.1. Các bước của giao thức
42
III.1.2. Quyền lực của người điều khiển
47
III.2. Đồng viễn tạo trạng thái lượng tử của một qubit bất kì có điều
khiển trong môi trường nhiễu
51
4
III.2.1. Các loại kênh nhiễu.
51
III.2.2. Người điều khiển tạo ra kênh lượng tử ban đầu
53
III.2.3 Người tạo ra kênh lượng tử không tham gia giao thức
56
Thảo luận kết quả và kết luận
59
Tài liệu tham khảo
63
Mở đầu
Cơ học lượng tử (quantum mechanics) là một trong những thành tựu trí tuệ
tột đỉnh của nhân loại trong thế kỉ 20. Ngày nay, cơ học lượng tử đã trở
thành một phần không thể thiếu trong hành trang của các nhà vật lí. Các
nguyên lí của cơ học lượng tử là nền tảng cho sự ra đời của laser, transistor,
kính hiển vi điện tử hay đi-ốt ... Kì lạ hơn nữa, các tính toán của nó đã tiên
đoán về tính chất của các hạt cơ bản phù hợp với phép đo thực nghiệm với
độ chính xác cao đến kinh ngạc. Mặc dù vậy, ngay từ khi mới ra đời, lí
thuyết lượng tử đã vấp phải sự phản đối của nhiều nhà vật lí, đặc biệt là
Alber Einstein. Ông phủ nhận tính không đầy đủ của lí thuyết lượng tử, đối
với ông luôn tồn tại một hiện thực khách quan, độc lập với nhận thực của
chúng ta, dù ở bất kì cấp độ vĩ mô hay vi mô. Ông không công nhận tính xác
suất của sự tồn tại các trạng thái lượng tử với quan điểm " Chúa không chơi
xúc xắc ". Đặc biệt, vào năm 1935, Einstien cùng với hai đồng nghiệp của
mình là Poldosky và Rosen đã nêu ra nghịch lí EPR nổi tiếng trong bài báo
mang tên " Can quantum-mechanical description of physical reality be
considered complete ? "[1]. Bài báo mô tả một thí nghiệm giả tưởng rằng hai
hạt xuất phát từ một nguồn giả định EPR và đi xa nhau sao cho giữa chúng
luôn có tính chất tương quan với nhau. Khi đó, theo lập luận EPR thì khi ta
xác định tính chất của một hạt thì ngay lập tức ta biết được tính chất của hạt
còn lại mà không cần thực hiện phép đo (cụ thể tính chất ở đây là tọa độ và
xung lượng) và theo các giả thuyết mà Einstein đề cập trong bài báo (giả
thuyết hiện thực "reality" và giả thuyết định xứ "locality") thì điều này trái
với "nguyên lí bất định Heisenberg" của cơ học lượng tử. Mãi đến năm
1964, bằng việc đưa ra một bất đẳng thức mới, John Bell đã kiểm chứng
5
được tính đúng đắn trong lập luận của EPR. Bài học theo như Heisenberg đã
chỉ ra trong bản thảo của ông về quan điểm của Einstein là : " Thực tại theo
cơ học lượng tử không giống như thực tại trong cổ điển, bất kể Einstein có
thích điều đó hay không ". Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng, cơ học lượng
tử là một lí thuyết đầy đủ, vô cùng hữu ích, đã được kiểm nghiệm chi tiết và
đồng thời cũng rất đáng tin cậy. Tuy vậy, dù cho chúng ta có quen thuộc với
các tính chất của cơ học lượng tử đến mức nào đi nữa thì đa phần các nhà
vật lí vẫn luôn cảm thấy có điều gì đó thật lạ lùng, khó nắm bắt được trong
cơ học lượng tử. Những thập niên cuối thế kỉ 20, dựa trên những tính chất lạ
kì của cơ học lượng tử, ngành khoa học thông tin lượng tử ra đời, hứa hẹn
tiềm năng phát triển to lớn trong tương lai .
Khoa học thông tin lượng tử là một lĩnh vực mới của khoa học, nó
được xây dựng dựa trên các quy luật của nhiều ngành khoa học cơ bản như
vật lí, toán học, khoa học máy tính và kĩ thuật. Mục đích của thông tin lượng
tử là khai thác các tính chất đặc biệt của cơ học lượng tử để cải thiện một
cách tối ưu nhất vào các quá trình truyền tải và xử lí thông tin. Sự phát triển
bùng nổ của thông tin lượng tử trong thời gian gần đây bắt nguồn từ hai
nguyên nhân sau. Thứ nhất là lí thuyết thông tin cổ điển của Shanon đưa ra
năm 1948, tuy đã đạt được những thành công to lớn nhưng không thể phủ
nhận nó còn rất nhiều hạn chế, chính những hạn chế này là động lực cho sự
phát triển của thông tin lượng tử. Thứ hai, trong những năm gần đây, nhờ sự
phát triển của khoa học công nghệ, các thí nghiệm hiện đại với độ chính xác
cao được thực hiện, cho phép chúng ta kiểm chứng được các tính chất lượng
tử của các hệ lượng tử tinh vi. Thí nghiệm thực hiện năm 2007 của Alain
Aspect khi nghiên cứu tính chất của cặp photon thu được từ một photon đi
qua tinh thể có tính chất "phi tuyến" đã chứng tỏ 2 giả thuyết mà Einstein
đưa ra là sai lầm và mang lại cho ông và các đồng nghiệp giải thưởng Wolf
về nghiên cứu này. Nổi bật nhất trong thời gian gần đây là giải Nobel 2012
cho hai nhà khoa học Serge Haroche và David J.Wineland, những người đã
phát minh ra các phương pháp để thực hiện các thao tác cần thiết trên các hạt
hoặc các hệ lượng tử riêng lẻ mà vẫn bảo toàn được bản chất lượng tử của
chúng, mở ra một kỉ nguyên mới cho các nghiên cứu sâu rộng về thông tin
lượng tử.
6
Theo lí thuyết thông tin cổ điển, một thực thể vật lí có thể tồn tại ở một trong
hai trạng thái mà trong kĩ thuật ta gọi là 0 hoặc 1 hay còn gọi là các bit cổ
điển. Thông tin bất kì có thể mã hóa được bằng một dãy số chỉ gồm hai bit
đơn giản này. Trong truyền thông cổ điển, việc bảo mật thông tin là hết sức
quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Hiện nay, loại mật mã đang có độ bảo
mật cao nhất đó là mật mã RSA. Đối với các máy tinh cổ điển thì loại mật
mã này được coi là "không thể phá vỡ" vì thời gian giải mã lên tới vài tỉ
năm. Nhưng khi sử dụng máy tính lượng tử, dựa trên tính chất "song song
lượng tử", quá trình xử lí tính toán được tăng tốc theo hàm số mũ giúp cho
quá trình giải mã có thể diễn ra trong giây lát. Đây chính là ưu thế tuyệt đối
của máy tính lượng tử so với máy tính cổ điển. Tuy nhiên, điều này lại tạo
nên mối lo ngại cho các quốc gia bởi bên cạnh sự ra đời của máy tính lượng
tử, chúng ta lại cần phải có những loại mật mã mới có độ bảo mât cao hơn,
những giao thức truyền tin mới đảm bảo bí mật hơn. Xuất phát từ lí do đó,
nhiều phương thức truyền tin lượng tử mới đã được đưa ra và nghiên cứu.
Tất các các giao thức này đều dựa trên một tính chất đặc biệt kì lạ của cơ
học lượng tử, đó là rối lượng tử (quantum entanglement). Một cặp hạt khi
được rối lượng tử với nhau có tính chất lạ lùng như sau: hai hạt rối với nhau
dường như được nối bởi một sợi dây vô hình bí ẩn, dù tách hai hạt ra xa đến
mấy (cho dù xa tới vô cực), khi đo trạng thái hạt này ngay lập tức sẽ ảnh
hưởng tới trạng thái hạt còn lại một cách tức thời. Hiện tượng ảnh hưởng của
phép đo thực hiện trên một hạt này đối với hạt cách xa là một hiện tượng
"phi định xứ" (non-locality).Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đã biết đây là một
hiện tượng thuần túy cơ học lượng tử. Trong những năm gần đây, hiện tượng
rối lượng tử đã mở ra những triển vọng to lớn trong lĩnh vực thông tin lượng
tử: Viễn chuyển trạng thái lượng tử [2], viễn tạo trạng thái lượng tử [3-4],
đồng viễn tạo trạng thái lượng tử [5-8]... hay trong lĩnh vực bảo mật thông
tin: mật mã lượng tử [9].
Viễn chuyển trạng thái lượng tử (Quantum Teleportation) là giao thức điển
hình cho việc ứng dụng rối lượng tử vào truyền thông lượng tử. Giao thức
này lần đầu tiên được để xuất bởi Charles H. Bennett, Gilles Brassard,
Claude Crépeau, Richard Jozsa, Asher Peres, và William K. Wootters vào
năm 1993. Bài toán được đặt ra là Alice và Bob đang ở rất xa nhau và Alice
được giao một nhiệm vụ là phải gửi cho Bob một trạng thái lượng tử mà cả
hai đều không biết thông tin gì về trạng thái này. Đây thực sự là một bài toán
7
khó bởi theo lí thuyết cơ học lượng tử, một trạng thái lượng tử không biết thì
không thể đọc và cũng không thể sao chép. Do vậy, Alice không thể đọc
được trạng thái này để gửi thông tin về nó cho Bob. Mặc khác, nếu trạng thái
này trực tiếp được gửi đi trong không gian thì nó hoàn toàn có khả năng bị
thất lạc hoặc đánh cắp sau đó làm giả trạng thái, v.v… May mắn rằng họ đã
được tạo với nhau một cặp rối từ trước nên nhiệm vụ này có thể được hoàn
thành chỉ bằng việc Alice gửi đi một lượng nhỏ bit cố điển thông báo kết quả
phép đo trên các qubit của mình để Bob thu được trạng thái gốc chỉ bằng các
thao tác địa phương. Giao thức trên chỉ thực hiện được khi Alice có trạng
thái lượng tử cần truyền đi, vậy nếu cô ta chỉ biết thông tin cổ điển về trạng
thái này thì có tạo được trạng thái lượng tử ở nơi Bob không? Để giải quyết
tình huống này một giao thức truyển tin lượng tử khác đã ra đời.
Giao thức truyền tin khi người gửi biết toàn bộ thông tin cổ điển về trạng
thái cần gửi gọi là "Viễn tạo trạng thái lượng tử" (Remote state preparation).
Để thực hiện giao thức này thì trước đó Alice và Bob cũng phải chia sẻ với
nhau một nguồn rối. Trong giao thức này, Alice sẽ thực hiện phép đo Von
Neumann lên qubit mình đang nắm giữ dựa trên hệ cơ sở phụ thuộc vào
thông tin cổ điển của trạng thái gốc đã biết và gửi kết quả đo qua một kênh
cổ điển cho Bob và Bob sẽ sử dụng toán tử phục hồi địa phương để thu lại
được trạng thái gốc. So với viễn chuyển trạng thái lượng tử thì viễn tạo trạng
thái lượng tử cần dùng ít bit cổ điển hơn nhưng xác suất thành công lại nhỏ
hơn. Đặc biệt, nhược điểm của giao thức này đó là thông tin về trạng thái
cần gửi đã được tiết lộ hoàn toàn cho người gửi và hoàn toàn có thể xảy ra
trường hợp người gửi sẽ làm lộ thông tin cho người khác biết. Một ý tưởng
trong những năm gần đây để giải quyết bài toán bảo mật ngay cả khi người
gửi là không đáng tin cậy đó là giao thức "Đồng viễn tạo trạng thái lượng tử"
(Joint remote state preparation). Trong giao thức này, thay vì chỉ có một
người gửi thì sẽ có nhiều người tham gia gửi tin. Thông tin về trạng thái cần
gửi sẽ được phân phối cho những người truyền tin theo một cách mà chỉ có
người giao nhiệm vụ được biết nhờ đó tránh được tình trạng mất toàn bộ
thông tin cần gửi.
Nhiệm vụ đặt ra chủ yếu trong đồng viễn tạo trạng thái
lượng tử đó là việc phân bố rối, tìm ra chiến thuật để thực hiện quá trình
truyền tin một cách đơn giản, tiết kiệm và quan trọng là thu được xác suất
thành công cao. Giao thức đồng viễn tạo trạng thái lượng tử có xác suất
thành công là 1 được gọi là "giao thức tất định" (deterministric protocol). Để
8
thu được kết quả trên thì các giao thức phải sử dụng các nguồn rối cực đại.
Trong thực tế, các nguồn rối sau khi chế tạo nếu không sử dụng ngay thì do
tương tác với môi trường, tính kết hợp của chúng bị suy giảm từ đó làm suy
giảm rối. Để khắc phục nhược điểm này, giao thức ‘Đồng viễn tạo trạng thái
lượng tử có điều khiển’ (Controlled joint remote state preparation) ra đời.
Giao thức này sử dụng nguồn rối không cực đại và bổ sung một người giám
sát quá trình truyền tin gọi là người điều khiển. Người điều khiển này có thể
đồng ý cho quá trình truyền tin đi nếu thấy an toàn và cũng có thể không cho
quá trình truyền tin được thực hiện khi thấy không an toàn hoặc gian lận.
Như vậy, đồng viễn tạo trạng thái lượng tử có điều khiển là an toàn và bí mật
hơn, do đó trong luận văn này chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về giao thức
này.
Trong các giao thức truyền tin lượng tử, các qubit ban đầu được tạo
rối với nhau và tạo thành kênh lượng tử. Sau đó, chúng sẽ được phân phối
tới những người được giao nhiệm vụ trong giao thức. Trong quá trình phân
phát này, các qubit sẽ tương tác với môi trường. Sự tương tác này sẽ làm suy
giảm biên độ và pha của qubit, từ đó làm ảnh hưởng tới chất lượng của quá
trình truyền tin. Vì vậy, dưới góc nhìn thực tế, việc nghiên cứu các giao thức
đồng viễn tạo có điều khiển trong môi trường nhiễu là thực sự cần thiết và
hữu ích. Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp này, chúng tôi cũng xem
xét quá trình truyền tin dưới sự tác động của hai kênh nhiễu đặc trưng, đó là
kênh nhiễu suy giảm pha (phase-damping channel) và kênh nhiễu suy giảm
biên độ (amplitude-damping channel).
Bố cục của khóa luận gồm có các chương sau đây:
* Mở đầu: Trình bày tổng quan lĩnh truyền tin lượng tử và những nhiệm vụ
của khóa luận cần làm.
* Chương I: Trình bày các khái niệm cơ bản.
* Chương II: Trình bày các giao thức truyền tin cơ bản trong truyền thông
tin lượng tử.
* Chương III: Trình bày giao thức đồng viễn tạo có điều khiển trạng thái
lượng tử một qubit bất kì trong môi trường nhiễu
9
Chương I. Một số khái niệm cơ bản
I.1. Bit lượng tử
Bit lượng tử (quantum bit) hay qubit là là đơn vị thông tin cơ bản trong
truyền thông lượng tử. Qubit được sử dụng để lưu trữ, truyền tải và xử lí
thông tin dựa trên nền tảng lí thuyết lượng tử.
Trạng thái lượng tử của một qubit được biểu diễn dưới dạng một véc tơ đơn
vị trong không gian Hilbert hai chiều như sau:
0 1 ,
(1.1)
trong đó
2
2
1
,
là các số phức thỏa mãn điều kiện chuẩn hóa
, và
{0 ,1}
hệ hai véc tơ
không gian đó.
lập thành một hệ cơ sở trực giao và chuẩn hóa trong
Nếu như bit cổ điển chỉ có thể nhận một trong hai giá trị là 0 hoặc 1 thì trạng
0
1
thái của một qubit là tổ hợp tuyến tính của cả hai trạng thái
và , do vậy
lượng thông tin mà một qubit chứa đựng là lớn hơn rất nhiều so với bit cổ
điển. Chính từ ưu thế này đã làm cho thông tin lượng tử có những ưu điểm
mà thông tin cổ điển không có được. Chẳng hạn như đối với việc phân tích
một số ra thừa số nguyên tố, Đối với máy tính thông thường, thời gian cần
thiết để phân tích sẽ tăng theo hàm mũ với độ dài của số cần phân tích. Tuy
nhiên với máy tính lượng tử, theo thuật toán Shor, thuật toán do nhà toán học
Peter Shor tìm ra năm 1994 để phát triển riêng cho bài toán phân tích ra thừa
10
số nguyên tố, thì quá trình này chỉ tiêu tốn thời gian tăng theo lũy thừa bậc
ba của độ dài số cần phân tích. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ cho những điều
kinh ngạc mà máy tính lượng tử có thể tạo ra.
Bên cạnh lượng thông tin khổng lồ có thể lưu trữ, qubit còn có đặc điểm
khác biệt so với bit cổ điển như sau. Khi tiến hành đo bit cổ điển ta chỉ thu
được một trong hai giá trị xác định là 0 hoặc 1, còn khi đo giá trị của qubit
thì ta sẽ nhận được ngẫu nhiên một trong hai giá trị với xác suất nhất định
{0 ,1}
nào đó. Ví dụ như khi đo trạng thái (1.1) trong hệ cơ sở
được kết quả là
2
0
với xác suất là
ta sẽ thu
1
và thu được kết quả là
với xác suất
2
. Ta không thể xác định toàn bộ thông tin về trạng thái (1.1) (cả và )
chỉ trong một lần đo vì ngay sau phép đo trạng thái ban đầu đã bị phá hủy.
Vậy chúng ta có thể ra làm nhiều bản sao để thực hiện nhiều phép đo nhằm
lấy toàn bộ thông tin của trạng thái ban đầu được không ? Điều này cũng
không thể xảy ra vì sự sao chép này bị "định lí không thể nhân bản một
trạng thái lượng tử bất kì " [10] ngăn cản.
2
2
1
Từ điều kiện chuẩn hóa
dạng:
ta có thể viết lại trạng thái (1.1) dưới
ei cos 0 ei sin 1
2
2
,
(1.2)
trong đó
, ,
đều là các số thực. Các trạng thái lượng tử chỉ xác định chính
xác đến một thừa số pha nên
biểu diễn như sau:
ei
có thể bỏ qua, trạng thái (1.2) có thể được
cos 0 ei sin 1 .
2
2
(1.3)
11
,
Các tham số
xác định một điểm trên mặt cầu ba chiều bán kính đơn vị
được biểu diễn trong hình 1.1. Mặt cầu này thường được gọi là mặt cầu
Bloch, véc tơ trạng thái
số:
được biểu diễn bởi véc tơ
là góc hợp bởi hình chiếu của
là góc hợp bởi
r
r
và trục Oz. Khi
r
r
r
r
xác định bởi 2 thông
xuống mặt phẳng xOy với trục x còn
và
thay đổi thì ngọn của
r
r
quét hết
các điểm trên mặt cầu tương ứng với các trạng thái có thể tồn tại của
.
Hình 1.1: Mặt cầu Bloch có bán kính
đơn vị dùng để biểu diễn hình học
cho trạng thái của một qubit. Mỗi
một vị trí trên mặt câu tương ứng với
một trạng thái của qubit được đặc
,
trưng bởi hai tham số
.
Ta cũng có thể biểu diễn trạng
thái của một qubit dưới dạng ma
trận mật độ :
rur
1
( I r ).
2
(1.4)
Về mặt nguyên tắc, bất kì hệ lượng tử có hai trạng thái không suy biến cũng
có thể dùng để biểu diễn qubit. Nếu hệ lượng tử là photon thì qubit được
biểu diễn bởi các trạng thái phân cực của chúng, nếu hệ lượng tử là nguyên
tử thì qubit được biểu diễn bởi trạng thái cơ bản và trạng thái kích thích của
nó ...
I.2. Rối lượng tử
Như đã đề cập ở chương trước, rối lượng tử [11] (Quantum entanglement) là
nguồn tài nguyên không thể thiếu được trong truyền tin lượng tử. Chúng ta
sẽ cùng tìm hiểu xem rối lượng tử là gì.
12
Xét trạng thái lượng tử của N qubit (N ≥ 2) xác định trong không gian
N
Hilbert 2 chiều
H H1 H 2 ... H N
ψ123
N
có dạng:
1 00 00 2 00 01 2 11 11 123 N ,
N
(1.5)
trong đó, Hi (i = 1,2, ..., N) là không gian Hilbert 2 chiều ứng với qubit thứ i,
2N
αi
các hệ số
123...N
thỏa mãn điều kiện chuẩn hóa
i 1
2
i 1
. Nếu trạng thái
có thể biểu diễn được dưới dạng:
123...N
1 2 ... N ,
(1.6)
i H i ,i 1, N
với
, thì ta nói trạng thái
tích của N qubit. Còn nếu:
123...N
là trạng thái rời hay trạng thái
123...N
1 2 ... N ,
(1.7)
123...N
thì
được gọi là trạng thái rối của N qubit. Vậy rối lượng tử có tính
chất đặc biệt như thế nào mà người ta lại quan tâm đặc biệt tới nó như vậy?
Rối lượng tử là một trong những điều kì bí nhất của thế giới lượng tử. Khi
các hạt lượng tử được rối với nhau chúng ta không thể biết được trạng thái
riêng của từng hạt nhưng ta có thể biết trạng thái tồn tại chung của cả hệ hạt,
muốn biết được trạng thái riêng của từng hạt ta phải tiến hành phép đo lên
chúng. Điều này làm nên sự khác biệt giữa cơ học cổ điển và cơ học lượng
tử. Nếu như trong cơ học cổ điển, khi các hệ con không tương tác thì sự tác
động bên ngoài vào một hệ con này không có ảnh hưởng gì đến các hệ con
còn lại. Còn đối với các hệ lượng tử khi đã được rối với nhau thì chúng
13
không còn độc lập với nhau mặc dù ta không cho chúng tương tác với nhau
nữa, mỗi phép đo lên một hệ con bất kì trong các hệ con đã được rối với
nhau đều làm ảnh hưởng tức thời tới các hệ con còn lại, quá trình này không
phụ thuộc vào khoảng cách giữa các hệ con. Rối lượng tử trở thành đề tài
được nghiên cứu nhiều bậc nhất trong các tính chất của hệ lượng tử, nó đã
trở thành nguồn tài nguyên không thể thiếu được trong nhiều nhiệm vụ mới
như: viễn chuyển trạng thái lượng tử, viễn tạo trạng thái lượng tử, mật mã
lượng tử...
Chúng ta xét một trường hợp cụ thể với trạng thái tổng quát của 2 qubit
trong không gian Hilbert 4 chiều, với hệ cơ sở là 4 véctơ trực giao và chuẩn
00 , 01 , 10 , 11
hóa
dưới dạng:
, khi đó trạng thái tổng quát của 2 qubit được viết
12
(1 00 2 01 3 10 4 11 )12 ,
(1.8)
2
với
2
2
2
1 2 3 4 1
.
Tùy thuộc vào giá trị của các hệ số
i
(i = 1, 2, 3, 4) mà trạng thái (1.7) có
thể là trạng thái rối hoặc trạng thái rời. Ví dụ, nếu
1 3 a / 2
và
2 4 1 / 2
thì trạng thái (1.8) có thể viết được thành tích tenxơ của hai
trạng thái của từng qubit như sau:
12
1
1
(a 00 01 a 10 11 )12 ( 0 1 )1 (a 0 1 ) 2 .
2
2
(1.9)
14
Tuy nhiên, không phải lúc nào trạng thái (1.8) cũng có thể viết thành tích hai
trạng thái rời của từng qubit như trên, ví dụ: nếu
2 3 0
1 4 1 / 2
và
thì:
12
12
B00
12
1
( 00 11 )12 ,
2
(1.10)
đây chính là trạng thái
rối còn lại có dạng:
, một trong bốn trạng thái rối Bell. Ba trạng thái
12
B10
12
1
( 00 11 )12 ,
2
(1.11)
12
B01
12
1
( 01 10 )12 ,
2
(1.12)
12
B11
12
1
( 01 10 )12 .
2
(1.13)
Tổng quát, ta có bốn trạng thái rối Bell có thể được xác định bởi công thức:
Bmn
12
1 1
ml
1 l
2 l 0
1
l n 2,
(1.14)
với
là phép cộng nhị phân và m, n = {0, 1}.
15
Đối với rối ba hạt ta có trạng thái W và GHZ có dạng như sau:
W
123
1
( 100 010 001 )123 ,
2
(1.15)
GHZ kmn
123
1 1
lk
1 l , l m, l n
2 l 0
123
.
(1.16)
Trạng thái rối ba GHZ tổng quát (1.16) lập thành một hệ gồm tám véc tơ cơ
sở cho phép đo GHZ.
Đối với rối N hạt (N>3) ta có các trạng thái rối thường gặp sau:
GHZ
12 N
Rối GHZ [16]:
1
00 0 11 1
2
12 N
.
(1.17)
W
12...N
Rối W:
1
( 100 00 010 00 000..01 )12 N .
2
Cσ12..N
Rối Cluster [12]:
với quy ước
z N 1 1
1
2
N
2
N
a 1
(0
a 1
a
z
(1.18)
1 )a .
(1.19)
.
I.3. Độ rối lượng tử
Để đặc trưng cho mức độ rối của một trạng thái rối chúng ta đưa vào khái
niệm độ rối lượng tử. Cho đến nay việc xác định độ rối đối với trạng thái rối
của nhiều hơn 2 qubit là vấn đề rất khó và chưa được giải quyết một cách
triệt để. Trong nội dung khóa luận này sẽ trình bày cách tính độ rối lượng tử
16
của trạng thái rối 2 qubit theo hai cách: tính độ rối theo Entropy von
Neumann và tính độ rối theo Concurrence.
Xét trạng thái rối của hệ hai qubit A và B là trạng thái
AB
trong không gian
{ 00 , 01 , 10 , 11 }
Hilbert 4 chiều với hệ véc tơ cơ sở trực chuẩn
mật độ của trạng thái này được biểu diễn dưới dạng:
. Ma trận
AB
AB
.
(1.20)
- Tính độ rối theo Entropy von Neumann:
Mỗi trạng thái thuần khiết
AB
có độ rối được tính theo công thức [13]
E(
AB
) S(A ) S(B ),
S( A ), S( B )
A
trong đó
lần lượt là Entropy của và
là ma trận mật độ rút gọn theo B và A có dạng:
S A
và
S B
A TrB (
AB
),
B TrA (
AB
).
B
(1.21)
, với
A
và
B
lần lượt
(1.22)
(1.23)
được tính theo công thức:
Sρ
Sρ
A
λ
A
A
i
i
log λ2
,
i
B
λ
i
17
(1.24)
B
B
i
i
log λ2
,
(1.25)
với
i( A) , i( B)
lần lượt là trị riêng của
A
và
B
.
- Tính độ rối theo Concurrence:
Đây là cách tính độ rối được đề xuất bởi E. Wooters [14] với công thức tính
độ rối được xác định như sau:
Cρ
trong đó
C(AB )
λ1 λ2 λ3 λ4
AB
max λ
1
λ
2
λ
3
λ
4
,0 ,
(1.26)
là Concurrence của trạng thái rối giữa 2 qubit A và B,
lần lượt là các trị riêng của ma trận
ρ AB
được xác định bởi
công thức sau:
�AB AB ( y y )*AB ( y y ),
với
*AB
AB y
là ma trận liên hiệp phức của
,
(1.27)
là ma trận Pauli.
Trong cả hai cách tính này, tuy khác nhau về công thức tính nhưng đều cho
ta kết quả có giá trị từ 0 tới 1. Giá trị bằng 0 ứng với trường hợp trạng thái
đã cho là không rối còn giá trị bằng 1 ứng với trường hợp trạng thái đã cho
là rối cực đại.
Sau đây, chúng ta sẽ sử dụng cả hai cách tính trên để tính độ rối của một số
trạng thái lượng tử hai qubit.
- Tính độ rối của trạng thái không rối:
Xét trạng thái lượng tử của 2 qubit A và B là trạng thái không rối có nghĩa là
ta có thể viết được trạng thái này là tích tenxơ từng trạng thái riêng lẻ của
mỗi qubit:
18
AB
(a 0 b 1 ) A (c 0 d 1 ) B ,
(1.28)
ta xét trường hợp đơn giản trong đó a, b, c, d là các số thực thỏa mãn điều
kiện chuẩn hóa: a2 + b2 = 1và c2 + d2 =1
+ Tính độ rối theo Entropy von Neumann:
Ta có:
A TrB (
AB
) (a 2c 2 a 2d 2 ) 0
A
0 (abc 2 abd 2 ) 0
(abc 2 abd 2 ) 1 A 0 (b 2c 2 b 2d 2 ) 1
A
A
A
1
1.
(1.29)
có thể viết dưới dạng ma trận như sau:
a 2c 2 a 2d 2
A
2
2
abc abd
abc 2 abd 2
.
b2c 2 b2d 2
(1.30)
Ma trận này có 2 trị riêng là 0 và 1 nên theo công thức (1.21) ta có:
E(
2
) i log 2 i 0.
AB
i 1
(1.31)
+ Tính theo Concurrence:
Theo công thức (1.27) ta có:
�AB AB ( y y )*AB ( y y ) 0.
(1.32)
Từ đây dễ thấy 4 trị riêng của ma trận
Concurrence của hệ là:
19
�AB
đều là 0 điều này dẫn đến
C(
AB
)= max{0, 0} = 0.
(1.33)
Như vậy, đối với trạng thái không rối (hay trạng thái rời) thì độ rối của hệ
luôn bằng 0.
- Tính độ rối trong trường hợp trạng thái rối:
Chúng ta sẽ tính độ rối của các trạng thái EPR, cụ thể trong trường hợp này
là trạng thái:
AB
1
( 00 11 ) AB .
2
(1.34)
+ Tính theo Entropy von Neumann:
Ta có:
A TrB (
B
1
) ( 0
2
A
0 1 A 1 ).
(1.35)
A
có thể viết lại dưới dạng ma trận như sau:
1 / 2 0
A
.
0 1/ 2
(1.36)
Ma trận (1.36) có 2 trị riêng cùng bằng 1/2 nên độ rối của hệ tính theo (1.21)
sẽ là:
E(
)
AB
2
i 1
1
1 1
1
i log 2 i log 2 log 2 1
2
2 2
2
20
. (1.37)
+ Tính theo concurrence:
Theo (1.27) ta có:
�AB AB ( y y )*AB ( y y )
ρ AB
thay
của
�AB
1/ 2
0
0
1 / 2
0 0 1/ 2
0 0
0
0 0 0
0 0 1/ 2
và
0
0
σy σy
0
1
,
1
0
0
0
0 0
0 1
1 0
0 0
vào biểu thức
ta thu được:
�
ρAB ρAB
1/ 2
0
0
1 / 2
0 0 1 / 2
0 0
0
0 0 0
0 0 1/ 2
.
(1.38)
�AB
Ma trận
có 4 trị riêng là {1, 0, 0, 0}, áp dụng công thức (1.25) ta thu được
độ rối của trạng thái đã cho là:
Cλ Φ λAB max
λ
λ1
2
3
4
,0 1.
(1.39)
Nhận xét:
AB
Từ (1.37) và (1.39) ta thấy rằng trạng thái
là trạng thái rối cực đại và
nó có độ rối lớn nhất (bằng 1 không phụ thuộc vào cách tính độ rối theo
Entropy Von Neumann hay theo Concurrence). Tương tự cho ba trường hợp
còn lại của các trạng thái rối Bell ta đều thu được đó là các trạng thái rối cực
đại.
21
- Xem thêm -