lOMoARcPSD|15978022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ TRUYỀN THÔNG
KỸ NĂNG MỀM
TIỂU LUẬN NHÓM CUỐI KÌ II
DỰ ÁN:
NGHIÊN CỨU VỀ CỘNG ĐỒNG LGBTQ+ TRÊN
TOÀN THẾ GIỚI
Giảng viên hướng dẫn
: Thân Thế Tuyên
Lớp
: 212_71SSK020003_52
Sinh viên thực hiện
: Nhóm 04
STT
Họ và tên
MSSV
1
Nguyễn Dương Đình Thế
2173201080394
2
Vũ Ngọc Phương Nhi
2173801070080
3
Nguyễn Hoàng Thiên Kim
4
Trần Huỳnh Hồng Tiên
2173201081256
5
Hoàng Thanh Hào
2173201080356
6
Nguyễn Thị Anh Minh
2173201081794
7
Lê Hoàng Mỹ Hà
2173201080011
8
Nguyễn Đinh Ngọc Hân
2173201080634
2173201080360
TP.Hồ Chí Minh,ngày 02 tháng 04 năm 2022
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
HỌ VÀ TÊN
Mã sốố sinh viên
Tham
gia
họp
đầy
đủ.
Ý
kiến
đóng
góp.
Thời
gian
hoàn
thành
.
Chất
lượng
nội
dung.
25
25
25
25
Tổng
Nguyễn Dương Đình Thế
2173201080394
25
25
25
25
100
Nguyễn Hoàng Thiên Kim
2173201080360
25
25
25
25
100
Vũ Ngọc Phương Nhi
2173801070080
25
25
25
25
100
Trần Huỳnh Hồng Tiên
2173201081256
25
25
25
25
100
Hoàng Thanh Hào
2173201080356
25
25
25
25
100
Nguyễn Thị Anh Minh
2173201081794
25
25
25
25
100
Lê Hoàng Mỹ Hà
2173201080011
25
25
25
25
100
Nguyễễn Đinh Ngọc Hân
2173201080634
25
25
25
25
100
LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên, chúng em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến Trường Đại
Học Văn Lang đã mở rộng và tạo điều kiện cho chúng em được sinh hoạt và cùng
nhau làm việc, học tập trong môi trường tốt nhất mặc dù tình trạng dịch bệnh vẫn còn
2
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
đang diễn ra phức tạp. Trường đã sắp xếp để khoa Quan Hệ Công Chúng – Truyền
Thông của chúng em được học môn Kỹ năng mềm. Riêng lớp em 212_71SSK020003_52 được may mắn có sự dẫn dắt của thầy Thân Thế Tuyên. Mở
đầu cho bộ môn là chuỗi những tiết học online vì tình hình dịch bệnh, nhưng điều đó
cũng không gây ảnh hưởng gì đến chất lượng giảng dạy cũng như nội dung bài học mà
ngược lại còn tạo cảm giác cho chúng em được gần gũi và rất hào hứng khi tham dự
tiết học này. Tuy chúng em là những cô cậu sinh viên năm nhất lần đầu tiên đến với
môi trường Đại Học còn gặp nhiều bất cập và chưa làm quen được hết với việc học
online nhưng thay vào đó chúng em lại càng thêm phần may mắn khi được thầy truyền
đạt những kinh nghiệm mà thầy đã từng gặp trong cuộc sống, trong công việc cũng
như ngành nghề mà tụi em đang theo đuổi hay những bí kíp giúp tụi em khắc phục
được bản thân khiến cho bản thân ngày càng hoàn thiện và trở nên tốt đẹp hơn. Mỗi
tiết học trôi qua khiến chúng em càng thêm yêu thích bộ môn Kỹ năng mềm. Nhóm
chúng em tin chắc rằng mỗi thành viên trong nhóm em nói riêng và từng thành viên
trong lớp nói chung đều có riêng cho mình những bài học tâm đắc qua môn học cùng
với sự dẫn dắt đầy nhiệt huyết của thầy. Những kĩ năng này sẽ trở thành bước đệm và
tiền đề để chúng em có thể tiến xa, phát triển, hoàn thiện bản thân trong tương lai và
mang đến những giá trị tích cực cho xã hội.
Kỹ năng mềm là một môn học- một kỹ năng vô cùng quan trọng trong cuộc
sống nói chung và ngành Quan hệ công chúng- Truyền thông nói riêng. Đây là một kĩ
năng không thể tự dưng có được mà cần trải qua quá trình học hỏi và áp dụng thực tế.
Nghe sơ qua thì có vẻ dễ, nhưng đến khi bắt tay vào học chính là cả một quá trình dài
rèn luyện và trau dồi hàng tỷ những kiến thức nhỏ đến lớn. Với bài tiểu luận, chúng
em mong thầy đọc và cảm nhận được đầy đủ sự tâm huyết, nhiệt tình, trân trọng qua
từng câu chữ mà mỗi thành viên trong nhóm chúng em gửi gắm đến bộ môn cũng như
gửi gắm đến thầy. Nhóm chúng em mong nhận được những lời nhận xét tận tình và
góp ý từ thầy để chúng em khắc phục được những khuyết điểm và rút kinh nghiệm để
hoàn thiện hơn từng ngày.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy. Kính chúc thầy có nhiều sức khỏe!
3
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
MỤC LỤC
Lời Cảm Ơn.............................................................................................................2
Lời Mở Đầu.............................................................................................................. 4
Chương 1: Lịch sử hình thành và khái niệm về cộng đồng LGBTQ+.................5
1.1 Lịch sử hình thành........................................................................................5
1.2 Cơ sở lý luận,................................................................................................5
1.2.1 Khái niệm về LGBTQ+........................................................................5
1.2.2 Khái niệm về các thuật ngữ.....................................................................6
1.2.3 Khái niệm về bảng dạng giới...................................................................6
1.2.4 Khái niệm xu hướng tính dục..................................................................8
Chương 2: Pháp luật đối với những người thuộc cộng đồng LGBTQ+..............9
2.1 Những quy định liên quan đến quyền của LGBTQ+ trong khuôn khổ liên hợp
quốc....................................................................................................................... 9
2.2 Tổng quan pháp luât quốc
tế về bảo vê ṭquyền của người đồng tính................9
ṭ
2.2.1 Cơ sở hình thành......................................................................................9
2.2.2 Quá trình hình thành...............................................................................10
2.2.3 Quyền của cộng động LGBTQ+ trong khuôn khổ Liên hợp quốc..........10
2.3 Tại những nước không hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.............................13
2.4 Tại những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.......................................14
2.5 Tại Việt Nam.................................................................................................15
2.6 Bất cập trong việc bảo vệ quyền....................................................................17
Chương 3 : Thực trạng và thay đổi cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+...17
3.1 Những nét văn hóa LGBTQ+........................................................................17
3.2 Cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+.......................................................19
3.2.1 Nguồn gốc của HIV và những bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục
khác :............................................................................................................... 21
3.3 Các hoạt động, đề xuất để lấy lại quyền bình đẳng cho cộng đồng LGBTQ+22
3.3.1 Các hoạt động hiện có :..........................................................................22
3.3.2 Các hoạt động, đề xuất trong tương lai :.................................................24
3.4 Một số cá nhân nổi bật thuộc cộng đồng LGBTQ+.......................................27
Kết luận..................................................................................................................31
Tài liệu tham khảo.................................................................................................32
4
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
5
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
LỜI MỞ ĐẦU
Các vấn đề liên quan đến cộng đồng LGBTQ+ từ lâu đã hiện hữu trong xã hội của
loài người nhưng trên thực tế sự kì thì dành cho những người thuộc cộng đồng này chỉ
càng ngày càng được thể hiện rõ hơn khi xã hội ngày càng phát triển và các vấn đề về
mối quan hệ dị tính được xem như là điều tự nhiên còn quan hệ đồng tính là một thứ
gì đó cần được bài trừ và cần phải có những cách xử lý có thể nằm ở mức độ vô cùng
tàn bạo.
Từ đó, các vấn đề giành lại quyền dành cho các cá nhân thuộc cộng đồng LGBTQ+ đã
ngày càng được phát triển hơn, quyền bình đẳng cũng như sự hợp pháp hóa hôn nhân
đồng giới đã được thông qua ở nhiều nước phát triển. Tuy nhiên, đây vẫn còn là vấn
đề gây tranh cãi ở nhiều nước trên thế giới và nhiều người vẫn chưa có cái nhìn cởi
mở về cộng đồng và các nét văn hóa của cộng đồng.
Hiểu được vấn đề đó nhóm 04 của lớp KNM 212_71SSK020003_52 đã tiến hành
nghiên cứu cũng như đưa ra những giải pháp và hành động thiết thực nhất để hướng
đến một tương lai nơi các cá nhân thuộc cộng đồng LGBTQ+ có thể được là chính
mình mà không phải chịu đựng sự miệt thị, kì thị cũng như bị bài trừ bởi chính những
người xung quanh , bài nghiên cứu này sẽ giúp mọi người có thể hiểu được rằng việc
cộng đồng LGBTQ+ có mặt tốt và mặt xấu như mọi thứ khác, vấn đề chỉ là ta qua
khắt khe cho một thế giới theo khuôn mẫu mà ta được học từ lâu. Bài tiểu luận của
nhóm đã đặt ra hai tiêu chí rõ ràng trong số các mục tiêu hướng đến phát triển bền
vừng bao gồm sức khỏe cuộc sống tốt và bình đẳng giới.
6
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ KHÁI NIỆM VỀ CỘNG ĐỒNG
LGBTQ+
1.1 Lịch sử hình thành
Vào đầu thế kỉ XX, “homosexual” là một cụm từ được sử dụng phổ biến và rộng rãi
tại Mỹ để chỉ những người đồng tính với ý nghĩa tiêu cực. Đến thập niên 50 và 60, từ
nay dần được thay thế bởi từ “homophile”. Thập niên 70, từ “gay” được ra đời và
được chấp nhận sử dụng bởi chính cộng đồng người đồng tính.
Trong thời gian này, do vai trò của người phụ nữ trong xã hội không cho phép họ
thể hiện tính hướng của bản thân nên mối quan hệ đồng tính luyến ái nữ không được
biết đến nhiều. Sau sự xuất hiện của một vài tổ chức đấu tranh cho nữ quyền và quyền
bình đẳng cho đồng tính nữ, từ “lesbian” dùng để chỉ “người đồng tính luyến ái nữ”
phân biệt với “gay” – những người đồng tính luyến ái nam.
Hai thành phần khác của cộng đồng LGBT là những người Bisexual – Người song
tính và Transgender – Người chuyển giới có xung đột với những người đồng tính nam
và nữ về sự khác biệt trong khuôn mẫu định hình cộng đồng. Mặc dù những xung đột
giữa các nhóm này tới hiện nay đôi lúc vẫn còn xảy ra do bất đồng quan điểm nhưng
hiện tại họ đã hướng tới cùng một mục tiêu xây dựng một cộng đồng lớn với mục đích
thể hiện bản thân và giáo dục xã hội về những nhóm người có xu hướng đặc biệt.
Với tiền đề như vậy, thuật ngữ LGBT bắt đầu xuất hiện trong những phát ngôn của
những nhà hoạt động tại Mỹ vào năm 1988. Năm 1999 chứng kiến sự ra đời của Hiệp
hội Lịch sử LGBT. Sau một vài tranh cãi, cụm từ LGBT đã được chính thức công
nhận bởi cộng đồng. Hiện nay từ này không chỉ bao gồm những nhóm người được
định danh trong tên gọi mà còn cả những nhóm nhỏ hơn.
Năm 2016, một số nghiên cứu khảo sát của hãng truyền thống GLAAD, hiện nay thế
hệ trẻ đang ưa chuộng sử dụng từ LGBTQ hơn so với cụm từ nguyên gốc. Họ cho
rằng Queer với định nghĩa thể hiện tính khác biệt về xu hướng tính dục hay bản dạng
giới. Điều này sẽ giúp họ thể hiện bản thân một cách linh hoạt hơn. Một biến thể khác
của thuật ngữ này cũng được sử dụng phổ biến hơn là LGBTQ+ với ý nghĩa thể hiện
được đa dạng các thành phần của cộng đồng. Tuy nhiên, trong con mắt của thế hệ lớn
tuổi hơn thì Queer không phải là một từ mang ý nghĩa tích cực và có xu hướng bài
xích thuật ngữ này.
Đến nay, có thêm nhiều chữ cái mới và vấn đề vị trí giữa các chữ cái vẫn chưa được
giải quyết. Nên nhiều người thường dùng LGBTQ+ để biểu thị rằng cộng đồng còn
bao gồm những nhóm khác
1.2 Cơ sở lý luận,
1.2.1 Khái niệm về LGBTQ+
LGBTQ+ thể hiện sự đa dạng của các nền văn hóa nhân loại dựa trên xu
hướng tình dục (sexual orientation), bản dạng giới (gender identity), thể hiện
giới (gender expression), thiên hướng tình dục (sexual attraction). Xu hướng
tình dục có các nhóm phổ biến: dị tính luyến ái (heterosexual), đồng tính luyến
7
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
ái (homosexual), song tính
luyến ái (bisexual), toàn tính
luyến ái (pansexual), vô tính
luyến ái (asexual)... theo bản
dạng giới trái với giới tính
sinh học (biological sex) của
mình là người chuyển giới,
ngược lại người có bản dạng
giới phù hợp với giới tính sinh
học là người hợp giới.
LGBTQ+ là các chữ cái viết tắt của Lesbian (đồng tính luyến ái nữ), Gay
(đồng tính luyến ái nam), Bisexual (song tính luyến ái), Transgender (chuyển
giới) và Queer (có xu hướng tính dụng và bản dạng giới khác biệt, hoặc không
nhận định mình theo bất kì nhãn nào) hoặc Questioning (đang trong giai đoạn
tìm hiểu bản thân)
Dấu + thể hiện sự tồn tại đa dạng của các nhóm khác trong cộng đồng như:
Non-binary (phi nhị nguyên giới), intersex (liên giới tính)...
1.2.2 Khái niệm về các thuật ngữ
LGBTQ+ là các chữ cái viết tắt của một cộng đồng thuộc những người có
những giới tính khác nhau như:
- Lesbian: đồng tính nữ
- Gay: đồng tính nam
- Bisexual: song tính
- Transgender: chuyển giới
- Q được chia thành hai nhóm
+ Queer: có xu hướng tình dục và bản dạng giới khác biệt hoặc không
nhận định mình theo kỳ nhãn nào.
+ Questioning: trong giai đoạn tìm hiểu bản thân
- “+” thể hiện sự tồn tại của các nhóm khác như: Non-binary (phi nhị nguyên giới),
intersex (liên giới tính)...
LGBTQ+ thể hiện sự đa dạng về văn hóa và được hình thành từ xu hướng
tình dục ( sexual orientation), bản dạng giới (gender identity), thể hiện giới
(gender expression) và thiên hướng tình dục (sexual attraction).
1.2.3 Khái niệm về bảng dạng giới
Thuật ngữ “bảng dạng giới” được Robert J. Stoller đặt ra vào năm 1964. Bản
dạng giới hay còn gọi là bản dạng giới là nhận thức chủ quan của một người về
giới tính của họ. Bản dạng giới của một người có thể được xác định hoặc không
với giới tính được chỉ định sau khi sinh dựa trên giới tính sinh học của họ. Bản
dạng giới của một người thường được phản ánh trong việc đại diện cho giới tính,
8
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
nhưng nó không phải lúc nào cũng phản ánh chính xác nhất mọi trường hợp. Mỗi
người có thể có những hành vi, thái độ và ngoại hình tương ứng với một vai trò
giới cụ thể, nhưng cách họ thể hiện chúng không nhất thiết phản ánh bản dạng giới
của họ. Bảng nhận dạng giới tính của một người có thể là nam hoặc nữ hoặc họ có
thể thuộc nhóm giới tính không kép, bao gồm các nhãn giới khác: vô tính, giới tính
linh hoạt hoặc họ có thể là lưỡng tính, bán giới tính ...
Trong hầu hết các xã hội, có sự phân chia các thuộc tính giới tính cho nam và
nữ. Nhị phân giới tính được hầu hết mọi người tuân theo và bao gồm các kỳ vọng
về nam tính cũng như nữ tính trong tất cả các khía cạnh của giới và giới tính: giới
tính sinh học, bản dạng giới và biểu hiện giới tính. Một số người không xác định
được một số hoặc tất cả các khía cạnh của giới tính được gán cho họ theo giới tính
sinh học; một trong những người này là người chuyển giới, không có giới tính
hoặc đa dạng về giới tính. Một số xã hội thừa nhận sự tồn tại của một hoặc nhiều
giới tính không phải nam và nữ.
Các khái niệm về bản dạng giới và xu hướng tình dục là khác nhau. Ví dụ, khi
một người sinh ra là nam, họ tự xác định giới của mình là nữ ( bản dạng giới ), có
sức hấp dẫn tình dục và / hoặc tình yêu với nam, người đó không phải là đồng tính
luyến ái (đây là một người chuyển đổi giới tính khác giới). Mặt khác, một người
đồng tính sẽ luôn xem mình là đàn ông (giống giới tính của họ lúc mới sinh), chứ
không phải giới tính của mình là phụ nữ, và họ sẽ luôn có sự hấp dẫn về tình dục
và / hoặc lãng mạn với những người đàn ông một cách dài lâu.
- Các loại bản dạng giới thường thấy:
Chuyển giới: bản dạng giới khác với giới tính sinh học.
Người chuyển giới: người chuyển giới không muốn xác định mình theo bất
kỳ giới tính nào.
Trans man: người chuyển giới xác định bản thân là nam.
Người phụ nữ chuyển giới: người chuyển giới xác định bản thân là phụ
nữ.
Transfemale: người chuyển giới đã được chỉ định giới tính nam khi sinh ra
nhưng họ nhận dạng được nhiều dấu hiệu của nữ bên trong cơ thể nhiều hơn
là nam.
Transmasculine: người chuyển giới đã được chỉ định giới tính nữ khi sinh
ra họ nhận biết nhiều dấu hiệu của nam bên trong cơ thể nhiều hơn là nữ.
Androgynous / gynoandros: người có danh tính là sự pha trộn ở các mức
độ khác nhau giữa nữ và nam giới.
Giới tính trung tính / neutrois / giới tính trung lập: người ngăn chặn các
đặc điểm được gán cho truyền thống là nam tính hoặc nữ tính.
Giới tính: người không tin vào giới tính và do đó không đồng nhất với bất
kỳ.
9
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
Biggenus: người xác định bản thân có hai giới tính (ví dụ: nam tính và bạch
cầu trung tính).
Đa giới / đa giới: người có nhiều hơn hai giới tính.
Chuyển giới: giới tính được chỉ định cho những người giữa hai giới tính,
thường là giới tính nhị phân.
Ngoài ra có một thuật ngữ dành cho những người dị tính ủng hộ việc hợp pháp
hóa hôn nhân đồng giới và đấu tranh cho quyền của cộng đồng LGBTQ+. Những
người như thế thương được gọi là Straight ally.
Ngược lại những người có sự kiên quyết trong việc phản đối hôn nhân đồng giới
và bày tỏ sự kì thị sâu sắc được gọi là Homophobes.
1.2.3 Khái niệm xu hướng tính dục
Xu hướng tính dục của cộng đồng LGBTQ+
Xu hướng tính dục là sự hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc là mặt tình dục hoặc cũng có
thể là cả hai được diễn ra trong thời gian dài đối với những đối tượng thuộc giới tính
hoặc khác giới, cùng thuộc giới tính hoặc cùng thuộc giới, thuộc cả hai giới tính hoặc
có nhiều hơn 1 giới. Sự hấp dẫn này thường được bào gồm trong 5 giới: dị tính luyến
ái, đồng tính luyến ái song tính luyến ái, toàn tính luyến ái và vô tính luyến ái.
Trong đó:
Dị tính luyến ái là bị hấp dẫn về tình cảm và tình dục của người khác giới. Xu
hướng tình dục này được mọi người ủng hộ và đây cũng là xu hướng tính dục
phổ biến nhất hành tinh
Đồng tính luyến ái hay còn gọi là đồng tính là bị hấp dẫn mặt tình cảm và mặt
tình dục của người cùng giới. Xu hướng tính dục đồng tính luyến ái được chia
làm 2 giới chính là đồng tính nam ( thường được gọi là “gay” ) và đồng tính nữ
( thường được gọi là les ). Hiện vẫn chưa thể xác định được chính xác số lượng
người theo xu hướng tính dục này nhưng vẫn có thể thấy họ chiếm một lượng
không hề nhỏ. Với việc xã hội ngày càng có nhiều hướng suy nghĩ hiện đại và
tích cực thì những người theo xu hướng tính dục này ngày càng tự tin công
khai thật giới tính của mình.
Song tính luyến ái là người có tình cảm và ham muốn tình dục với cả nam và
nữ. Người có sở thích tình dục nghiêng về một giới tính nhất định hơn giới tính
còn lại nhưng lại không độc nhất cũng tự cho rằng họ là người song tính.
Toàn tính luyến ái là chỉ sự hấp dẫn về mặt tình cảm và mặt tình dục với bất kì
một giới tình nào. Xu hướng tình dục này có thể nói là một nhánh nhỏ của
“song tính luyến ái”.
Vô tính luyến ái những người này không bị hấp dẫn bởi tình cảm hay tình dục.
Vô tính luyến ái khác hoàn toàn với kiêng tình dục và độc thân vì nó có chiều
hướng xuất phát bên trong cơ thể. Một số người vô tính vẫn có quan hệ tình
10
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
dục với người khác nhưng chỉ vì làm thỏa mãn cho đối phương chứ không hề
có ham muốn.
Các nhà khoa học vẫn chưa giải thích được rõ nguyên nhân dẫn đến xu hướng tính
dục này nhưng họ đã đưa ra giả thuyết cho rằng xu hướng tính dục này được xuất hiện
bởi ba nguyên nhân chính đó là do di truyền, nội tiết tố và ảnh hưởng môi trường. Tuy
chưa có giả thuyết nào có thể giải thích được nguyên nhân của xu hướng tính dục
nhưng những các nhà khoa học vẫn ủng hộ các lý thuyết dựa trên cơ sở sinh học.
không có bằng chứng nào xác thực được việc nuôi dạy hoặc trải nghiệm tuổi thơ ấu có
ảnh hưởng đến xu hướng tính dục. Hiện nay ở tất cả các nền văn hóa trên thế giới xu
hướng tính dục dị tính luyến ái chiếm đa số còn lại là đồng tính luyến ái và song tính
luyến ái
Chương 2: pháp luật đối với những người thuộc cộng đồng LQBTQw+
2.1 Những quy định liên quan đến quyền của LGBTQ+ trong khuôn khổ liên hợp
quốc
Ở những nền văn hóa, trong những giai đoạn lịch sử cũng như thái độ đối với ham
muốn tình dục, hành vi tình dục và các mối quan hệ nói chung ở mỗi quốc gia khác
nhau thì có những nhận thức, thái độ đối với cộng đồng LGBTQ+ là khác nhau. Mỗi
nền văn hóa có chuẩn mực riêng nên có nhiều nền văn hóa phản đối và có nền văn hóa
chấp nhận tình yêu và tình dục đồng tính. Dẫn đến việc có những thái độ, cách nhìn
khác nhau. Đó là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài, đồng thời, sự thay đổi nhận
thức, quan điểm, cách nhìn về người đồng tính, quan hệ giữa những người đồng tính
luôn gắn liền với sự thay đổi nhận thức về tình dục.
Xuất phát từ quan niệm nam là phải cưới vợ, nữ thì phải lấy chồng hay trong thế
giới này, nhắc đến “cặp đôi” đồng nghĩa hiểu luôn là một người nam và một người nữ
nên khi xuất hiện cặp đôi giữa hai người cùng giới tính, giữa người thường với người
chuyển giới hoặc các nhóm giới tính đa dạng khác. Họ cho rằng điều này đi ngược lại
với quy luật tự nhiên, cách nghĩ thông thường của xã hội, nên gán ghép cho những
người cộng đồng LGBTQ+ là “bệnh hoạn”, “biến thái”, “xấu xa” hoặc “bẩn thỉu” “kì
dị”,..Chính quan niệm này dẫn đến nhiều người từ chối tiếp xúc, giao tiếp với những
người trong cộng động LGBTQ+ cũng như từ chối đọc, nghiên cứu các tài liệu khoa
học về đồng tính vì cho rằng đó là những tài liệu có nội dung lệch lạc và đồi trụy. Do
đó, xảy ra tình trạng các bạn trong cộng đồng LGBTQ+ bị kì thị, xa lánh, chửi bới và
tệ hơn đó là bạo hành bởi gia đình, bạn bè, xã hội.
2.2 Tổng quan pháp luât quốc
tế về bảo vê ṭquyền của người đồng tính
ṭ
2.2.1 Cơ sở hình thành
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về quyền và nhân phẩm. Mọi người
đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần
bác ái. Đây chính là Điều 1 của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948.
11
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
Nguyên tắc này dựa trên nguyên tắc đạo đức xã hội mà bất kỳ quốc gia nào trong quá
khứ, hiện tại và tương lai đều phải thừa nhận và tôn trọng, đó là “quyền tự nhiên” là
tổng thể những quyền mà mỗi người khi sinh ra đã được hưởng. Nền tảng của quyền
tự nhiên là các chuẩn mực về sự công bằng và nguyên tắc tự do của con người. Trong
đó, người đồng tính, song tính, dị tính cũng như các chủ thể khác trong xã hội, có các
quyền cơ bản gồm quyền được sống, được tự do và được mưu cầu hạnh phúc.
2.2.2 Quá trình hình thành.
Từ đầu thập kỷ 1980, Châu Âu là một trong những nơi đầu tiên nỗ lực thúc đẩy,
xây dựng quyền của cộng động LGBT cũng như cộng đồng mở rộng LGBTQ+ sau đó
được mở rộng sang các châu lục khác và trên diễn đàn toàn cầu của Liên hợp quốc. Sự
phát triển về quyền của người đồng tính trong hệ thống pháp luật ở châu Âu đã đặt
nền tảng cho cuộc vận động trên diễn đàn Liên hợp quốc và ở những khu vực khác.
2.2.3 Quyền của cộng động LGBTQ+ trong khuôn khổ Liên hợp quốc.
Bắt đầu từ năm 1993, vấn đề quyền của người đồng tính đã được nhắc đến trong
Hội nghị nhân quyền thế giới lần thứ hai họp tại Viên (Áo) và trong các sự kiện quốc
tế lớn về nhân quyền do Liên hợp quốc bảo trợ những năm sau đó. Trên diễn đàn Liên
hợp quốc, bên cạnh những quốc gia ủng hộ, khá nhiều quốc gia đã công khai bày tỏ sự
phản đối vấn đề quyền của người đồng tính, chủ yếu xuất phát từ những định kiến về
văn hóa và tôn giáo. Đây chính là lý do chính khiến cho khuôn khổ pháp luật quốc tế
về quyền của đồng tính phát triển một cách chậm chạp và hiện vẫn còn lạc hậu khá xa
so với quyền của nhiều nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác. Sở dĩ, những quyền này
cần được công nhận bởi luật pháp vì pháp luật là sự cụ thể hóa các quyền tự nhiên của
con người vào một cơ chế rõ ràng và được đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà nước.
Thông qua pháp luật các nghĩa vụ sẽ được tôn trọng và thực thi, các quyền trở thành
quy tắc ứng xử bắt buộc và thống nhất chung trong xã hội. Có thể thấy việc thừa nhận
và bảo vệ quyền của người đồng tính, một phạm trù của quyền tự nhiên chỉ mang tính
khả thi khi được pháp luật chính thức hóa và pháp lý hóa. Nhắc đến luật pháp, các văn
kiện, hiến chương đặt nền tảng cho việc xây dựng quyền của cộng đồng LGBTQ+ thì
không thể không nhắc đến:
Hiến chương Liên Hợp Quốc
Hiến chương Liên hơp ṭ quốc về quyền bình đẳng con người đã trở thành môt ṭtrong
những văn kiện quốc tế tạo bước tiền đề để nâng cao quyền của cộng đồng LGBTQ+
trong hệ thống luật pháp quốc tế. Các quyền con người được thể hiện ngay trong lời
nói đầu của Hiến chương: “Tuyên ngôn một lần nữa tin tưởng vào những quyền cở
bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ”. Không
những vậy, tại khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng “khuyến khích
phát triển sự tôn trọng trong các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả
mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” [ Điều 1].
Một trong những nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt của hiến chương là bình đẳng,
12
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
không có sự phân biệt giữa mọi cá nhân xuất phát từ việc phân biệt đối xử về giới tính
giữa nam và nữ. Mục đích đưa ra các nguyên tắc này nhằm yêu cầu có sự đối xử công
bằng không dựa vào giới tính, dân tộc, tôn giáo và khẳng định các quyền tự do và bình
đẳng giữa mọi cá nhân trong xã hội. Là cơ sở để tạo tiền đề xây dựng và bảo vệ các
quyền con người và quyền của người đồng tính.
Mặc dù Hiến chương Liên Hợp Quốc là văn kiện quan trọng trong việc khẳng
định, bảo vệ và nâng cao các quyền con người, nhưng hiến chương chỉ nêu ra các
nguyên tắc, nội dung chung về quyền của con người mà chưa đề cập rõ ràng đến cộng
đồng LGBTQ+ và chưa có quy định cụ thể để bảo vệ người đồng tính khỏi sự phân
biệt, đối xử này.
Về sau, sự ra đời của văn kiện Tuyên bố của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc
(Commission on Human Rights, nay đã được thay thế bởi Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp quốc) về “Xu hướng tính dục và quyền con người” (Sexual Orientation & Human
Rights- một trong những văn kiện quốc tế đầu tiên của hệ thống Liên hợp quốc đề cập
trực tiếp đến quyền của LGBTQ+. Văn kiện này được thông qua vào tháng 3/2005, do
New Zealand đề xướng và nhận được sự ủng hộ của 32 quốc gia thành viên Ủy ban.
Một số văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc về quyền của LGBTQ+.
Truớc đây, mặc dù Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định
quyền con người nói chung (trong đó có quyền của người đồng tính nói riêng) cũng
như sự ra đời của nhiều văn kiện khẳng định quyền của cộng đồng LGBTQ+ nhưng sự
phân biệt đối xử, bạo lực đối với người đồng tính vẫn tiếp tục xảy ra trong xã hội.
Thậm chí nhiều quốc gia vẫn đang hình sự hóa và xem đồng tính như là một loại tội
phạm. Tình trạng này đã kéo dài trong nhiều năm qua và trở thành một trong những
vấn đề nhân quyền được Liên Hơp Quốc đặc biệt quan tâm. Những lo ngại về vi phạm
nhân quyền trong một thời gian dài đã khiến Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp
Quốc xem đây như là vấn đề cần được ưu tiên thảo luận để đưa ra những tuyên bố
chung không chỉ về quyền của người đồng tính mà cả quyền của người song tính, vô
tính và cả người chuyển giới.
Trong những cuộc họp của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc năm 2006 và
2008, những tuyên bố chung về quyền của người đồng tính, xu hướng tính dục và bản
dạng giới đã được chính thức đề xuất và thảo luận xoay quanh mối quan tâm về luật
phân biệt đối xử và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc thực thi nhân quyền quốc tế.
Và đến ngày 26 tháng 3 năm 2007 Bộ nguyên tắc Yogyakarta đã ra mắt như một Hiến
chương toàn cầu về quyền của người đồng tính tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc ở Geneva, Thụy Sĩ. Bộ nguyên tắc được coi là một trong những văn bản pháp lý
đầu tiên về quyền của người đồng tính, áp dụng các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế có tính
ràng buộc, đóng vai trò diễn giải của các Hiệp ước quốc tế về quyền con người. Bộ
nguyên tắc Yogyakarta đưa ra các quy định về nội dung các quyền mà người đồng tính
13
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
đương nhiên được hưởng thụ, ngăn cấm sự phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính
dục, ngăn cấm sự xâm phạm trái pháp luật đến đời sống riêng tư, gia đình của người
đồng tính, xóa bỏ những rào cản ngăn những người đồng tính tiếp cận, hưởng thụ các
quyền. Những người đồng tính sẽ được quan tâm chăm sóc sức khỏe, được hưởng thụ
các quyền giáo dục, được pháp luật bảo vệ...và được tham gia một cách bình đẳng vào
đời sống chính trị - xã hội.
Ra đời ngay vào thời điểm mà vấn đề về quan hệ đồng tính, người đồng tính và
quyền của người đồng tính đang tranh cãi diễn ra trên rất nhiều mặt của đời sống xã
hội. Khi các kết quả của nghiên cứu khoa học về sự xuất hiện của hiện tượng đồng
tính còn chưa có câu trả lời chính thức, nhưng cũng là cơ sở để chúng ta biết rằng
đồng tính không như mọi người vẫn nghĩ là bệnh hoạn, là đua đòi, là tệ nạn xã hội,
tình dục là thứ mà những người đồng tính quan tâm...Có thể nói, sự ra đời của Bộ
nguyên tắc đã đánh dấu một mốc son trong Lịch sử Nhân quyền của nhân loại.
Sự ra đời của Nguyên tắc đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy mạnh
mẽ hơn nữa sự nỗ lực đấu tranh của Liên hợp quốc cho những quyền cơ bản của con
người nói chung, trong đó có người đồng tính. Và đối với các quốc gia của thế giới tự
do thì Bộ nguyên tắc cũng trở thành điều kiện đủ để vận động đưa các Nguyên tắc
Yogyakarta vào trong pháp luật của mỗi quốc gia.
Bên cạnh các văn kiện và ấn phẩm kể trên, vấn đề quyền của người đồng tính còn
được đề cập trong một loạt phát biểu của Tổng thư ký Liên hợp quốc và Cao ủy Nhân
quyền Liên hợp quốc trong khoảng một thập kỷ gần đây. Những phát biểu đó đã nêu
rõ tính chất, yêu cầu bảo vệ nhân phẩm, tính mạng và các quyền bình đẳng của người
đồng tính, cũng như sự cần thiết phải có những hành động phối hợp cả ở cấp độ quốc
gia và quốc tế trong vấn đề này. Cụ thể, trong Phiên họp thứ 19 của Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc vào tháng 3/2012, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon
đã có bài phát biểu trong đó mô tả những hành vi bạo lực và phân biệt đối xử với
những thành viên của cộng đồng người đồng tính, song tính, chuyển giới là “tấn bi
kịch lớn đối với những ai có lương tri và là vết nhơ đối với lương tâm của chúng ta”.
Đây là những phát biểu thể hiện rất rõ ràng và mạnh mẽ quan điểm của Liên hợp quốc
là ủng hộ các quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới. Mặc dù trong
những năm gần đây diễn biến về sự nhận thức và hành động thúc đẩy quyền của người
đồng tính đã phát triển nhanh chóng nhưng vẫn chưa có một điều ước riêng, rõ ràng về
quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới nói chung và quyền của người
đồng tính nói riêng. Tuy nhiên, có thể thấy được sự nỗ lực của Liên hợp quốc trong
việc chống lại hành vi vi phạm nhân quyền đối với người đồng tính.
Qua đó ta thấy, những văn kiện pháp lý quốc tế có ý nghĩa toàn cầu là sơ sở pháp
lý quan trọng trong việc thúc đẩy thực hiện và bảo vệ các quyền con người nói chung
và quyền của người đồng tính nói riêng. Đó chính là cơ sở cho việc xoá bỏ các hành
14
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
động kì thị, phân biệt giới tính và cơ sở này chỉ mang tính khả thi khi được pháp luật
chính thức hóa và pháp lý hóa.
15
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
2.3 Tại những nước không hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới
Hiện nay trên thế giới vẫn còn khá nhiều quốc gia không đồng ý hợp pháp hóa hôn
nhân đồng giới ( chỉ 34 quốc gia hợp pháp hóa tính đến năm 2021 ), ở các quốc gia
này bản thân hành vi đồng tính luyến ái sẽ bị coi là hành vi tội phạm. Có tới 80 quốc
gia/các vùng lãnh thổ xem hành vi này như là tội phạm, có nơi còn áp dụng hình thức
tử hình đối với những người có hành vi đồng tính luyến ái. Một số quốc gia khác
không coi đồng tính luyến ái là tội phạm, nhưng họ cũng không công nhận hôn nhân
đồng giới. Đối với những quốc gia không hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, có nhiều
quan điểm cho rằng:
Hành vi này đi ngược lại chuẩn mực của xã hội vốn có, làm mất đi truyền
thống hòa thuận gia đình, nối dõi tông đường
Quyền bảo vệ người đồng tính trong quan hệ đạo đức gia đình và quan niệm hôn
nhân của người Trung Quốc, bên nào nặng, bên nào nhẹ? Từ quan điểm của các tiêu
chuẩn đánh giá lợi ích, nó chắc chắn quan trọng hơn đạo đức của hôn nhân. Bởi lẽ,
quyền của tình yêu đồng giới không nhất thiết phải thông qua sự bảo vệ của pháp luật.
Nhưng nếu phủ nhận luân lý truyền thống về hôn nhân thì sẽ làm xáo trộn sự cân bằng
nam nữ, vi phạm quy luật sinh sản tự nhiên của con người, làm mất đi sự quân bình
"âm dương trung hòa" trong quan niệm truyền thống, từ đó ảnh hưởng đến tính bổ
sung, hòa hợp. . của gia đình truyền thống Trung Quốc, hậu quả thật khó tưởng tượng.
Việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới không có lợi cho sự phát triển lành
mạnh của trẻ em:
Nếu tình yêu, hôn nhân đồng tính có thể được hợp pháp hóa, thì con cái của họ sẽ bị
vây quanh bởi những tin tức về đồng tính, cũng như khuyến khích trẻ em lựa chọn
đồng tính như một người bạn đời còn lại, điều này sẽ làm thay đổi xu hướng tính dục
của con cái họ. Chúng ta không thể để cho những đứa trẻ ngày nay được bình thường,
nhưng sau này, vì ảnh hưởng của “tình yêu đồng giới”, bị “tẩy não” bởi quan niệm về
tình yêu đồng giới, khiến chúng không thể đưa ra những quyết định đúng đắn.
Hôn nhân không phải là quyền tự do của mỗi cá nhân mà còn là bằng
chứng quan trọng của nền văn minh nhân loại:
Nếu hôn nhân đồng giới được pháp luật cho phép thì có nên cho phép chế độ đa thê
(một nam và một nữ có thể có nhiều hơn một vợ chồng) không? Hôn nhân hợp pháp là
một vấn đề cần hết sức thận trọng mỗi chúng ta phải tính đến điều này trong nền văn
minh mà chúng ta đang sống.
Nếu một xã hội thoát khỏi những khái niệm lý thuyết đạo đức niềm tin quan niệm
gia đình và hình thức sống đã được kế thừa lâu đời này thì xã hội đó chắc chắn sẽ rơi
vào hỗn loạn. Hôn nhân và gia đình sẽ gắn liền với kết cấu được thiết lập của nền văn
minh xã hội loài người. Do đó càng có nhiều lý do để cống hiến cho việc duy trì sự
tôn kính cơ bản này.
2.4 Tại những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới
16
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
Tính đến nay số lượng các quốc gia đã hợp pháp hóa vấn đề hôn nhân đồng giới
trên thế giới vẫn còn là thiểu số trên tổng số các quốc gia trên thế giới. Các nước có
thể kể đến như : Mỹ, Hà Lan, Anh, Bỉ ... và gần đây nhất là Đài Loan.
Tại các nước đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, ta có thể thấy rất rõ việc các cặp
đôi thuộc cộng đồng LGBTQ+. Họ được là chính mình, họ được kết hôn, có quyền
được nhận nuôi hoặc sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để có thể có con và trên
hết đứa trẻ vẫn phát triển bình thường và có thể nói rằng có phần tốt hơn so với cách
các cặp đôi dị tính nuôi dạy trẻ nhỏ. Theo nghiên cứu mới của một số nhà kinh tế học
châu Âu, con cái của các cặp vợ chồng đồng tính có thành tích ở trường tốt hơn so với
những đứa trẻ được nuôi dạy bởi một người mẹ và một người cha.
Một cuộc nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà kinh tế học Deni Mazrekaj,
Kristof de Witte và Sofie Cabus trực thuộc trường đại học KU Leuven của Bỉ. Họ đã
sử dụng dữ liệu của chính phủ để theo dõi và đánh giá tất cả trẻ em được sinh ra tại Hà
Lan từ năm 1995. Lý do vì Hà Lan là quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn
nhân đồng giới vào năm 2001 và có nhiều chính sách hỗ trợ cho các cặp đôi đồng tính.
Kết quả cho thấy những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi các cặp đôi đồng tính có
điểm kiểm tra cao hơn ở cấp tiểu học và trung học. Chưa hết, chúng còn có khả năng
tốt nghiệp phổ thông cao hơn khoảng 7% so với trẻ em được nuôi bởi các cặp vợ
chồng khác giới.
Điểm độc đáo của nghiên cứu này là nó theo dõi việc giáo dục xuyên suốt của
hàng ngàn trẻ em sinh ra tại Hà Lan từ năm 1995 đến năm 2005. Dữ liệu thu thập
được bao gồm thông tin về hiệu suất giáo dục của con cái cũng như dữ liệu về thu
nhập của cha mẹ và gia đình. Các nghiên cứu tương tự trước đây thường có cỡ mẫu
nhỏ, chỉ vài chục trẻ em hoặc sử dụng dữ liệu của Cục điều tra dân số Mỹ vốn không
đáng tin cậy. Ngoài ra Hà Lan cũng được biết đến là một trong những nước đi đầu
trong việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, và việc giáo dục cho trẻ nhỏ từ rất sớm
về vấn đề này thực tế không làm ảnh hưởng xấu tới cách các con nhìn nhận về thế giới
cũng như là chuyện xu hướng tính dục của một người mà còn giúp các bé có cái nhìn
màu sắc hơn về cuộc sống và hiểu được rằng ta cần phải chấp nhận sự khác biệt của
nhau để có thể cùng nhau đi lên.
2.5 Tại Việt Nam
Ở Việt Nam từ trước đến nay chưa ghi nhận luật cấm quan hệ tình dục đồng tính.
Pháp luật Việt Nam chưa bao giờ đưa ra luật cấm đối với người đồng tính, luật Hồng
Đức cũng không nhắc đến đồng tính. Khi pháp xâm chiếm nước ta họ cũng không
cấm đoán việc đồng tính trên thuộc địa của họ. Mại dâm nữ là điều vi phạm pháp luật
nhưng luật pháp lại không nói gì với mại dâm nam. Tuy nhiên những hành vi đồng
tính có thể bị khởi tố dưới các tội danh như “vi phạm luân lý”. Có những trường hợp
17
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
hiếm hoi mà hành vi đông tính bị trừng phạt trước pháp luật đó là “ngoại tính” và
“hãm hiếp”.
Hôn nhân đồng giới
Trước đây vào khoảng năm 1990, đã có một vài đám cưới đồng tính xuất hiện tại
các tỉnh thành. Ngày 7 tháng 4 năm 1997 tại thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện đám
cưới đồng tính đầu tiên là một cặp đông tính nam. Khi được báo đài đưa tin thì đã bị
nhiều người dân phản đối. Đến ngày 7 tháng 3 năm 1998 đã có một cặp đồng tính nữ
tổ chức đám cưới tại Vĩnh Long, nhưng xin giấy kết hôn thì không được chính quyền
chấp nhận. Sau đám cưới này chính phủ đã ban hành lệnh cấm đối với hôn nhân đồng
tính vào tháng 6 năm 1998.
Vào năm 2002 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đồng tính luyến ái được xem là vi
phạm pháp luật cần phải bài trừ như “mại dâm” và “ma túy”.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 điều 36 khoản 1 đã
quy định hôn nhân là “một vợ- một chồng, vợ chồng bình đẳng”, do vậy nếu quy định
về kết hợp dân sự (chung sống đồng giới) là việc sai trái với hiến pháp Việt Nam. Vì
nếu chung sống như vậy thì sẽ không có ai là vợ hoặc là chồng. Theo nguyên tắc các
bộ luật phải tuân theo hiến pháp, vì vậy mọi bộ luật tại Việt Nam không được phép
công nhận hôn nhân đông giới. Nhưng năm 2014 Luật hôn nhân và gia đình đã được
sửa đổi Pháp luật Việt Nam đã bỏ lệnh cấm hôn nhân đông giới nhưng cũng không
thừa nhạn hôn nhân đông giới tức là mọi cặp đồng tính đều có thể sống chung với
nhau như vợ chông nhưng không được chấp nhận và khi có mâu thuẫn gì xảy ra họ
không được áp dụng Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết mà sẽ áp dụng Luật dân
sự để giải quyết trước pháp luật. Như vậy ở Việt Nam hôn nhân đồng giới không bị
cấm cản và cũng không được chấp nhận.
Ngoài ra các cặp vợ chồng đồng tính không được nhận con nuôi thành con riêng của
cặp vợ chồng đồng tính. Bên cạnh đó việc mang thai hộ cho cặp đôi đồng tính nam là
hoàn toàn không được vì đây được coi như là một việc buôn bán mại dâm.
Hiện tại về vấn đề sức khỏe của những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ đã có những
cơ sở khám bệnh có cả dành cho những người thuộc cộng đồng này cho thấy việc Việt
Nam có thể không cấm hôn nhân hay quan hệ đồng giới nhưng cũng không hợp pháp
hóa nó nhưng vẫn có thể khiến cho đất nước giúp cho những người thuộc cộng đồng
LGBTQ+ có được cho bản thân họ một môi trường thoải mái nhất có thể, việc Việt
Nam chưa hợp pháp hóa cũng có thể hiểu được vì nếu điều này được thông qua thì sẽ
gây ra nhiều xung đột trong xã hội vì nước ta vừa là một nước Á Đông đồng thời cũng
đã có những suy nghĩ đã ăn sâu vào tiềm thức con người nơi đây nên sẽ khó thay đổi
được trong thời gian sớm.
Quyền của người chuyển giới
18
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
Năm 2005 pháp luật Việt Nam ban hành lệnh cấm cho cho việc chuyển đổi giới tính.
Theo đó, người được phép chuyển đổi giới tính là người được yêu cầu xác nhận lại
giới tính của mình khi họ bị khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc một giới chưa được
xác định chính xác. Bên cạnh đó chính phủ ban lệnh cấm đối với hành vi chuyển đổi
giới tính khi cơ thể hoàn thiện không bị dị tật và đã xác định rõ được giới tính của
mình.
Nhưng vào năm 2015, bộ Luật dân sự 2015 đã thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính
tại điều 37 đây là điều nổi bật nhất văn bản. Như vậy việc chuyển đổi giới tính là
quyền quyết định của cá nhân và không còn ai có thể cấm cản được nữa.
Năm 2017 pháp luật ban hành văn bản nói rằng người chuyển đổi giới tính có nghĩa
vụ phải đi thay đổi đăng kí hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Điều này sẽ
mang lại nhiều quyền lợi ích đối với người chuyển đổi giới tính.
Như vậy pháp luật Việt Nam đã cho phép việc chuyển đổi giới tính.
Những quyền vẫn chưa được pháp luật bảo vệ cho cộng đồng LGBTQ+
Tuy là đã được pháp luật chấp nhận giới tính và chấp nhận việc chuyển đổi giới tính
nhưng pháp luật Việt Nam vẫn chưa có nhiều quyền lợi đến với người thuộc cộng
đồng LGBTQ+ như:
Luật chống đối xử trong việc làm: hiện nay còn khá nhiều người kì thị cộng
đồng LGBTQ+ và những ai thuộc cộng đồng LGBTQ+ sẽ được họ giao cho
những công việc nặng nhọc và trả lương không thích đáng
Luật chống phân biệt đối xử trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ: có
những nơi kì thị cộng đồng LGBTQ+ sẽ mang đến dịch vụ thấp hơn số tiền
những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ trả cho họ. Ví dụ như cùng là một số
tiền cùng một dịch vụ nhưng người thuộc cộng đồng LGBTQ+ sẽ không được
chăm sốc chu đáo hơn người bình thường.
Luật chống phân biệt đối xử trong tất cả các lĩnh vực khác: những người miệt
thị cộng đồng LGBTQ+ họ sẽ thường chế diễu chê bai coi thường người đồng
tính đôi khi là dùng bạo lực.
Vì thế, pháp luật cần ban hành những bộ luật bảo vệ những người đồng tính để mang
lại một xã hội văn minh và công bằng.
2.6 Bất cập trong việc bảo vệ quyền
Mặc dù đồng tính luyến ái đã không còn bị coi là phạm pháp tại nhiều nơi ở phương
Tây, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người
đồng tính trong công việc, cư trú và dịch vụ. Tính tới năm 2015, đã có hơn 20 quốc
gia công nhận hôn nhân đồng tính. Ngoài ra, nhiều quốc gia khác hiện đã công nhận
quyền kết hôn của người đồng tính dưới hình thức kết hợp dân sự hoặc đăng ký chung
19
Nhóm thực hiện:04
lOMoARcPSD|15978022
Tiểu luận cuối kì
sống, một hình thức để những cặp đôi đồng giới hợp pháp hóa việc chung sống với
nhau và hưởng một số quyền, nghĩa vụ giống như như hôn nhân của các cặp khác giới.
Tuy nhiên, tính đến tháng 7 năm 2015, vẫn có 72 nước có luật hình sự hóa đồng tính
luyến ái, hầu hết số đó nằm ở châu Á và châu Phi. Trong số trên có 7 nước hồi giáo có
hình phạt tử hình với người đồng tính luyến ái. Quyền của cộng đồng LGBTQ+ vẫn
chưa được công nhận ở nhiều nước. Ở những quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban
hành luật cấm nghiêm khắc chống lại người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có
thể bị phạt 20 năm tù và bị đánh roi ở Malaysia. Năm 2003 ở Đài Loan, một dự luật
được đưa ra để công nhận hôn nhân đồng tính đã không đạt đủ số phiếu để thông qua.
Ở Nhật Bản, văn hóa và những tôn giáo lớn không có thái độ thù ghét những cá nhân
đồng tính, nước này không có luật nào chống lại đồng tính luyến ái nhưng hôn nhân
đồng tính thì không được công nhận. Điều này có thể là do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố
như: quan niệm truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo.
Chương 3 : Thực trạng và thay đổi cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+
3.1 Những nét văn hóa LGBTQ+
* Nghê ṭ thuâ ṭt giả gái
Giả gái, tên tiếng Anh là “Drag” (Dress
Resembling A Girl – tức là ăn mă ṭc giống như mô ṭt
cô gái), được khởi nguồn do tình trạng thiếu hụt
diễn viên nữ ở phương Tây nửa cuối thế kỉ XIX,
cho đến hiê ṭn nay đã trở thành mô ṭt nét đẹp văn hóa
quen thuô ṭc trong cô ṭng đồng người LGBTQ+.
Nghê ṭ sĩ giả gái thường được gọi bằng cái tên
“Drag Queen”. Họ có các buổi trình diễn cũng
như các cuô ṭc thi riêng dưới nhiều hình thức hấp dẫn. Nổi tiếng nhất có thể kể đến
chương trình thực tế mang tên “RuPaul’s Drag Race”, tạm dịch “Cuô ṭc đua giả gái của
RuPaul”, được công chiếu trên sóng truyền hình nước Mỹ.
* Nghề làm “đồng cô”
20
Nhóm thực hiện:04
- Xem thêm -