A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật, các nguyên tắc của pháp luật được
hiểu là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong quá trình ban hành, thực thi, áp dụng, sửa
đổi, bổ sung pháp luật. Với tư cách là thành viên của ILO và đã tham gia kí Công ước
Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật, pháp luật Việt Nam cần phải và đã
bước đầu nội luật hóa các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Công ước. Trên cơ sở
nội dung pháp luật đã được ban hành và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam có thể xác
định có năm nguyên tắc cơ bản của pháp luật người khuyết tật, trong đó không thể
không nói đến nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lý
đối với người khuyết tật. Để thấy được ý nghĩa quan trọng đó, sau đây e xin đi vào
phân tích nội dung nguyên tắc và tìm hiểu nguyên tắc cụ thể hóa như thế nào trong
pháp luật người khuyết tật và từ đó liên hệ với thực tiễn.
B. NỘI DUNG CHÍNH:
I. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC TIẾP CẬN,
HỖ TRỢ VÀ ĐIỀU CHỈNH HỢP LÍ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT.
1. Khái niệm:
1.1 Cơ sở lí luận:
Trước tiên để hiểu về nguyên tắc, chúng ta cần phải hiểu được một số khái niệm
được coi là từ khóa của nguyên tắc này, cụ thể như sau:
Khái niệm người khuyết tật: Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một
hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” ( Khoản 1 Điều 2 Luật Người
khuyết tật Việt Nam năm 2010).
Khái niệm tiếp cận trong quyền được tiếp cận của NKT “Tiếp cận là việc
người khuyết tật sử dụng được công trình, phương tiện giao thông, công nghệ thông
tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp để có thể hòa nhập
cộng đồng” ( Khoản 8 Điều 2 Luật Người khuyết tật Việt Nam năm 2010).
Khái niệm hỗ trợ trong quyền được hỗ trợ của NKT: Hỗ trợ người khuyết
tật có nghĩa là giúp đỡ người khuyết tật. Hỗ có nghĩa là đổi cho nhau, lẫn nhau; Trợ
có nghĩa là giúp đỡ ( Từ điển Hán Việt ).
Khái niệm điều chỉnh hợp lý trong quyền được điều chỉnh hợp lý đối với
NKT“Sự điều chỉnh hợp lí nghĩa là việc sửa đổi, điều chỉnh cần thiết và thích hợp mà
không áp đặt một gánh nặng thiếu cân đối hay phi lí nào, ở nơi cần thiết trong trường
hợp cụ thể, để đảm bảo người khuyết tật hưởng thụ hay thực thi, trên cơ sở bình đẳng
với những người khác, tất cả quyền con người và sự tự do cơ bản” ( Điều 2 Công ước
quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006).
1
Tóm lại, nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lý
đối với người khuyết tật được hiểu là Nhà nước và các chủ thể liên quan bên cạnh việc
cung cấp cho NKT các nhu cầu vật chất, chăm sóc.. còn cần phải thông qua các quy
định của pháp luật tạo cho NKT cơ hội, điều kiện, khả năng tiếp cận mọi mặt đời sống
kinh tế, xã hội: Đào tạo, việc làm, giao thông, nhà ở, công trình công cộng.. trên cơ sở
đó họ tự định đoạt các quyền và nghĩa vụ công dân của mình.
1.2 Cơ sở pháp lí:
Nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lí đối với
người khuyết tật được ghi nhận tại hai văn bản pháp lí sau:
Pháp luật quốc tế: Điều 2 (Định nghĩa), Điều 3 ( Các nguyên tắc chung) của
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006. Ngoài ra nội dung của
nguyên tắc cũng được thể hiện ở nhiều Công ước khác như Công ước về quyền trẻ em
1989, Công ước về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm
1983
Pháp luật Việt Nam: Luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010 và nghị định
28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật người
khuyết tật. Ngoài ra nội dung của nguyên tắc còn được cụ thể hóa trong nhiều văn bản
luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như Bộ Luật lao động, Luật giáo dục…
2. Nội dung của nguyên tắc:
2.1 Quyền của người khuyết tật được đảm bảo thông qua việc cung cấp cho
họ các nhu cầu vật chất, chăm sóc:
Thứ nhất, cung cấp cho người khuyết tật các nhu cầu vật chất.
Nhu cầu vật chất là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn,
nguyện vọng của con người về vật chất để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận
thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác
nhau. Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể. Theo y học hiện đại cơ thể con người là một khối thống nhất, mỗi cơ quan, hệ cơ
quan có một chức năng riêng và giữa các cơ quan, bộ phận luôn luôn có sự phối hợp
hoạt động. Như vậy, nếu một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể bị khiếm khuyết thì bộ
phận đó sẽ bị suy giảm hoạt mất đi chức năng hoạt động và có những ảnh hưởng nhất
định đến chức năng và hoạt động của các bộ phận khác trên cơ thể. Vì vậy, người
khuyết không những có nhu cầu vật chất bình thường như những người không khuyết
tật mà họ còn cần có thêm các công cụ, phương tiện giúp đỡ họ thực hiện những chức
năng đã bị mất hoặc suy giảm của các bộ phận bị khiếm khuyết. Người khuyết tật vận
động là những người có cơ quan vận động bị tổn thương nên việc vận động của họ
như nằm, ngồi, di chuyển, cầm, nắm,…gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, họ cần được sự
2
hỗ trợ về phương tiện đi lại như xe lăn, gậy chống,..Người khuyết tật nghe nói gặp
những khó khăn về nói và nghe , dẫn đến những hạn chế về đọc, viết, từ đó dẫn đến
những hạn chế trong sinh hoạt, làm việc, học tập, hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, họ cần
được dùng phương tiện trợ giúp như máy trợ thính, ngôn ngữ kí hiệu. Người khuyết
tật về nhìn là những người có tật về mắt làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không
rõ ràng. Họ cần các công cụ di chuyển là chiếc gậy, chữ nổi Braille, các công cụ hỗ
trợ thông minh, các thiết bị hỗ trợ về ánh sáng, màu sắc hoặc phóng đại hình ảnh,..
Thứ hai, cung cấp cho người khuyết tật các nhu cầu chăm sóc:
Về mặt sinh học: Khi một hoặc một số bộ phận cơ thể bị khiếm khuyết dẫn đến
chức năng của bộ phận đó bị mất đi hoặc suy giảm. Chức năng của bộ phận này có
thể sẽ do một bộ phận có chức năng tương tự thực hiện. Tuy nhiên, theo cấu tạo sinh
học của con người, mỗi bộ phận có mức hoạt động nhất định, khi một cơ quan phải
làm việc của hai cơ quan đến gần hoặc cao hơn mức giới hạn hoạt động theo sinh học
của nó thì cơ quan đó cũng sẽ bị suy giảm.
Về mặt xã hội: kết quả của mội số cuộc điều tra mẫu cho thấy, khoảng 75% hộ
gia đình có NKT sinh sống ở khu vực nông thôn và 32, 5% thuộc diện nghèo. Do điều
kiện khó khăn nên hầu hết các hộ gia đình có NKT (82,2%) chỉ đảm bảo đáp ứng
được nhu cầu cản bản về ăn, ở và mặc cho NKT, còn lại các nhu cầu khác của NKT
thì khả năng đáp ứng của hộ gia đình rất hạn chế. Kết quả điều tra mẫu cũng cho thấy,
trên 80% hộ gia đình có NKT đang gặp phải khó khăn trong việc khám chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe cho NKT, hơn một nửa hộ gia đình (51,2 %) gặp khó khăn trong
việc chăm sóc, hỗ trợ NKT trong sinh hoạt hàng ngày.
Qua những phân tích trên có thể thấy được rằng, nhu cầu chăm sóc sức khỏe,
chăm sóc đời sống tinh thần của NKT là nhu cầu hết sức cần thiết và quan trọng. Do
hạn chế về mặt sức khỏe cũng như những khó khăn về yếu tố xã hội mà bản thân NKT
và hộ gia đình có NKT rất khó có thể tự mình thực hiện và cung cấp cho NKT các nhu
cầu chăm sóc cần thiết. Chính vì vậy mà pháp luật NKT đã đưa ra các quy định, các
chính sách để đảm bảo được nhu cầu chăm sóc cho NKT.
Bộ y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành khác xây dựng và thực hiện các chương
trình y tế cho NKT. Hiện nay, khung chính sách chăm sóc sức khỏe cho NKT tương
đối đầy đủ cả về phát triển cơ sở y tế xã hội cho đến những ưu tiên trợ giúp chăm sóc
ý tế đối với NKT. Một số chính sách quan trọng như : Chiến lược phục hồi chức năng
tại cộng đồng; Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH 12 ngày 14/11/2008; Luật khám
bệnh, chữa bệnh được Quốc hội thông qua và có hiệu lực tư 01/01/2011, đã cơ bản
đảm bảo cơ sở pháp lý để thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho NKT. Bên cạnh
chế độ chăm sóc sức khỏe – quan trọng nhất với NKT thì các chế độ chăm sóc về tinh
3
thần như các nhu cầu về văn hóa giải trí, du lịch, thể dục thể thao,nhu cầu về công
nghệ thông tin… cũng từng bước được Nhà nước ta chú trọng và nâng cao việc cung
các các dịch vụ đó đến gần hơn với cuộc sống của NKT.
2.2 Thông qua các quy định của pháp luật tạo cơ hội, điều kiện cho NKT khả
năng tiếp cận mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội…trên cơ sở đó họ tự định đoạt các
quyền và nghĩa vụ công dân của mình:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Công ước về quyền của người khuyết tật năm
2006 thì: “Thông qua tất cả các biện pháp bằng pháp luật, hành chính và các biện
pháp khác thích hợp để thực hiện các quyền được công nhận trong công ước này”.
Như vậy, quyền của người khuyết tật được đảm bảo không phải thuần túy là sự xác
định nghĩa vụ của Nhà nước và các chủ thể liên quan hay việc cung cấp cho họ các
nhu cầu vật chất, chăm sóc,… mà điều quan trọng là thông qua các quy định của pháp
luật tạo điều kiện cho người khuyết tật có cơ hội, điều kiện, khả năng tiếp cận mọi mặt
đời sống kinh tế, xã hội: Đào tạo, việc làm, giao thông, nhà ở, công trình công cộng…
trên cơ sở đó họ tự định đoạt các quyền và nghĩa vụ công dân của mình. Đồng thời,
điều chỉnh các hành vi tương ứng của xã hội liên quan đến vấn đề này. Cụ thể :
Đôi với lĩnh vực giáo dục: Học tập là một trong những quyền và nghĩa vụ của
công dân. Do đó, công dân có quyền được học tâp đồng thời cũng có trách nhiệm phải
học tập. NKT cũng là công dân nên họ cũng có quyền học tập và cũng có nghĩa vụ
phải học tập. Nhưng vì NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng nên việc học tập gặp nhiều khó khăn. Do đó, cơ hội học
tập đối với NKT gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, cần có sự hỗ trợ và tạo điều
kiện cần thiết để NKT có thể tham gia học tập và thực hiện quyền vừa học tập của
mình. Nhà nước đã đưa ra các hỗ trợ về vật chất (miễn, giảm học phí…) để họ có thể
tham gia học tập. Bên cạnh đó, bản thân NKT cần có sự cố gắng, nỗ lực để vượt qua
khó khăn trong học tập.
Đối với lĩnh vực việc làm: NKT là một trong những đối tượng lao động đặc thù.
Do đặc điểm về thể chất nên tìm kiếm việc làm, duy trì việc làm cũng như đảm bảo
việc làm đối vợi họ thường khó khăn hơn so với những lao động khác. Chính vì vậy
cần phải có sự hỗ trợ, điều chỉnh hợp lí cho NKT để họ có thể tìm kiếm việc làm và có
được việc làm bền vững, tức là thực hiện được quyền việc làm của mình. Bộ luật lao
động đã có những quy định riêng Bộ luật lao động năm 1994 đã dành một mục riêng
với 4 điều quy định về lao động là NKT. Từ những quy định đó, NKT đã được tạo
điều kiện để NKT có cơ hội bình đẳng và đối xử bình đẳng giữa lao động khuyết tật
với lao động khác taị nơi làm việc sẽ không bị coi là phân biệt đối xử. Sự điều chỉnh
như vậy là khá hợp lí với đặc điểm của NKT, đó không phải là sự ưu tiên hay ưu đã
4
mà chỉ là tạo điều kiện để NKT được bình đẳng ngang bằng với những lao động khác,
giúp họ tái hòa nhập vào cộng đồng. Tuy nhiên sự hỗ trợ điều chỉnh này không có
nghĩa là tạo ra gánh nặng cho các đơn vị sử dụng lao động có sử dụng lao động là
NKT. Nhà nước với tư cách, vai trò là chủ thể quyền lực phải chịu trách nhiệm chính
trong việc hỗ trợ, điều chỉnh này. Bản thân NKT cũng phải có những cố gắng nhất
định để dựa trên cơ sở pháp lí đó tự định đoạt các quyền và nghĩa vụ công dân của
mình
Đối với chế độ chăm sóc sức khỏe: Pháp luật hiện nay đã đưa ra những ưu tiên
hợp lí trong hoạt động chăm sóc sức khỏe NKT, nhằm giúp đỡ NKT có đủ điều kiện
để tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế cơ bản, thiết yếu theo nhu cầu NKT của mình.
Dựa vào mức độ khuyết tật cũng như đặc điểm đặc thù của NKT mà pháp luật quy
định đối tượng ưu tiên trong lĩnh vực này gồm: NKT đặc biệt nặng, NKT nặng, trẻ em
khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai, NKT có công với cách
mạng. Chế độ ưu tiên trong chăm sóc sức khỏe được thực hiện bằng các hình thức
khác nhau như : miễn phí, giảm phí, bắt buộc phải chữa bênh như người mắc bệnh
tâm thần ở trạng thái kích động, trầm cảm, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát hoặc gây
nguy hiểm cho người khác thì ngoài các chế độ trên còn được hộ trợ sinh hoạt phí, chi
phí đi lại và chi phí điều trị trong thời gian điều trị bắt buộc. Từ những chính sách ưu
tiên, điều chỉnh hợp lí đó đã tạo điều kiện cho NKT tiếp cận được với dịch vụ y tế để
cải thiện điều kiện sức khỏe của mình.
Đối với việc tham gia các họa động xã hội của NKT: pháp luật một mặt đã thừa
nhận quyền tham gia các hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng như những người bình
thường, mặt khác có các hoạt động, biện pháp phù hợp để hỗ trợ NKT thực hiện
quyền của mình, trong đó có việc đảm bảo tiếp cận với môi trường vật chất như các
công trình, dịch vụ công cộng, giao thông, thông tin, truyền thông.. Sẽ khó có thể nói
đến sự tham gia của NKT khi các công trình này không đảm bảo điểu kiện tiếp cận, Ví
dụ: nhà văn hóa, rạp chiếu phim không có đường dốc dành cho NKT vận động xe lăn,
các bến xe không có hệ thống loa báo bằng âm thanh giúp người khiếm thị nhận biết
bến và tiếp cận tuyến xe phù hợp. Chính từ sự đảm bảo điều kiện tiếp cận các công
trình công cộng, thông tin truyền thông ngoài ra cò hỗ trợ NKT tham gia đầy đủ vào
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như lao động, học nghề, chăm sóc sức khỏe…
II.VẤN ĐỀ CỤ THỂ HÓA NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC
TIẾP CẬN, HỖ TRỢ VÀ ĐIỀU CHỈNH HỢP LÍ ĐỐI VỚI NKT TRONG PHÁP
LUẬT KHUYẾT TẬT
Pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam đều tiếp cận NKT duới góc
độ mang tính chất xã hội. Pháp luật Việt Nam nói riêng và pháp luật thế giới nói
5
chung đã cụ thể hóa nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh
hợp lí đối với người khuyết tật trong các lĩnh vực: y tế; giáo dục, dạy nghề và việc
làm; hoạt động xã hội; bảo trợ xã hội… đảm bảo cho NKT được thực hiện các quyền
và nghĩa vụ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Các văn bản pháp lý quy định về nguyên tắc này, đó là: Luật Người khuyết năm
2010 và Nghị định 28/2012/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật người khuyết tật đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hỗ trợ
pháp lý cho NKT ở Việt Nam. Về nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và
điều chỉnh hợp lý đối với NKT, khái niệm “tiếp cận” được quy định tại Khoản 8
Điều 2 của Luật NKT. Hiện nay, thì Luật NKT chưa có điều luật cụ thể ghi rõ tên
nguyên tắc này mà chỉ quy định việc thực hiện nội dung của nó trong các điều luật về
từng nội dung, từng lĩnh vực như tiếp cận về việc làm, giáo dục, nhà ở, giao thông
công cộng,….đã góp phần mang lại nhiều lợi ích cho NKT.
Ngoài Luật NKT năm 2010 thì một số văn bản pháp luật khác cũng quy định về
vấn đề này, trong đó có thể kể đến: Bộ luật lao động (sửa đổi, bổ sung các năm 2002,
2006, 2007), Luật Giáo dục, Luật bảo hiểm xã hội, luật thể dục thể thao, luật đường
sắt năm 2005,…
Đối với lĩnh vực giáo dục – đào tạo:
Pháp luật khuyết tật quốc tế: Lần đầu tiên, năm 1989, trong Công ước về quyền
trẻ em, Tổ chức Liên hợp quốc quy định vấn đề bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật,
trong đó có quyền được giáo ( Điều 28). Trong Công ước quốc tế về quyền NKT năm
2006 đã liệt kê các quyền con người có ý nghĩa quan trọng với NKT, trong đó có
quyền được giáo dục ghi nhận ngay trong lời nói đầu và đặc biệt được quy định cụ thể
tại Điều 24 (giáo dục) , ngoài ra cũng được nhắc đến trong điều 26 ( tập luyện và phục
hồi)
Pháp luật khuyết tật Việt Nam: đã có nhiều văn bản chính sách hỗ trợ NKT tiếp
cận với giáo dục, quyền lợi của các cơ sở, quyền lợi của người tham gia dạy học đối
với NKT, chính sách quy định về các loại hình giáo dục cho NKT được ban hành và
áp dụng trong thực tế đã hỗ trợ tích cực cho NKT tiếp cận với hệ thống giáo dục quốc
dân. Một số chính sách quan trọng như : Luật giáo dục năm 2005, Nghị định số
75/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục với các quy đinh
đối với giáo dục cho NKT như: quyết định số 23/2006/ QĐ-BGDĐT ngày 22/5/2006
của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về giáo dục hòa nhập dành
cho người tàn tật/ khuyết tật; thông tư liên tịch của Bộ Lao động – thương binh và xã
hội và Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 10/8/2005 hướng dẫn thực hiện chính
sách hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong đó có quy định “ học
6
sinh tàn tật thuộc diện hộ nghèo được miễn học phí và các khoản đóng góp xây dựng
trường”
Đối với lĩnh vực dạy nghề và việc làm cho NKT:
Pháp luật quốc tế: trong Công ước về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của
người khuyết tật năm 1983 đã ghi nhận quyền được có việc làm của NKT (Điều 1,
Điều 3, Điều 7, Điều 8, Điều 9). Trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm
2006 đã ghi nhận quyền có việc làm tại Điều 26 (tập luyện và phục hồi) và Điều 27
(lao động và việc làm)
Pháp luật Việt Nam: đây là vấn đề được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và chỉ
đạo tổ chức thực hiện. Luật dạy nghề đã dành toàn bộ chương VII quy định dạy nghề
cho NKT với mục tiêu giúp NKT có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng
lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống và hòa
nhập cộng đồng. Đồng thời, nhà nước cũng khẳng định, hỗ trợ về tài chính và các ưu
đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho NKT nhằm khuyến khích công tác dạy nghề
cho NKT. Bộ luật lao động năm 1994 đã dành một mục riêng với 4 điều quy định về
lao động là NKT và khẳng đinh “ Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật
và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm cho người tàn tật”
Đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe cho NKT:
Pháp luật quốc tế: Lần đầu tiên, năm 1989, trong Công ước về quyền trẻ em,
Tổ chức Liên hợp quốc quy định vấn đề bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật, trong đó
có quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 23). Sau đó, năm 1991, Liên hợp quốc thông
qua văn kiện về Các nguyên tắc bảo vệ người bị bệnh tâm thần. Đến năm 2006, Đại
hội đồng Liên hợp quốc đánh dầu bước ngoặt quan trọng của việc khẳng định quyền
người khuyết tật nói chung, quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nói riêng bằng
việc thông qua Công ước quốc tế về quyền NKT. Tại công ước này đã liệt kê các
quyền con người có ý nghĩa quan trọng với NKT, trong đó có quyền được chăm sóc
sức khỏe quy định tại các Điều 25 (y tế), Điều 26( Hỗ trợ chức năng và phục hồi chức
năng).
Pháp luật Việt Nam: Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe NKT. Trong quy định của Hiến pháp (qua các lần sửa đổi) đểu khẳng định
NKT được hưởng các quyền của công dân nói chung trong đó có quyền được chăm
sóc sức khỏe. Trước khi Luật người khuyết tật được thông qua, chế độ chăm sóc sức
khỏe NKT đã được cụ thể hóa trong Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 và các luật
chuyên ngành khác. Khi Luật người khuyết tật ra đời, chế độ chăm sóc sức khỏe NKT
được quy định tại Chương III, từ Điều 21 đến Điều 26. Ngoài ra, trong các luật
chuyên ngành khác cũng có những điều khoản quy định về việc chăm sóc sức khỏe
7
NKT, đó là : Luật người cao tuổi (Điều 12), Luật khám bệnh, chữa bệnh ( Điều 3),
Luật hoạt động chữ thập đỏ (Điều 7), Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân( Điều 2, Điều
41), Luật bảo hiểm y tế (Điều 12 đến Điều 15), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em (các điều 41, 42, 48, 52) , Luật thanh niên (Điều 27), Pháp lệnh ưu đã người có
công vơi cách mạng (Điều 9 đến Điều 29)… Tùy từng đối tượng, dạng tật hoặc nhu
cầu của NKT mà pháp luật quy định chế độ chăm sóc sức khỏe NKT được hưởng một
hoặc nhiều chế độ trong quá trình chăm sóc sức khỏe.
Có thể thấy rằng, chế độ chăm sóc sức khỏe của NKT được quy định khá đầy đủ
và cụ thẻ trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trên cơ bản phù hợp với quy định của
Công ước quốc tế cũng như pháp luật các nước trên thế giới.
Đối với vấn đề tiếp cận giao thông và xây dựng cơ sở hạ tầng cho NKT:
Pháp luật quốc tế: trong Công ước quốc tế về quyền NKT năm 2006 đã khẳng
định “quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm cho
người khuyết tật được tiếp cận trên cơ sở bình đẳng với những người khác đối với môi
trường vật chất, giao thông…” tại Điều 9( Khả năng tiếp cận). Đồng thời Công ước
cũng quy định cần phát hiện và loại bỏ những cản trở và chướng ngại đối với sự tiếp
cận của NKT đối với các cơ sở hạ tầng như “Tòa nhà, đường sá, giao thông và các
công trình, cơ sở vật chất trong nhà và bên ngoài khác, trong đó có trường học, nhà ở,
cơ sở y tế và nơi làm việc”
Pháp luật Việt Nam: Để hỗ trợ NKT tiếp cận với giao thông và cơ sở hạ tầng
giao thông xã hội, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật trong đó có những
quy định ưu tiên đối với NKT tham gia giao thông; tiêu chuẩn, quy chuẩn khi xây
dựng mới, nâng cấp và cải tạo công trình giao thông đảm bảo tiếp cận của NKT. Luật
Đường sắt số 35/2005/QH11 quy định về tiêu chuẩn nhà ga, trang thiết bị trên phương
diện giao thông đường sắt đảm bảo NKT có thể tiếp cận, sử dụng. Luật Hàng không
dân dụng Việt Nam số 66/2006/ QH11, trong đó có quy định về nghĩa vụ của người
vận chuyển khi vận chuyển hành khách : phải quan tâm, chăm sóc hành khách là
người tàn tật hoặc cần sự chăm sóc trong quá trình vận chuyển. Năm 2002 Bộ xây
dựng đã ban hành bộ quy chuẩn xây dựng và tiêu chuẩn xây dựng tiếp cận cho NKT.
Bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn áp dụng đối với việc xây dựng mới và cải tạo công trình
công cộng, nhà ở, chung cư, đường và hè phố. Một số văn bản bao gồm: quy chuẩn
xây dựng công trình để đảm bảo NKT tiếp cận sử dụng; Nhà và công trình – Nguyên
tắc cơ bản xây dựng công trình để đảm bảo NKT tiếp cận sử dụng; Đường và hè phố nguyên tắc cơ bản xây dựng công trinh để đảm bảo NKT tiếp cận sử dụng; Nhà ởhướng dẫn xây dựng công trình để đảm bảo NKT tiếp cận và sử dụng
8
Ngoài ra còn có rất nhiều các lĩnh vực khác như văn hóa, giải trí, du lịch, công
nghệ thông tin và truyền thông… Nhà nước ta cũng đa ban hành các văn bản pháp luật
và các chính sách phù hợp để tạo nền tảng pháp lí quan trọng từ đó NKT có thể tiếp
cận và sử dụng phù hợp
Như vậy, có thể thấy rằng cơ sở pháp lý của nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp
cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lý đối với NKT tại Việt Nam tương đối rộng, nó không
tập trung trong một Bộ luật riêng mà được quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, trên cơ sở phù hợp với Công ước và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN:
1. Những thành tựu đạt được:
Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe: Từ khi có luật khám bệnh, chữa bệnh năm
2009 và Luật NKT năm 2010 ra đời thì vấn đề nhận thức của xã hội về việc cần thiết
phải chăm sóc sức khỏe cho NKT được nâng cao, từ đó dẫn tới các hoạt động cụ thể
của các tổ chức, cá nhân và các cơ sở y tế như việc khám chữa bệnh miễn phí cho
NKT, tập huấn cho những người chăm sóc NKT, phát những công cụ hỗ trợ cho NKT
miễn phí,…Đây là những hoạt động rất thiết thực, nhằm hỗ trợ một phần nào đó cho
NKT trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Theo báo cáo đến nay các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% NKT
thuộc hộ gia đình nghèo, thực hiện chỉnh hình phục hồi chức năng và cấp dụng cụ
chỉnh hình miễn phí cho khoảng 300 ngàn NKT; cung cấp phương tiện trợ giúp như
xe lăn, xe đẩy, chân tay giả cho trên 100 ngàn người; phẫu thuật chỉnh hình và trợ
giúp phục hồi chức năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật. Mạng lưới phục hồi
chức năng dựa vào cộng đồng đã được phát triển ở 46/63 tỉnh, thành phố với 215
huyện, trên 2.420 xã... Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm
2008 có 52,4% NKT đi khám bệnh, phục hồi chức năng nhận được sự hỗ trợ về kinh
phí (giảm viện phí).
Lĩnh vực giáo dục: Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC)
với tổng kinh phí trên 250 triệu USD, hướng tới một nền giáo dục cho mọi trẻ em (bao
gồm cả trẻ khuyết tật, trẻ có năng khiếu, trẻ em đường phố, trẻ em lao động sớm, trẻ
thuộc các dân tộc thiểu số...) đã phần nào đáp ứng được mong mỏi của hàng triệu gia
đình có con em không may mắn.
Công tác đào tạo nguồn lực cho giáo dục khuyết tật ngày càng được quan tâm
đến nay các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã có các khoa đào tạo, giáo dục đặc
biệt. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ liên quan đã ban hành mã ngành
đào tạo giáo dục trẻ em khuyết tật, giáo dục đặc biệt. Có 264 cán bộ quản lý giáo dục
9
của 63 tỉnh, thành phố và giảng viên của các trường đại học và cao đẳng sư phạm
trong cả nước đã được bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật, gần 700 giáo viên trung
học được đào tạo trình độ chuyên môn về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại 07
trường cao đẳng sư phạm, hơn 10.000 giáo viên mầm non và trung học được bồi
dưỡng kiến thức và kỹ năng dạy học trẻ khuyết tật, mạng lưới giáo viên cốt cán của
các huyện được hình thành để đáp ứng nhu cầu đi học của gần 230.000 trẻ khuyết tật.
Sử dụng các công trình, dịch vụ công cộng đối với NKT : Một số công trình
và dịch vụ công cộng tại Hà Nội đã có những ưu tiên nhất định dành cho người khuyết
tật. Chỉ thị số 01/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng như các văn bản liên
quan của Bộ Giao thông – vận tải về quản lý vận tải hành khách công cộng bằng xe
buýt đã tạo điều kiện để người khuyết tật tiếp cận được với vận tải công cộng. Thời
gian qua UBND thành phố Hà Nội và Sở Giao thông – vận tải đã thường xuyên quan
tâm, chỉ đạo trung tâm thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp hỗ trợ tích cực cho
người khuyết tật sử dụng xe buýt. Trung tâm đã phối hợp với Hội Khiếm thị Hà Nội
phát hành thẻ đi xe buýt thông minh (Smard card) cho người khiếm thị theo tinh thần
Quyết định số 1821/QĐ-UB của UBND Thành phố về việc bổ sung đối tượng được
hưởng giá vé xe buýt ưu đãi. Thực hiện Quyết định số 4813/QĐ-UBND của UBND
Thành phố về việc miễn vé xe buýt cho thương, bệnh binh và người khuyết tật, trung
tâm đã phối hợp với các cơ quan liên quan thống nhất hướng dẫn thủ tục cấp thẻ đi xe
buýt miễn phí cho thương, bệnh binh, người khuyết tật. 16.286 thẻ miễn phí đã được
chuyển tới tay thương, bệnh binh và NKT.
Ngoài ra, một thành tựu đáng được đề cập tới đó là: Nhà máy Sản xuất ô tô 1-5
tại thị trấn Đông Anh- Hà Nội đã xây dựng và thử nghiệm thành công Đề án “Hỗ trợ
sản xuất thử nghiệm xe buýt tiếp cận theo tiêu chuẩn đã ban hành”. Sau khi tham
khảo kinh nghiệm từ các nước phát triển cũng như nghiên cứu thực tế, nhà máy đã lắp
đặt thiết bị nâng, hạ thủy lực để đưa người đi xe lăn lên, xuống, ra, vào xe buýt. Bộ
Giao thông vận tải đã nghiệm thu và đánh giá đề án đạt mức A. Với việc thực hiện đề
án này trên thực tế sẽ khắc phục đáng kể những khó khăn của người khuyết tật khi
tham gia các dịch vụ công cộng
Vấn đề học nghề và việc làm: Ở Việt Nam, công tác dạy nghề cho NKT
được Nhà nước đặc biệt quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ phát triển hạ tầng
cơ sở dạy nghề, cho đến chính sách trợ giúp NKT học nghề, chính sách ưu đãi đối với
người tham gia dạy nghề cho NKT.
10
1
Số cơ sở dạy nghề ở Việt Nam tăng lên cả về số lượng, quy mô và chất lượng đào
tạo, đồng thời công tác dạy nghề cho NKT từng bước được xã hội hoá với sự tham gia
ngày càng nhiều của khu vực tư nhân. Tính đến thời điểm hiện tại cả nước có 256 cơ
sở dạy nghề (trong đó có 78 cơ sở của tư nhân) đóng trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố.
Trong tổng số 256 cơ sở này chỉ có 55 cơ sở dạy nghề chuyên biệt cho NKT, còn lại là
các cơ sở dạy nghề khác có tham gia dạy nghề cho NKT.
Hiện nay, công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT đã có bước tiến bộ, nhận
thức của xã hội về đối tượng này cũng có nhiều thay đổi. Ngoài các cơ sở đào tạo
nghề của Nhà nước thì những năm gần đây, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức
tự lực của NKT cũng đã và đang tham gia vào việc đào tạo nghề cho NKT. Trong năm
2011 Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và tạo việc làm cho người tàn tật (thuộc Sở LĐTB-XH TPHCM) đã dạy bổ túc văn hóa cấp 1, 2, 3 cho 247 NKT; đào tạo nghề miễn
phí cho 1.295 lượt người, trong đó có 423 NKT; giới thiệu và giải quyết việc làm có
thu nhập ổn định cho 408 NKT.
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về dạy nghề từ trung ương đến địa phương đã
được kiện toàn một bước, các cơ sở dạy nghề dành riêng cho NKT được ưu tiên cấp
địa điểm thuận lợi, hỗ trợ vốn, cấp kinh phí đào tạo, miễn giảm thuế, được vay vốn
với lãi suất ưu đãi; các cơ sở dạy nghề khác nhận NKT vào học nghề, nâng cao trình
độ tay nghề được ưu tiên đầu tư, bảo đảm định mức kinh phí đào tạo. NKT học nghề
1
Báo cáo thường niên năm 2010- Báo cáo năm 2010 về hoạt động hỗ trợ NKT Việt Nam
11
được xem xét cấp học bổng và trợ cấp xã hội, được miễn hoặc giảm học phí căn cứ
mức độ khuyết tật và mức độ suy giảm khả năng lao động.
2. Các hạn chế còn tồn tại :
Vấn đề giáo dục: Những năm qua ngành giáo dục chỉ tập trung giải quyết số
lượng cho đối tượng là trẻ khuyết tật ở mầm non và tiểu học, các cấp học cao hơn
chưa được quan tâm đúng mức. Vài năm học trước mới chỉ có khoảng 26% trẻ khuyết
tật được đến trường, tập trung chủ yếu ở bậc tiểu học. Việc chuyển đổi sách giáo khoa
sang chữ nổi cho học sinh mù ở tiểu học và THCS, việc biên soạn tài liệu ký hiệu
ngôn ngữ dành cho người khiếm thính đưa vào sử dụng ở các cơ sở giáo dục cũng gặp
khó khăn không ít. Đưa được NKT đến trường đã khó, làm thế nào để NKt hòa nhập
và thích ứng với môi trường học tập hoàn toàn mới mẻ lại còn khó khăn hơn gấp bội.
Thống kê cho thấy trong số trẻ khuyết tật đã đi học có tới 32,99% số trẻ bỏ học. Trong
cả nước còn khoảng 2,57% số trẻ em chưa có cơ hội đến trường vì lý do khuyết tật(2)...
NKT tham gia vào quá trình học tập còn gặp nhiều khó khăn trở ngại nên hiệu
quả và thành tích chưa cao. Nhà trường tuy đã có những hoạt động hỗ trợ nhưng chưa
đúng phương pháp làm cho khả năng hòa nhập mà vẫn độc lập của NKT khi tham gia
học tập là chưa đạt hiệu quả.
Vấn đề chăm sóc sức khỏe: Theo Hội đồng Điều phối Quốc gia về Khuyết tật tại
Việt Nam, NKT gặp nhiều khó khăn tiếp tận với các dịch vụ y tế đặc biệt ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng miền núi. Có khoảng trên 6 triệu NKT hiện đang sinh sống ở vùng
nông thôn của Việt Nam. Do phải chịu nhiều kỳ thị, nhiều NKT thường giấu mình và
không tham gia vào hoạt động xã hội, thậm chí ngay cả khi họ có nhu cầu khám, chữa
bệnh. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho NKT thường bị từ chối vì những trung tâm y tế
thường hoặc ở quá xa hoặc không tiếp cận được, hoặc các nhân viên y tế tìm cách từ
chối họ bằng nhiều lý do. Phụ nữ khuyết tật thường cho biết họ bị từ chối hoặc la
mắng khi tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản. Các thông tin về y tế thường ở dạng
khó tiếp cận vì NKT không được xem là đối tượng của những chương trình giáo dục
về sức khỏe. Các trung tâm vật lý trị liệu cũng thường không tiếp cận được với người
đi xe lăn, hoặc các dịch vụ quá đắt so với thu nhập của NKT. Viê ̣c chi trả BHYT hiê ̣n
nay cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của người bê ̣nh khi mà các ca mổ chỉ được
thanh toán 80% đối với bê ̣nh nhân đúng tuyến, 30% đối với bê ̣nh nhân có thẻ vượt
tuyến. Nếu không có sự chung tay của cô ̣ng đồng thì, không có những chính sách phù
hợp thì NKT, nhất là người nghèo, vẫn rất khó tiếp câ ̣n với các dịch vụ y tế.
2
Quốc Hùng, Giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật như thế nào?, 2009.
Được lấy từ: http://www.baovanhoa.vn/DATH/print-18919.vho
12
Nhiều đại biểu cho rằng dù đã có Luật NKT từ hơn một năm nay tuy nhiên sự
quan tâm và chuyển hóa bằng những việc làm thiết thực, cụ thể và tầm vóc dành cho
NKT vẫn tồn tại nhiều bất cập, chủ yếu vẫn là những hoạt động nhỏ lẻ, tự phát trong
cộng đồng, chưa thành những cuộc vận động lớn... Việc chỉ đạo và quan tâm của
Chính phủ và các bộ ngành về kinh phí và cơ chế chính sách trong chăm sóc sức khỏe
cũng như trong xây dựng, cải tạo hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng là điều mà NKT
cũng như cộng đồng chờ đợi hiện nay
Vấn đề học nghề và việc làm
Số lượng NKT được học nghề còn quá ít và chiều hướng tăng không đáng kể. Tỷ
lệ NKT sau đào tạo nghề tìm được việc làm còn rất thấp và chủ yếu là tự tạo việc làm,
số có thể tìm được việc làm trong các doanh nghiệp lớn hầu như không đáng kể. Theo
đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 cho thấy, hiện nay
nước ta tỷ lệ NKT được học nghề mới chỉ đạt 12,1%.
Nhận thức của bản thân NKT và gia đình về đào tạo nghề cho NKT còn chưa đầy
đủ, nhu cầu học nghề của NKT rất thấp. Kết quả điều tra năm 2008 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy chỉ có 13,7% NKT có nhu cầu học nghề.
Năng lực giới thiệu việc làm sau đào tạo nghề cho người khuyết của hệ thống
trung tâm giới thiệu việc làm còn hạn chế. NKT được đào tạo xong không tìm được
việc làm, dẫn đến tâm lý chán nản, bế tắc, nguồn kinh phí đưa ra cho công tác đào tạo
trở thành lãng phí lớn, không sát thực tế .
Hệ thống dạy nghề hiện nay vừa yếu, vừa thiếu, chưa đủ khả năng đáp ứng công
tác dạy nghề cho NKT. Các cơ sở dạy nghề cho NKT đều thiếu vốn, cơ sở vật chất
nghèo nàn, trang thiết bị dạy nghề chưa đúng quy cách. Đội ngũ giáo viên dạy nghề
cho NKT còn yếu cả về kiến thức, kỹ năng và nhận thức về các lĩnh vực kỹ thuật, sư
phạm và quản lý đối với NKT. Nội dung chương trình, ngành nghề đào tạo, hình thức
đào tạo chưa hợp lý về kết cấu, quá nặng về lý thuyết, thiếu thực hành; chưa có những
giáo trình dành riêng cho NKT; thiếu các thiết bị dạy nghề đối với NKT.
Các ngành nghề trong chương trình dạy chưa phù hợp với thị trường lao động,
chủ yếu đào tạo ngắn hạn, các nghề, công việc ở trình độ bậc thấp. Hiện nay, các cơ
sở dạy nghề thường dạy các nghề thủ công như nghề thêu, nghề may, nghề mộc,…
Tuy nhiên, các công việc này thường ở trình độ thấp, không sử dụng nhiều máy móc
nên không đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động. Đặc biệt các sản phẩm
do người lao động khuyết tật làm ra thường có giá thành cao hơn so với thị trường vì
các sản phẩm của họ thường được làm thủ công nên tốn nhiều thời gian và công sức,
vì vậy mà khó cạnh tranh với hàng hóa khác
IV. ĐÁNH GIÁ VÀ BÌNH LUẬN:
13
Có thể thấy rằng, các chế độ dành cho NKT được quy định khá đầy đủ và cụ thể
trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trên cơ bản phù hợp với quy định của Công ước
quốc tế cũng như pháp luật các nước trên thế giới. Việc đưa ra các căn cứ pháp lí đầy
đủ và cụ thể có thể giúp cho NKT hòa nhập với cộng đồng nhanh chóng và dễ dàng
hơn, đồng thời họ cũng có điều kiện phát triền toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
1. Đánh giá quy định của pháp luật hiện hành:
Mặc dù hiện nay quy định của Luật NKT và các ngành luật khác đã có những
quy định khá cụ thể và rõ ràng về cách thức và mức độ tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh
hợp lý đối với người khuyết tật. Tuy nhiên cũng cần phải thấy quy định của pháp luật
nhìn ở nhiều khía cạnh khác nhau còn chưa thật sự hợp lí: Cũng phải thấy rằng ranh
giới giữa nhu cầu, mong muốn với điều kiện đáp ứng; giữa tiếp cận và khả năng; giữa
cơ hội, sự ưu đãi và phân biệt đối xử… là rất mong manh.
- Chẳng hạn, các quy định về giảm giờ làm việc cho người khuyết tật trong Bộ
luật lao động về hình thức là bảo vệ, ưu đãi họ nhưng thực tế lại là rào cản trong quá
trình tìm việc của người khuyết tật.
- Quy định về làm thêm giờ “Cấm sử dụng người tàn tật đã bị suy giảm khả năng
lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc ban đêm: Quy định này dường như đã
làm hạn chế nhu cầu làm việc của NKT, vì thực tế, có nhiều người khuyết tật tuy đã
suy giảm khả năng lao động từ 51% những họ vẫn có khả năng làm thêm giờ và có
nguyện vọng muốn tăng thu nhập ( ví dụ như các nghề có công việc nhẹ nhàng như
làm thư kí, kế toán, các công việc ngồi bàn giấy…). Đây cũng là một rào cản trong
quá trình tìm việc của người khuyết tật. Pháp luật nên đưa ra quy định về việc làm
thêm giờ cần cụ thể với các loại đối tượng, đồng thời nên quy định là tùy thuộc vào
nguyện vọng và tình hình sức khỏe cũng như công việc làm thêm để phù hợp với từng
hoàn cảnh của NKT.
- Hay một số nước đưa vào trong luật về định chỉ tiêu việc làm bắt buộc cho
người khuyết tật nếu không sẽ bị phạt khoản tiền nhất định nhằm bảo vệ việc làm cho
người khuyết tật. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là biện pháp đối xử ưu đãi tạm
thời để nâng cao vị thế của những người ít có vị thế, cơ hội tiếp cận việc làm. Sẽ là tốt
hơn nếu có các ưu đãi về tài chính khuyến khích cho người sử dụng lao động tạo
nhiều cơ hội cho người khuyết tật tiếp cận việc làm. Như vậy, điều quan trọng của
nguyên tắc này không phải ở chỗ pháp luật quy định bao nhiêu quyền và phúc lợi cho
người khuyết tật mà là xã hội sẽ ứng xử như thế nào để người khuyết tật bằng các khả
năng và hành vi của mình thực hiện các quyền của họ với tư cách các quyền con
người.
14
2. Đánh giá và bình luận về thực thi pháp luật:
- Nhu cầu của NKT và đáp ứng nhu cầu: Những quy định của pháp luật mới chỉ
dừng lại ở việc quy định các nhu cầu cho NKT, nhưng thực tiễn khả năng đáp ứng nhu
cầu đó thì chưa thật sự đạt hiệu quả. Do tình hình kinh tế đất nước ta hiện nay vẫn còn
nhiều khó khăn, nên các chính sách bảo trợ xã hội, các quy định của pháp luật chưa
thật sự đi vào đời sống, chưa thực sự đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của NKT. Ví
dụ như NKT có quyền ưu tiên được khám chữa bênh nhưng thực tế Nhu cầu chăm
sóc sức khỏe cho NKT thường bị từ chối vì những trung tâm y tế thường hoặc ở quá
xa hoặc không tiếp cận được, hoặc các nhân viên y tế tìm cách từ chối họ bằng nhiều
lý do.Các trung tâm vật lý trị liệu cũng thường không tiếp cận được với người đi xe
lăn, hoặc các dịch vụ quá đắt so với thu nhập của NKT…
- Tiếp cận cho NKT và khả năng : các quy định của pháp luật khi đi vào thực tiễn
vẫn chưa thực sự phù hợp với khả năng bản thân của NKT.
- Cơ hội cho NKT và ưu đãi, phân biệt đối xử : cơ hội đối với NKT không có
nghĩa là phân biệt đối xử mà là những ưu đãi cho họ vì họ là những con người yếu thế
trong xã hội. Nhưng thực tiễn thì lại có những cách hiểu nhầm lẫn về vấn đề này. Ví
dụ như ưu đãi cho NKT “ Thời giờ làm việc của người tàn tật không được quá bảy giờ
một ngày hoặc 42 giờ một tuần” ( khoản 4 Điều 125 BLLĐ). Vậy có thể thấy đây là
ưu tiên cho NKT về thời gian làm việc ít hơn người bình thường và vẫn được hưởng
lương đầy đủ như người bình thường làm việc 8 tiếng. Nhưng cũng chính quy định
như vậy mà cũng làm hạn chế cho NKT cơ hội việc làm, nên ít Người sử dụng lao
động nào lại muốn chịu thiệt về mình mà tuyển dụng họ
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Qua những phân tích trên có thể thấy nguyên tắc nguyên tắc đảm bảo quyền
được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lý đối với người khuyết tật có ý nghĩa vô cùng
quan trọng với NKT, nó là cơ sở pháp lý để NKT được quan tâm hơn nữa từ phía Nhà
nước, cộng đồng và xã hội, tạo điều kiện cho họ được tham gia vào mọi mặt của đời
sống như những người bình thường khác, để từ đó họ được hòa nhập vào cộng đồng
và có những đóng góp nhất định cho xã hội, trở thành những con người có ích. Tuy
nhiên, cần phải có những quy định pháp luật cụ thể và phù hợp hơn cũng như cần
phải đẩy mạnh công tác thựa thi pháp luật để NKT thực sự được tiếp cận với các lĩnh
vực, được hỗ trợ phù hợp, hiệu quả.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
* Báo cáo thường niên năm 2010- Báo cáo năm 2010 về hoạt động hỗ trợ
NKT Việt Nam
* Giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2011
* Văn bản pháp luật quốc tế:
+ Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật năm 2006
+ Công ước về quyền trẻ em 1989
+ Công ước về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm
1983
* Văn bản pháp luật Việt Nam:
+ Luật người khuyết tật 2010
+ Nghị định 128/ 2012/ NĐ- CP
+ Luật dạy nghề năm 2007
+ Luật bảo hiểm y tế 2008
+ Luật giáo dục năm 2005
* Các website
16
- Xem thêm -