Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Giáo trình quản lý giáo dục đại học quân sự...

Tài liệu Giáo trình quản lý giáo dục đại học quân sự

.PDF
140
1
89

Mô tả:

BỘ QUỐC PHÒNG TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ  GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUÂN SỰ (Dùng cho đào tạo giảng viên chuyên ngành Giáo dục học quân sự bậc đại học) HÀ NỘI, 2007 BỘ QUỐC PHÒNG TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ  GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUÂN SỰ (Dùng cho đào tạo giảng viên chuyên ngành Giáo dục học quân sự bậc đại học) Ban biên soạn: 1. Đại tá, PGS, TS Đặng Đức Thắng: Chủ biên, chương 1,2 2. Đại tá, TS Trần Đình Tuấn: Chương 3, 5 3.Đại tá, TS Mai Văn Hoá : Chương 9 4. Đại tá, Th.S Nguyễn Văn Phán: Chương 4 5. Đại tá, Th.S Nguyễn Hữu Các: Chương 8 6. Đại tá, Th.S Hồ Bá Cảnh: Chương 6 7. Thượng tá, TS Phạm Minh Thụ: Chương 7 HÀ NỘI, 2007 LỜI NÓI ĐẦU Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá: “Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập” 1. Một trong những giải pháp cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo được Đại hội chỉ ra là “Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; thực hiện phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục” 2. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục nhà trường quân sự, Tổng cục Chính trị chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu biên soạn giáo trình "Quản lý giáo dục đại học quân sự. Giáo trình “Quản lý giáo dục đại học quân sự” là một công trình khoa học của tập thể tác giả Khoa Sư phạm quân sự, Học viện Chính trị quân sự do Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đức Thắng chủ biên. Đây là cuốn giáo trình đầu tiên về quản lý giáo dục trong lĩnh vực quân sự ở nước ta. Giáo trình được biên soạn trong bối cảnh khoa học quản lý giáo dục cũng mới được hình thành, nhiều vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Quản lý giáo dục bao gồm các cấp độ vĩ mô và vi mô nhưng giáo trình này chủ yếu bàn đến quản lý vi mô, hướng vào quản lý giáo dục ở cấp cơ sở, trong các học viện, nhà trường đại học quân sự. Nội dung của giáo trình gồm 9 chương. Trong đó, chương 1 và 2 giới thiệu những vấn đề chung về khoa học quản lý giáo dục và quản lý giáo dục đại học quân sự; chương 3 và 4 đề cập đến các quá trình quản lý giáo dục đại học quân sự; từ chương 5 đến chương 9 trình bày cách tổ chức thực hiện các nội dung quản lý giáo dục trong nhà trường đại học quân sự. Nội dung giáo trình bao gồm cả lý thuyết và hướng dẫn ứng dụng lý thuyết đó trong thực tiễn, giúp người học phát triển cả tư duy và kỹ năng thực hành. Giáo trình có thể dùng làm tài liệu học tập chính thức của các lớp đào tạo giảng viên bậc đại học, các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và là tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo trong toàn quân cũng như những quan tâm về lĩnh vực khoa học này. TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.170 2 Sđd , tr.35 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUÂN SỰ I. QUAN NIỆM CHUNG VỀ QUẢN LÝ VÀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Khái niệm về quản lý và một số học thuyết quản lý truyền thống Quản lý là một hoạt động phổ biến diễn ra trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt nócó liên quan mật thiết đến sự hợp tác và phân công lao động. C.Mác đã xem quản lý là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lao động xã hội. Ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hành những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”3. Quản lý là: “hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”(4). Quản lý là một hoạt động có chủ đích, là sự tác động liên tục của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về nhiều mặt bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc và các phương pháp cụ thể nhằm thực hiện các mục tiêu xác định. Trong quá trình quản lý, chủ thể tiến hành các hoạt động cơ bản như: xác định mục tiêu, chủ trương, chính sách, kế hoạch; tổ chức thực hiện, điều chỉnh các hoạt động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất là nhằm tạo ra môi trường, điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý. Sự xuất hiện của hoạt động quản lý trong xã hội dẫn đến mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý và những mối quan hệ qua lại của các nhân tố trong hệ thống quản lý. Những mối quan hệ phức tạp ấy người ta gọi là 3 4 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 480 Từ điển Giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2001, tr. 326 quan hệ quản lý - một kiểu của quan hệ xã hội và là đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý. Khoa học quản lý đi sâu vào nghiên cứu bản chất của các mối quan hệ quản lý và các quy luật vận động, phát triển của chúng, trên cơ sở đó đề xuất những con đường, phương pháp tối ưu cho sự quản lý hệ thống xã hội nhằm tạo điều kiện cho nó vận hành thuận lợi đạt tới mục tiêu xác định. Khoa học quản lý được hình thành, phát triển trên nền tảng của những tiến bộ khoa học và công nghệ, thành tựu của những giá trị văn hoá - tinh thần, song đặc biệt nó gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp. Một trong những lý thuyết quản lý tiêu biểu phải kể đến đầu tiên là Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor (1856-1915) - người Mỹ. Taylor đã đề xuất ra những nguyên tắc cơ bản để quản lý một cách khoa học, cải tiến quy trình tuyển dụng, huấn luyện nhân viên và tìm kiếm một phương pháp hữu hiệu nhất để hoàn thành công việc. Tuy nhiên, trường phái quản lý khoa học trong khi đề cao vai trò trung tâm của công nghệ đã ít quan tâm đến khía cạnh con người trong sản xuất. Họ cho rằng, nhân công là một yếu tố của hao phí sản xuất và cũng là một yếu tố bất định. Bên cạnh thuyết quản lý khoa học còn có Thuyết quản lý hành chính. Đại biểu của trường phái này là Henry Fayol (1841-1925), người Pháp, trong tác phẩm “Quản lý công nghiệp và quản lý tổng quát“ đã đề xuất một trong những vấn đề then chốt nhất của lý luận quản lý dựa trên nguyên tắc về sự phân công lao động trong quản lý là vấn đề các chức năng quản lý. Theo ông, quản lý có các chức năng cơ bản là dự đoán và lập kế hoạch tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra. Sau này, còn có thuyết quản lý bàn giấy - người đại biểu cho trường phái này là nhà xã hội học người Đức Max Weber (1864-1920). Quản lý kiểu bàn giấy là một hệ thống dựa trên những nguyên tắc hệ thống thứ bậc, sự phân công lao động và quy trình sản xuất, kinh doanh. Theo M.Weber, để quản lý tốt một tổ chức cần xác định rõ những vấn đề quy luật, chuẩn mực của tổ chức, phân định rạch ròi quyền hạn của mỗi cấp quản lý, có những cam kết ràng buộc mỗi thành viên với tổ chức và ngược lại. Trên đây là một số trường phái quản lý truyền thống tiêu biểu. Nhìn chung, các lý thuyết đó đều nhấn mạnh đến những nguyên tắc quản lý, đề cập các mối quan hệ quản lý và đề cao vai trò của nhà quản lý. Ngày nay, các quan điểm quản lý truyền thống đó vẫn được nghiên cứu, cải tiến và vận dụng. Song các quan điểm quản lý hiện đại đã chú ý nhiều hơn đến việc tạo điều kiện để những nhà quản lý có ứng xử hợp lý khi động chạm đến khía cạnh con người trong một tổ chức (quan điểm hành vi); tiếp cận hệ thống trong quản lý (quan điểm hệ thống); coi trọng bốn chức năng quản lý chủ yếu: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo - lãnh đạo và kiểm tra; coi trọng tính hiệu quả, xem con người là nguồn lực chủ yếu để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất (lý thuyết quản lý hiệu quả)… 2. Khái niệm về quản lý giáo dục Nếu xem quản lý là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi hoạt động xã hội, thì quản lý giáo dục cùng là một thuộc tính tất yếu của mọi hoạt động giáo dục có mục đích. Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục, song thường người ta đưa ra quan niệm quản lý giáo dục theo hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi mô. Quản lý vĩ mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nền giáo dục (hệ thống giáo dục) và quản lý vi mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường. Ở cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều chỉnh, giám sát và kiểm tra một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm làm cho toàn bộ hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra. Ở cấp độ vi mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục và đào tạo của nhà trường (cơ sở giáo dục) nhằm hình thành, phát triển toàn diện nhân cách người học theo mục tiêu, mô hình giáo dục và đào tạo đặt ra. Như vậy, thuật ngữ “quản lý nhà trường” có thể xem là đồng nghĩa với quản lý giáo dục ở tầm vi mô. Song cần nhận rõ tác động của chủ thể quản lý đến nhà trường có hai loại tác động từ bên ngoài và tác động bên trong nhà trường. Tác động từ bên ngoài nhà trường là tác động của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các hoạt động dạy học, giáo dục của nhà trường. Tác động từ bên trong là hoạt động của các chủ thể quản lý của chính nhà trường nhằm huy động, điều phối, giám sát các lực lượng giáo dục của nhà trường thực hiện có chiến lược, có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học và giáo dục đặt ra. 3. Đặc điểm và các quan điểm quản lý giáo dục a. Đặc điểm của quản lý giáo dục Từ những khái niệm nêu trên, dù ở cấp độ vĩ mô hay vi mô, ta có thể nhận thấy một số đặc điểm chung của quản lý giáo dục: Một là, quản lý giáo dục bao giờ cũng có chủ thể và đối tượng quản lý. Chủ thể ở đây có thể là một cá nhân (như hiệu trưởng, giám đốc nhà trường, học viện…), cũng có thể là một tổ chức hay tập thể ( bộ, sở, phòng giáo dục và đào tạo…). Còn đối tượng quản lý ở đây những nhân tố mà chủ thể quản lý tác động đến - đó là những nhân tố trong quá trình giáo dục và đào tạo, là những ai thực hiện hoặc nhận sự giáo dục và đào tạo. Hai là, quản lý giáo dục là một quá trình truyền đạt thu nhận và xử lý thông tin một cách tích cực. Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng phải đưa ra các thông tin (nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch, chương trình…), đó chính là các thông tin điều khiển. Sau đó, chủ thể quản lý phải thường xuyên theo dõi, thu nhận các thông tin phản hồi về kết quả thực hiện các nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của đối tượng quản lý. Còn đối tượng quản lý tiếp nhận các thông tin điều khiển của chủ thể để định hướng hoạt động, xác định kế hoạch hoạt động và tự điều khiển mình nhằm thực thi các chỉ thị, mệnh lệnh yêu cầu chủ thể quản lý. Ba là, quản lý giáo dục vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Để có những tác động quản lý hợp quy luật, phát huy được hiệu quả và chất lượng của các nguồn lực giáo dục, đòi hỏi nhà quản lý phải có tri thức quản lý, có quan điểm tiếp cận thực tiễn quản lý đúng đắn, có phương pháp quản lý cụ thể phù hợp với thực tiễn. Nói cách khác, hoạt động quản lý là một khoa học, cần được đối xử một cách khoa học, nhà quản lý không thể mang tác phong tuỳ tiện, đơn giản, chủ quan. Quản lý giáo dục đồng thời còn là một nghệ thuật, vì quản lý giáo dục là quản lý quá trình đào tạo, hình thành và hoàn thiện nhân cách, nó đòi hỏi nhà quản lý muốn đạt được chất lượng và hiệu quả quản lý cao luôn luôn phải trau dồi tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ và phong cách công tác chuẩn mực cùng với phong cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo với con người. b. Các quan điểm về quản lý giáo dục Quan điểm hiệu quả Cơ sở xuất phát của quan điểm này là áp dụng tư tưởng kinh tế vào quản lý giáo dục. Theo quan điểm hiệu quả, quản lý giáo dục phải được thực hiện sao cho hiệu số giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống giáo dục phải đạt đến cực đại. Quan điểm kết quả Quan điểm kết quả là quan điểm quản lý giáo dục chú ý tới việc đạt được mục tiêu giáo dục nhiều hơn chú ý đến hiệu quả kinh tế của nó. Cơ sở khoa học của quan điểm này là dựa vào những thành tựu của khoa học tâm lý và giáo dục. Quan điểm đáp ứng Xuất phát từ sự phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và chính trị, quan điểm đáp ứng nghĩa là trong quản lý giáo dục cần hướng tới làm cho hệ thống giáo dục, phục vụ, đáp ứng các đòi hỏi của sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Trên đây là một số quan điểm tiêu biểu trong quản lý giáo dục. Trong thực tế, vận dụng các quan điểm trên cần có sự kết hợp hài hoà để phát triển giáo dục một cách tối ưu, đạt được mục tiêu cao nhất là hình thành, phát triển nhân cách con người, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUÂN SỰ 1. Đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục đại học quân sự Trước hết, cần nhận rõ sự khác nhau giữa đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục với đối tượng của chủ thể trong hoạt động quản lý giáo dục. Trong thực tiễn giáo dục và đào tạo ở các trường đại học quân sự, đối tượng quản lý là các nguồn lực giáo dục của nhà trường (tập thể và cá nhân giảng viên, học viên) và các mối quan hệ trong hệ thống giáo dục của nhà trường. Còn khoa học quản lý giáo dục chỉ đi sâu vào nghiên cứu các quan hệ quản lý giáo dục của nhà trường. Đối tượng của khoa học quản lý giáo dục đại học quân sự là các quan hệ quản lý giáo dục và các quy luật vận động, phát triển của chúng ở nhà trường đại học quân sự. Các quan hệ quản lý giáo dục ở đại học quân sự rất đa dạng phức tạp. Có thể nêu ra ở đây một số mối quan hệ chủ yếu như: - Quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong hệ thống tổ chức quản lý giáo dục ở nhà trường, như quan hệ giữa ban giám đốc (hoặc ban giám hiệu), các cơ quan chức năng (phòng, ban trực thuộc) với các khoa, bộ môn, các đơn vị quản lý học viên (hệ, tiểu đoàn, đại đội, lớp …), các đơn vị phục vụ… - Quan hệ trong nội bộ hệ thống quản lý giáo dục, bao gồm: quan hệ giữa các cấp quản lý (quan hệ dọc) ví dụ như quan hệ giữa Cục Nhà trường với Phòng Đào tạo, giữa phòng với các ban chức năng …; quan hệ giữa các bộ phận trong một cấp quản lý (quan hệ ngang). Ngoài ra theo chức năng quản lý giáo dục, cần phải tính đến mối quan hệ giữa các khâu, các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra …trong quá trình quản lý giáo dục. Các quan hệ quản lý giáo dục ở đại học quân sự thể hiện rõ tính chất khách quan và chủ quan của chúng. Mặt khách quan thể hiện ở chỗ, các quan hệ quản lý giáo dục, chịu sự chi phối của đường lối, quan điểm phát triển giáo dục của Đảng, của quân đội; vận động theo các quy luật giáo dục, quy luật quản lý. Mặt chủ quan thể hiện ở chỗ, các mối quan hệ đó đều thông qua con người, do con người xây dựng lên và hoàn thiện chúng để phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu quản lý. Các quan hệ quản lý giáo dục ở đại học quân sự phản ánh rõ đặc điểm của một tổ chức quân sự, mang tính thứ bậc, chỉ huy và chỉ đạo. Điều 58, Điều lệ Công tác nhà trường quân đội quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người chỉ huy, quản lý nhà trường nêu rõ: “Người chỉ huy cơ quan, đơn vị được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ chỉ đạo công tác nhà trường cấp mình và quản lý nhà trường quân đội thuộc quyền”. Đương nhiên, theo mối quan hệ dọc của hệ thống quản lý giáo dục trong quân đội, tất yếu nảy sinh quan hệ thứ bậc và cơ chế quan hệ ở đây là chỉ huy - phục tùng. Bên cạnh các quan hệ thứ bậc, chỉ huy - phục tùng nêu trên, quản lý giáo dục ở đại học quân sự còn có những mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa các cơ quan (phòng, ban chức năng), với các khoa bộ môn, các đơn vị quản lý học viên; và các mối quan hệ đa chiều khác với các nhà trường, cơ quan quản lý trong và ngoài quân đội . Tóm lại, khoa học quản lý giáo dục đại học quân sự nghiên cứu các mối quan hệ quản lý mang tính tất yếu, vốn có, đa dạng và phức tạp trong hoạt động quản lý, trên cơ sở đó, phát hiện và khái quát những quy luật vận động, phát triển của chúng, tạo ra cơ sở khoa học để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý giáo dục ở các nhà trường đại học quân sự. 2. Những nhiệm vụ nghiên cứu Với tư cách là một khoa học, quản lý giáo dục đại học quân sự phải được xây dựng dựa trên nền tảng của những sự kiện, dữ liệu khoa học trong thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục; có cơ cấu nội dung phù hợp, phản ánh được những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý như: những cơ sở phương pháp luận; cơ sở lý luận của việc tổ chức quản lý giáo dục; những vấn đề về công nghệ, phương pháp, phương tiện quản lý giáo dục, những vấn đề về tổng kết kinh nghiệm, dự báo sự phát triển và đổi mới quản lý giáo dục trong các nhà trường quân sự … Vì vậy, để hình thành và phát triển khoa học quản lý giáo dục ở đại học quân sự, cần giải quyết tốt những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây : - Nghiên cứu, xác định những quan điểm, nguyên tắc với tư cách là cơ sở phương pháp luận của quản lý giáo dục đại học quân sự . - Nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm, bản chất, quy luật vận động, phát triển, cũng như chức năng, cơ cấu bộ máy quản lý giáo dục ở đại học quân sự. - Nghiên cứu xác định những mô hình tổ chức, công nghệ, phương pháp, phương tiện quản lý giáo dục ở đại học quân sự. - Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm cũng như dự báo sự phát triển, xu hướng đổi mới tổ chức lao động, kĩ năng, nghệ thuật, hiệu quả quản lý giáo dục. Để giải quyết tốt những nhiệm vụ nêu trên, khoa học quản lý giáo dục đại học quân sự phải kế thừa những thành tựu của các khoa học có liên quan, đặc biệt là khoa học quản lý và khoa học giáo dục; phải bám sát thực tiễn quản lý giáo dục sinh động ở các trường đại học quân sự; phải kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận với khảo sát, điều tra và thực nghiệm, thí nghiệm những giải pháp tác động nhằm cải tạo hiện thực. Nhạy bén nắm bắt những xu hướng vận động của thực tiễn quản lý giáo dục. Trên cơ sở đó, dự báo sự phát triển của nó và đề xuất phương hướng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý giáo dục ở các trường đại học quân sự. 3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu quản lý giáo dục đại học quân sự a. Phương pháp luận nghiên cứu quản lý giáo dục đại học quân sự Cũng như các khoa học xã hội khác, chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng phương pháp luận của quản lý giáo dục đại học quân sự. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa quy luật vận động khách quan và hoạt động tự giác của con người có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn hoạt động quản lý và lý luận quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục đại học quân sự còn dựa trên một cơ sở phương pháp luận quan trọng là tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền giáo dục Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng, về giáo dục con người phát triển toàn diện và những quan điểm của Đảng ta về đổi mới, chấn hưng giáo dục và chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là những định hướng quan trọng cho quản lý giáo dục đại học quân sự hiện nay. Trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục, cần phải có quan điểm tiếp cận phù hợp. Các quan điểm: tiếp cận hệ thống, tiếp cận chức năng, tiếp cận lịch sử - lôgic, tiếp cận thực tiễn là chỗ dựa phương pháp luận quan trọng để bảo đảm cho kết quả nghiên cứu quản lý giáo dục có độ chính xác, độ tin cậy và mang tính khả thi cao. b.Các phương pháp nghiên cứu quản lý giáo dục đại học quân sự Trong nghiên cứu quản lý giáo dục, thường áp dụng một số phương pháp đặc trưng sau đây: Phương pháp hệ thống: Phương pháp này xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống. Phương pháp này đòi hỏi phải xem quản lý như một hệ thống cấu trúc gồm các thành tố. Trong đó, chứa đựng các mối quan hệ tất yếu, vận hành theo những quy luật phát triển của quá trình quản lý. Phương pháp lôgic trong nghiên cứu quản lý giáo dục đòi hỏi sự vận dụng các quy luật lôgic của tư duy hình thức và tư duy biện chứng để hình thành, sắp xếp các khái niệm, phạm trù quản lý giáo dục... Phương pháp mô hình hoá trong nghiên cứu quản lý giáo dục là phương pháp tạo ra các mô hình cấu trúc, chức năng quản lý giáo dục để nghiên cứu, dự báo sự phát triển của chúng, giúp cho các chủ thể quản lý có những tác động hợp quy luật. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục là phương pháp phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá các kinh nghiệm quản lý giáo dục trên cơ sở lý luận quản lý giáo dục để từ đó rút ra những bài học có tính quy luật nhằm tiếp tục phổ biến, vận dụng chúng vào thực tiễn quản lý giáo dục. Các phương pháp nêu trên là sự cụ thể hoá các quan điểm tiếp cận khoa học trong nghiên cứu quản lý giáo dục. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ bổ sung cho nhau. Trong nghiên cứu hoạt động quản lý giáo dục, cần sử dụng chúng như một hệ thống và kết hợp chặt chẽ chúng với phương pháp thực nghiệm, thử nghiệm để đảm bảo độ tin cậy của những kết quả nghiên cứu cũng như tính khả thi của những giải pháp, kiến nghị về quản lý được đề xuất từ những kết quả đó. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Hãy trình bày khái niệm về quản lý giáo dục và khái quát những đặc điểm chung của hoạt động quản lý giáo dục. Ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục đối với người cán bộ, giảng viên trong các nhà trường quân sự? 2. Hãy trình bày đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu quản lý giáo dục đại học quân sự. Phương hướng phát triển lý luận quản lý giáo dục ở đại học quân sự? Chương 2 KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC VÀ MỤC TIÊU QUẢN LÝ GIÁO DỤC HỌC ĐẠI HỌC QUÂN SỰ I. KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUÂN SỰ 1. Ý nghĩa của việc xây dựng kế hoạch chiến lược Xây dựng kế hoạch là hành động đầu tiên của nhà quản lý nhằm đạt được các mục tiêu của hoạt động quản lý giáo dục. Xây dựng kế hoạch bao gồm việc xác định mục tiêu, chương trình hành động, xác định các giai đoạn hành động và từng bước đi, điều kiện, phương tiện cần thiết trong thời gian nhất định để đạt được mcụ tiêu đề ra. Việc xây dựng kế hoạch giúp cho nhà quản lý có tầm nhìn tổng thể, bao quát toàn diện sự phát triển của nhà trường, thấy được mối quan hệ và hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Thông qua đó, giúp nhà quản lý ra những quyết định chính xác, điều chỉnh và lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm nhân lực, vật lực, tài chính song vẫn đạt tới hiệu quả tối đa của quá trình đào tạo. Thông qua kế hoạch quản lý giáo dục, nhà quản lý có thể chủ động giữ vững cái “bất biến” và ứng phó linh hoạt trước sự “vạn biến”, trước những thay đổi của đội ngũ giáo viên, học viên cả về số lượng, chất lượng, những tác động của thực tiễn xây dựng và chiến đấu của quân đội, của các nhân tố kinh tế - xã hội v.v… Đồng thời, việc lập kế hoạch còn giúp cho nhà quản lý có thể xây dựng những tiêu chí đo lường, kiểm tra xác định được các trạng thái trung gian cũng như trạng thái cuối cùng của đối tượng quản lý. Kế hoạch đào tạo và quản lý của một nhà trường có thể được phân ra nhiều loại kế hoạch khác nhau, song thường có các loại chủ yếu như: kế hoạch ngắn hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch dài hạn hay còn gọi là kế hoạch chiến lược. Kế hoạch chiến lược (strategic plan) là một công cụ quản lý nói chung và quản lý chất lượng giáo dục nói riêng trong một giai đoạn xác định (thường từ 7 đến 10 năm) của một cơ sở đào tạo. Kế hoạch chiến lược được sử dụng nhằm mục đích giúp nhà trường hay cơ sở đào tạo tập trung các nguồn lực hướng tới việc thực hiện các nhiệm vụ một cách tốt nhất. Lập kế hoạch chiến lược là đưa ra các quyết định và các hành động cơ bản để giúp cho cơ sở đào tạo (nhà trường) hình dung ra một tương lai mong muốn và có thể thực hiện được. Lập kế hoạch chiến lược khác với việc lập kế hoạch thường ở những điểm sau: - Tập trung vào tương lai, đón trước các yêu cầu phát triển giáo dục, tập trung vào tư duy và hành động mang tính chiến lược, hình dung ra một tương lai mong muốn và có thể thực hiện được. - Thực hiện các cách tiếp cận khoa học, tiên tiến trong quản lý các nguồn lực giáo dục cơ bản của nhà trường. Định hướng các hoạt động cơ bản hướng vào việc thực hiện các mô hình, chỉ tiêu, kết quả đặt ra. 2. Những yêu cầu của việc lập kế hoạch chiến lược a. Đảm bảo tính dự báo, tính định hướng Trên một ý nghĩa nào đó, có thể xem kế hoạch chiến lược chính là sự dự báo, là chiến lược hành động của một tổ chức. Nói đến kế hoạch chiến lược giáo dục và đào tạo là không chỉ nói đến công việc ở cấp quản lý vĩ mô (bộ, cơ quan cấp trên), mà nhà trường với tư cách là một cơ sở giáo dục và đào tạo cũng cần phải có một tầm nhìn xa trông rộng, phải có những dự tính lâu dài cho sự phát triển của mình, phải có một kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường. Việc xây dựng kế hoạch chiến lược của nhà trường là hoạt động có tính định hướng nhằm xác định một cách chính xác mục tiêu dài hạn của sự phát triển nhà trường và những bước đi, những cách thức cơ bản để đạt được mục tiêu đó trên cơ sở phân tích những điều kiện bên ngoài, bên trong. Để thể hiện rõ tính dự báo, tính định hướng trong kế hoạch chiến lược, nhà quản lý phải đặt trọng tâm vào tư duy và hành động mang tính chiến lược, có cái nhìn tổng thể, toàn cục, cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển của nhà trường cũng như quá trình quản lý giáo dục và đào tạo. Trong xây dựng viễn cảnh phát triển của nhà trường, phải chú trọng cả sự phát triển của đội ngũ giáo viên, học viên, cán bộ, nhân viên, sự phát triển về nội dung, phương pháp đào tạo cũng như sự phát triển về cơ sở vật chất, kỹ thuật của nhà trường. b. Đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ Việc xây dựng kế hoạch chiến lược phải chú ý thể hiện rõ mục tiêu, chương trình hành động đến việc xác định rõ từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết cho cả chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý. Phải xác lập những kế hoạch đồng bộ cho việc quản lý toàn diện các nguồn lực giáo dục và đào tạo (nhân lực, vật lực, tài lực), quản lý cả về số lượng và chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường. Kế hoạch chiến lược còn phải thể hiện rõ mối quan hệ hợp tác và sự phối hợp, liên kết giữa các lực lượng trong thực hiện các nhiệm vụ dạy học - giáo dục cũng như trong quản lý nhà trường. c. Đảm bảo tính tập trung, trọng điểm Trong xây dựng kế hoạch chiến lược cần tập trung vào những vấn đề cơ bản, những vấn đề trọng tâm và những vấn đề cấp thiết đặt ra đối với quá trình giáo dục và đào tạo của nhà trường. Nhà quản lý phải hướng tập trung vào việc xác định đúng đắn lộ trình phát triển các nguồn lực giáo dục và đào tạo của nhà trường, kế hoạch đổi mới phát triển đội ngũ, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Căn cứ vào những yêu cầu cụ thể, việc xác lập kế hoạch còn phải thể hiện sự quan tâm với những vấn đề bức xúc, cấp thiết đặt ra trong hoạt động giáo dục và đào tạo, hoạt động quản lý của nhà trường, chẳng hạn xác định “chương trình đổi mới phương pháp dạy học” để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học viên, loại bỏ cách thức “thầy đọc, trò ghi”; xác định “chương trình xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên” nhằm khắc phục những vấn đề bất cập về số lượng, chất lượng của đội ngũ giáo viên đang đặt ra. 3. Quy trình xây dựng kế hoạch chiến lược Xác định rõ quy trình xây dựng kế hoạch nhằm giúp cho nhà quản lý thực hiện chức năng kế hoạch hoá của mình một cách thuận lợi. Thường thường trong xây dựng một kế hoạch quản lý giáo dục phải đi theo những bước cơ bản như sau: - Bước thứ nhất: Nhận thức, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh, yêu cầu của cấp trên về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển giáo dục, xây dựng quân đội, xây dựng nhà trường tiên tiến chính quy v.v… - Bước thứ hai: Phân tích điều kiện, trạng thái xuất phát của nhà trường, của các đối tượng quản lý. Đây là điểm xuất phát, là căn cứ quan trọng để xác định những vấn đề cơ bản tiếp theo của một kế hoạch. Một kế hoạch nói chung thường bắt đầu từ việc nhận định những đặc điểm, tình hình của nhà trường, nêu lên những yếu tố tác động bên ngoài, bên trong đến quá trình giáo dục và đào tạo, rút ra những thuận lợi, khó khăn đối với việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học - giáo dục, quản lý nhà trường. Trong các kế hoạch dài hạn, kế hoạch chiến lược người ta còn phải tính đến bối cảnh thế giới, trong nước, bối cảnh xây dựng và chiến đấu của quân đội, thực trạng về đội ngũ, cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng đào tạo của nhà trường… Từ đó, rút ra những thời cơ và thách thức đối với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng nhà trường, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo đội ngũ cán bộ, sỹ quan v.v… - Bước thứ ba: Xác định các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch. ở đây, cần xác định rõ nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật huấn luyện - giáo dục, tài chính, ngân sách giáo dục và đào tạo, bảo đảm tính khả thi của các kế hoạch, trong đó yếu tố quyết định là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý của nhà trường. - Bước thứ tư: Hình thành kế hoạch, xây dựng sơ đồ khung của kế hoạch. ở bước này, tuỳ theo tính chất từng loại kế hoạch cụ thể mà thể hiện nội dung, sơ đồ cho phù hợp. Song thông thường, một kế hoạch cần thể hiện rõ những vấn đề sau đây: Một là, phải xác định rõ mục đích, mục tiêu quản lý. ở đây, cần thể hiện rõ mục đích, mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà trường cùng với mục tiêu quản lý các loại hình hoạt động, các nguồn lực giáo dục theo từng cấp, bậc học hoặc từng giai đoạn, từng chu kỳ đào tạo. Hai là, phải xác định rõ các tiêu chí đo đạc, đánh giá cả về mặt số lượng, chất lượng cũng như hiệu quả giáo dục và đào tạo và quản lý. Ba là, xác định rõ chương trình, nội dung hành động. Đây chính là cái cốt lõi đồng thời là bộ mặt của một kế hoạch. Thông thường chương trình, nội dung hành động cần thể hiện rõ những vấn đề sau đây: - Xác định các hoạt động cơ bản và thứ tự thực hiện các hoạt động đó - Xác định thời gian thực hiện từng hoạt động - Xác định các nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính cho từng hoạt động - Phân công phụ trách các công việc, các hoạt động (cho đơn vị hoặc cá nhân) - Quy định hiệp đồng, phối hợp giữa các lực lượng - Quy định việc kiểm tra, đánh giá, chế độ báo cáo kết quả thực hiện các hoạt động - Nêu lên những biện pháp điều chỉnh, triển khai tiếp tục công việc (nếu cần thiết) - Quy định việc rút kinh nghiệm, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện các hoạt động Tóm lại, xây dựng kế hoạch và quản lý bằng kế hoạch là hoạt động có chủ đích, có phương pháp của nhà quản lý nhằm phát huy tối đa sức mạnh của các lực lượng giáo dục cũng như các phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường, tạo nên chất lượng, hiệu quả cao của quá trình đào tạo. Trong xây dựng kế hoạch thì việc xác định mục tiêu là công việc đầu tiên, là cơ sở, tiền đề quan trọng nhất để tổ chức quản lý quá trình giáo dục và đào tạo có hiệu quả. Dưới đây, chúng ta sẽ đi sâu làm rõ quan niệm về mục tiêu quản lý cũng như những căn cứ, những phương pháp xác định mục tiêu quản lý giáo dục. II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Khái niệm về mục tiêu quản lý giáo dục Mục tiêu quản lý giáo dục được hiểu một cách chung nhất là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng quản lý. Mục tiêu quản lý giáo dục là cái đích phải đạt tới của quá trình quản lý. Nó được xem là trạng thái mong muốn trong tương lai của nhà trường. Trạng thái đó là trạng thái chưa có mà ta muốn đạt tới ( hoặc có thể là trạng thái đang có mà ta muốn duy trì). Trạng thái mong muốn là trạng thái mang tính cần thiết và tính khả thi, trạng thái đó chỉ có được thông qua hoạt động của chủ thể và đối tượng quản lý của nhà trường. Mục tiêu quản lý giáo dục mang tính hệ thống, trong đó mục tiêu giáo dục chỉ là một thành phần của mục tiêu quản lý. Hệ thống mục tiêu quản lý giáo dục phải phản ánh những cái đích quan trọng của một nhà trường về những kết quả giáo dục và đào tạo cần đạt được, về trình độ phát triển mọi mặt của một cơ sở giáo dục, về phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường… Xét về mặt nội dung, hệ thống mục tiêu chứa đựng nhiều vấn đề cơ bản của nhà trường như: - Đảm bảo tuyển sinh và quyền lợi học tập của người học đúng chỉ tiêu, đúng tiêu chuẩn - Phát triển đội ngũ sư phạm đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá giáo viên, cán bộ quản lý - Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật dạy học đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá - Đảm bảo yêu cầu chất lượng và hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học - Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý, tổ chức của nhà trường tiên tiến, chính quy. - v.v… Mục tiêu quản lý giáo dục của một nhà trường đại học quân sự là một hệ thống phức tạp, đa dạng phản ánh rõ những mong muốn, những yêu cầu trên nhiều mặt hoạt động của nhà trường cũng như những điều kiện cần thiết đảm bảo cho quá trình sư phạm của nhà trường diễn ra. Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu việc phân loại mục tiêu để thấy rõ hơn cơ sở của việc xây dựng hệ thống mục tiêu quản lý giáo dục. 2. Phân loại mục tiêu quản lý giáo dục Hệ thống mục tiêu quản lý của một nhà trường bao hàm các loại mục tiêu cụ thể như sau: - Dựa theo hoạt động của nhà trường, có các mục tiêu như: mục tiêu quản lý hoạt động dạy học; mục tiêu quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; mục tiêu quản lý hoạt động rèn luyện của học viên; mục tiêu quản lý hoạt động xã hội v.v… - Dựa theo đối tượng quản lý, có mục tiêu như: mục tiêu xây dựng đội ngũ giáo viên; mục tiêu xây dựng cán bộ quản lý; mục tiêu xây dựng, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật giáo dục và đào tạo của nhà trường; mục tiêu quản lý, sử dụng ngân sách giáo dục và đào tạo v.v… - Dựa theo thời gian, có các mục tiêu như: mục tiêu khoá học, mục tiêu năm học, mục tiêu từng học kỳ… - Dựa theo cấp, bậc học có : mục tiêu quản lý đào tạo bậc cao đẳng, bậc đại học; mục tiêu quản lý đào tạo cấp phân đội; mục tiêu quản lý đào tạo cấp chiến thuật, chiến dịch v.v.. - Dựa theo tính chất nhiệm vụ quản lý, có các mục tiêu định tính và mục tiêu định lượng... Xây dựng và thực hiện các mục tiêu quản lý trên ở đại học quân sự cần hướng vào thực hiện một cách tốt nhất mục tiêu giáo dục mà xã hội và quân đội đã đặt ra. Đó chính là mục tiêu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; mục tiêu đào tạo cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, có trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao, quý trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, có phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh, có năng lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong mọi tình huống… 3. Những căn cứ và phương pháp xác định mục tiêu quản lý giáo dục a. Những căn cứ để xác định mục tiêu quản lý giáo dục Việc xác định mục tiêu quản lý giáo dục ở đại học quân sự phải đi từ những căn cứ sau đây: - Thứ nhất, phải xuất phát từ những yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra. Đó là những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đây là cơ sở quan trọng để định hướng công tác đào tạo cán bộ, sĩ quan; xây dựng mô hình, tiêu chí đào tạo ở đại học quân sự đáp ứng với “đơn đặt hàng” của xã hội, của quân đội - Thứ hai, phải căn cứ vào đường lối, quan điểm phát triển giáo dục của Đảng, Nhà nước, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội và yêu cầu đổi mới quá trình đào tạo ở các nhà trường quân sự. Những đòi hỏi nêu trên được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chiến lược, kế hoạch phát triển giáo dục của Nhà nước, quân đội. Từ những cơ sở này, mỗi nhà trường phải khẳng định được mục tiêu chính trong các hoạt động định hướng sự phấn đấu của toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo của nhà trường cũng như của từng bộ phận, từng đơn vị.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan