LỜI MỞ ĐẦU
Là đối tượng, thực thể tồn tại trong đời sống xã hội, người khuyết tật có đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tuy nhiên, do những khiếm khuyết
không mong muốn về cơ thể mà người khuyết tật gặp phải nhiểu trở ngại, khó khăn
trong cuộc sống, chính vì vậy, Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đến đối
tượng này với những chính sách, quy định của pháp luật về bảo trợ xã hội theo những
nguyên tắc cụ thể đối với người khuyết tật nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn
định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Để rõ hơn về vấn đề này, em đi sâu tìm hiểu
đề tài: “Phân tích các nguyên tắc của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. Các
nguyên tắc đó được thể hiện như thế nào trong quy định của pháp luật bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật?”.
NỘI DUNG
I.
Một số khái niệm và ý nghĩa bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật.
1. Khái niệm người khuyết tật.
Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật người khuyết tật,
có hiệu lực từ ngày 01/0/2011, chính thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay
cho khái niệm “người tàn tật”, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế
giới về vấn đề khuyết tật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này thì “ Người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm
chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn”.
Theo cách hiểu này thì người khuyết tật (NKT) bao gồm cả những người bị
khuyết tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh
binh… Như vậy, Luật người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm NKT dựa vào
mô hình xã hội, tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm trong Công ước về
quyền của người khuyết tật.
1
Thông qua quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy, để đưa
ra khái niệm thuyết phục và thống nhất về NKT là không dễ dàng. Việc nghiên cứu
để ban đưa ra định nghĩa quốc tế về NKT là thách thức do những mô hình của khuyết
tật chịu ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội và các tiêu chí xác
định khuyết tật. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng, định nghĩa về NKT, dù tiếp
cận dưới bất kỳ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là NKT có thể gặp các
rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi tham gia vào mọi hoạt động
kinh tế, xã hội, chính trị. Họ phải được đảm bảo rằng, họ có quyền và trách nhiệm
tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công dân nào với tư cách là các
quyền con người. Với cách tiếp cận đó, có thể đưa ra định nghĩa, khái niệm NKT như
sau: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham
gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở binh đẳng với những chủ
thể khác.”
2. Khái niệm bảo trợ xã hội và bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật.
a. Khái niệm bảo trợ xã hội.
Trong cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng gặp may mắn,thuận lợi cho
sự tồn tại và phát triển, trái lại họ thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro, bất
hạnh, biến cố… vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào những tình huống như
vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng
trở thành cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc. Do đó, có thể nhận thấy, bảo trợ xã
hội (BTXH) là biện pháp tương trợ cộng đồng đầu tiên mà con người tìm đến để giúp
nhau vượt qua những tình huống khó khăn. Đây là hình thức tương trợ cộng đồng
đơn giản, phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH)
mỗi quốc gia.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của BTXH, hầu hết các nước đều tổ
chức thực hiện bảo trợ xã hội bằng cách xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện phù
hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập quán,… của mình.
2
Theo thống kê của ILO trong các tài liệu về ASXH, trong số 172 nước thiết lập hệ
thống ASXH thì chế độ BTXH đều được quan tâm thực hiện ngay từ đầu. Ở Việt
Nam, mặc dù BTXH đã được thực hiện từ rất lâu với vai trò quan trọng của Nhà nước
nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa chính thức về BTXH trong các văn bản
pháp luật. Theo cách hiểu thông thường thì đó là “sự giúp đỡ cho qua khỏi cơn nguy
khốn” hay “giúp cho qua khỏi cơn nghèo ngặt”. Về ngữ nghĩa thì đa số các nhà khoa
học cho rằng cùm từ này gồm hai nhóm từ ghép là “cứu trợ xã hội” và “trợ giúp xã
hội”.
BTXH được tiếp cận với nhiều góc độ như kinh tế, đảm bảo quyền con người,
tiếp cận dưới phạm vi rộng và hẹp với sự khác biệt về nội hàm khái niệm, tiếp cận
dưới những quan điểm, phạm vi khác nhau nên cũng có những khái niệm khác nhau
đề cập nội dung này, nhưng tóm lại, dựa trên quan điểm chung của ILO và riêng ở
Việt Nam, có thể hiểu BTXH là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng
những biện pháp và cách hình thức khác nhau đối với các đối tượng gặp phải rủi ro,
bất hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu
được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe
dọa của cuộc sống thường nhật, giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hòa
nhập cộng đồng. Theo khái niệm này, đối tượng BTXH chính là những người gặp
khó khăn, rủi ro, biến cố, bất hạnh trong cuộc sống vì nhiều nguyên nhân khác nhau
cần có sự giúp đỡ. Những đối tượng được kể đến đầu tiên trong hầu hết các quy định
pháp luật BTXH các quốc gia đều là nhóm NKT, người già, cô đơn, trẻ em mồ côi
thiếu người nuôi dưỡng…
Về thể chế hóa chính sách xã hội mang đậm tính nhân đạo này, tùy thuộc vào
các giai đoạn khác nhau của điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước đã ban hành các văn
bản pháp luật quy định cụ thể chế độ BTXH với phạm vi đối tượng, điểu kiện hưởng,
mức hưởng,… và tổ chức thực hiện. Do vậy, có thể hiểu, dưới góc độ pháp luật, chế
độ BTXH là tổng thể các quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau, xác định
quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ về vật chất và
3
tinh thần cho các thành viên trong xã hội khi bị lâm vào hoàn cảnh bất hạnh, rủi ro,
nghèo đói,... không đủ khả năng đảm bảo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia
đình.
b. Đặc điểm bảo trợ xã hội.
Xuất phát từ những phân tích trên về khái niệm BTXH, có thể rút ra một số đặc
điểm như sau:
Về đối tượng: Tham gia vào quan hệ BTXH bao gồm Nhà nước,
các đối tượng BTXH và các chủ thể khác như tổ chức, cá nhân khá trong hoạt động
chung mang tính nhân đạo này. Trong đó:
-
Đối tượng bảo trợ: là mọi người dân trong xã hội không
phân biệt khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh cần có sự giúp đỡ để tồn
tại. Dưới góc độ kinh tế thì đó là những thành viên có mức sống thấp hơn mức sống
tối thiểu của xã hội hoặc gặp khó khăn, rủi ro cần có sự nâng đỡ về mặt vật chất.
Dưới góc độ xã hội thì họ thuộc nhóm người “yếu thế” trong xã hội, với những
nguyên nhân khác nhau mà bị rơi vào vị thế bất lợi, thiệt thòi, có ít cơ may trong cuộc
sống như người binh thường và không có đủ khả năng tự lo liệu, đảm bảo cho cuộc
sống của gia đình và bản thân. Ngoài ra, dưới góc độ nhân đạo, đó có thể là những
đối tượng nghiện hút, mại dâm, lang thang xin ăn,…
-
Thứ hai là Nhà nước với tư cách là một chủ thể trong quan
hệ BTXH, đã xác định được nghĩa vụ của mình và mối quan hệ hợp tác giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân,… trong hoạt động BTXH. Hoạt động BTXH, ngoài trách
nhiệm của Bộ lao động – thương binh và xã hội, còn là trách nhiệm của các Bộ, Ban,
Ngành khác như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục,… và toàn thể các thành viên xã hội…
Về nội dung: Chế độ BTXH được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau. Theo quy định của pháp luật hiện hành, chế độ BTXH bao gồm hai nội dung
chính là chế độ bảo trợ thường xuyên và chế độ bảo trợ đột xuất. VIệc phân loại này
có ý nghĩa đưa ra các mức hưởng và hình thức bảo trợ cho phù hợp với từng nhóm
đối tượng.
4
Về mụcđích: Mục đích của BTXH không nhằm bù đắp thu nhập
thường xuyên bị giảm hoặc mất hay đảm bảo ổn định đời sống, suy tôn công trạng,
đền ơn đáp nghĩa những người có công,… mà chỉ hỗ trợ, giúp đỡ cho những người
lâm vào tình trạng thực sự khó khăn, túng quẫn, cần có sự giúp đỡ vật chất mới có thể
vượt qua được hoàn cảnh hiện tại. Do đó, mức hưởng thường là thấp và linh hoạt,
phụ thuộc vào khả năng tài chính của Nhà nước, khả năng huy động nguồn lực, và
tình trạng thực tế của đối tượng,…
c. Khái niệm bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật.
Xuất phát từ khái niệm BTXH nói chung, BTXH đối với NKT được hiểu là
tổng hợp các cơ chế, chính sách và các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội
nhằm trợ giúp và bảo vệ cho NKT, trước hết và chủ yếu là những khoản trợ cấp, hỗ
trợ và các chi phí khác nhằm giúp cho đối tượng ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng
đồng. Theo đó, các nội dung của BTXH nói chung áp dụng với đối tượng hưởng là
NKT khi thỏa mãn các điều kiện hưởng trong các chế độ trợ cấp, hỗ trợ.
Trên quan điểm tiến bộ, BTXH đối với NKT được tiếp cận từ góc độ nhân
quyền với trách nhiệm của Nhà nước chứ không chỉ dừng lại ở mục đích nhân đạo,
ban ơn, chiếu cố tới những thân phận khiếm khuyết về sức khỏe. Các khoản trợ cấp,
hỗ trợ cho cuộc sống của NKT được thực hiện như một sự phân phối lại lợi ích xã hội
theo hướng công bằng, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong
tương quan phát triển kinh tế và xã hội. Không chỉ dừng lại ở đó, việc nhìn nhận
NKT như một dạng trong đa dạng các thành viên xã hội và khơi gợi khả năng lao
động tiểm ẩn trong họ là một trong những tư tưởng tiến bộ để các khoản trợ cấp
BTXH không còn ý nghĩa đơn thuần là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước mà chính
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, với mục tiêu vì con người – trung tâm của sự
phát triển.
3. Ý nghĩa của bảo trợ xã hội với người khuyết tật.
NKT luôn chiếm một tỉ lệ nhất định trong dân số mỗi quốc gia, ở Việt Nam,
theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, ước tính cả nước có khoảng
5
5,3 triệu NKT, chiếm 6,34% dân số cả nước. Xem xét về thể trạng và cơ hội tạo thu
nhập đảm bảo cuộc sống cho thấy, đương nhiên với những khuyết tật của mình, nhóm
đối tượng này đã trở thành yếu thế so với những người bình thường. Họ cần giúp đỡ,
hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống. Với trách nhiệm đảm bảo và chăm lo đời sống cho các
thành viên xã hội, Nhà nước xác định trách nhiệm của mình đối với cuộc sống của
NKT, trước hết và cơ bản là khoản trợ cấp, hỗ trợ nuôi dưỡng trong chế độ BTXH.
Từ những cách tiếp cận khác nhau về phạm vi nội dung rộng và hẹp cho thấy ý
nghĩa của BTXH đối với các thành viên xã hội, đặc biệt là NKT có sự khác nhau nhất
định. Trong phạm vi hẹp, với nội dung chủ yếu là các chế độ trợ giúp, hỗ trợ cho
cuộc sống của NKT, BTXH đặc biệt có ý nghĩa đảm bảo nhân quyền, thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước đối với cuộc sống của NKT. Tuy nhiên, về cơ bản xuất phát từ
quan điểm xem xét NKT như một đối tượng khác trong đa dạng cộng đồng dân chúng
cần xem xét những nhu cầu của họ để thiết lập những chế độ BTXH phù hợp. Không
chỉ dừng ở mục đích quan tâm tới những nhu cầu sinh sống thiết yếu của NKT mà
các nội dung BTXH còn hướng tới mục đích tạo cơ hội hòa nhập, vươn lên tiếp cận
và thích ứng với hoàn cảnh sống, phát huy được giá trị và khả năng của mình. Cũng
chính vì vậy, xem xét ý nghĩa của BTXH đối với NKT không chỉ dừng lại ở ý nghĩa
về kinh tế như một sự phân phối lại thu nhập xã hội một cách công bằng mà còn có ý
nghĩa về mặt xã hội, chính trị và pháp luật. Có thể xem xét ý nghĩa cơ bản của BTXH
đối với NKT:
a. Dưới góc độ kinh tế:
BTXH có ý nghĩa thiết thực với đời sống của NKT và gia đình họ thông
qua khoản trợ cấp xã hội, góp phần đảm bảo cho nhu cầu sinh sống tối thiểu của
NKT. Do những hạn chế về sức khỏe nên NKT có những khó khăn trong việc tạo thu
nhập, đảm bảo cuộc sống. Cuộc sống của họ thường có sự lệ thuộc ở mức độ khác
nhau vào thân nhân, gia đình. Hầu hết các quốc gia, NKT có mức sống thấp hơn so
với tỉ lệ nhóm đối tượng khác trong cộng đồng. Đối với nhiều đối tượng khuyết tật,
các nhu cầu sinh sống tối thiểu còn rất hạn chế, thậm chí vượt ra khỏi khả năng đảm
6
bảo của họ. Nếu không có sự giúp đỡ, hỗ trợ thì không thể duy trì được mức sống tối
thiểu và có nguy cơ không trụ được trong cuộc sống. Với tình thế đó, BTXH như
“lưới đỡ” kinh tế cuối cùng về miếng cơm, manh áo cho sự tồn tại, giúp họ vượt qua
khó khăn, túng quẫn của cuộc sống thường nhật. Không dừng lại ở đó, từ việc góp
phần đảm bảo cuộc sống cho NKT. Các khoản trợ cấp của BTXH còn tạo cơ hội
thuận lợi cho họ vươn lên đảm bảo và nâng cao đời sống. Các khoản trợ cấp xã hội
đối với NKT còn có ý nghĩa là công cụ phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch vụ có
lợi cho các thành viên yếu thế, thu hẹp dần sự chênh lệch mức sống, giảm bớt bần
cùng, nghèo đói. Phân phối lại thu nhập xã hội theo hướng công bằng, đảm bảo lợi
ích xã hội đối với NKT nói riêng và toàn bộ dân chúng nói chung.
b. Dưới góc độ chính trị xã hội.
BTXH đối với NKT không chỉ thể hiện thái độ của Nhà nước đối với bộ
phân dân chúng mà còn là biện pháp hỗ trợ tích cực của xã hội đối với mỗi thành
viên của mình khi gặp rủi ro, hạn chế về sức khỏe. Trên phương diện xã hội, BTXH
cho NKT còn làm giảm thiểu những bất ổn xã hội, góp phần ổn định xã hội, ổn định
chính trị bởi lẽ khi rơi vào tình cảnh cùng quẫn, phân biệt đối xử, con người sẽ dễ nảy
sinh những hành vi lệch lạc về chuẩn mực đạo đức. Trang bị cho nhận thức của mỗi
cá nhân về sự đảm bảo cuộc sống khi khó khăn bằng những “lưới đỡ” BTXH khiến
họ yên tâm và tin tưởng hơn trong cuộc sống, là yếu tố tạo nên sự hòa đồng giữa các
thành viên xã hội không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị... giúp NKT nhận thấy
mình có giá trị, có địa vị chứ không hề bị “bỏ rơi” vì những khiếm khuyết sức khỏe,
đây chính là là nền tảng cơ bản thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế xã hội và
chính trị mỗi quốc gia.
c. Dưới góc độ pháp luật.
BTXH đối với NKT là một trong những nội dung của pháp luật ASXH,
điều chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho nhóm đối tượng có vị thế bất lợi,
thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như những người bình thường khác. BTXH
cho NKT với các chế độ trợ cấp được thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền con người.
7
Mỗi con người sinh ra trong xã hội đều có quyền được sống, được bình đẳng, được
thương yêu, đùm bọc, che chắn, bảo vệ trước những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi sự
sống bị đe dọa. Quyền này đã được ghi nhận tại Điều 22 Tuyên ngôn nhân quyền của
Liên hợp quốc ngày 10/12/1948: “mọi người đều có quyền được hưởng một mức
sống đủ đảm bảo sức khỏe và nhu yếu của mình cùng gia đình, nhất là về ăn uống,
nhà ở, thuốc men…” Tùy từng điều kiện kinh tế xã hội và những đặc thù riêng mà
mỗi quốc gia đều luật hóa nội dung này ở những mức độ khác nhau để tổ chức thực
hiện. Cũng từ đó, phải nhận thức rằng, BTXH đối với NKT không phải là sự ban ơn,
chiếu cố đối với những thân phận thấp hèn, cùng cực vì những hạn chế, rủi ro về sức
khỏe mà là quyền của mỗi thành viên xã hội và là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả cộng
đồng.
II. Nguyên tắc cơ bản của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật.
1. Người khuyết tật có quyền được hưởng bảo trợ xã hội không có sự phân
biệt theo tiêu chí nào.
Xuất phát từ việc đảm bảo quyền con người được quy định trong pháp luật
quốc tế, các quốc gia đều nhận thức rõ vấn đề này và ghi nhận quyền hưởng BTXH
cho công dân trong văn bản pháp luật quốc gia. Đối với NKT , quyền hưởng BTXH
được ghi nhận tại Điều 67 Hiến pháp vàu cụ thể hóa trong các văn bản Luật, dưới
luật…
Nguyên tắc thực hiện quyền hưởng bảo trợ xã hội đối với NKT không có
sự phân biệt theo tiêu chí nào cũng chính là nội dung nguyên tắc cơ bản của Luật an
sinh xã hội. Nội dung nguyên tắc thể hiện ở việc quy định phạm vi và đối tượng áp
dụng. Theo đó, mọi thành viên xã hội bị khuyết tật đều có quyền được hưởng BTXH
mà không có sự phân biệt về địa vị, kinh tế, tôn giáo, giới tính, thành phần xã hội,…
Nói cách khác, rủi ro khuyết tật không loại trừ ai với tư cách là thành viên trong cộng
đồng bất kể họ có sức khỏe, kinh tế hay công việc, vì vậy, sự phân biệt theo tiêu chí
nào để loại bỏ quyền hưởng BTXH của NKT đều là bất hợp lí. Mặc dù vậy, đảm bảo
thực hiện quyền này còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc
8
gia khác nhau, thậm chí phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển khác nhau của từng
quốc gia. Hơn nữa, cũng không thể coi trợ cấp BTXH là sự ban ơn đơn thuần hay sự
cào bằng bình quân chủ nghĩa mà cần đảm bảo công bằng với đối tượng thụ hưởng có
tính đến mức độ rủi ro khuyết tật. Vì vậy, pháp luật quy định cụ thể về điều kiện
hưởng, mức lương các khoản trợ cấp, hỗ trợ cho NKT đảm bảo công bằng và phù
hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định. Điều này lí giải cho thực tế là mặc dù
quyền hưởng BTXH cho NKT được áp dụng cho tất cả mọi đối tượng, không có sự
phân biệt theo tiêu chí nào, nhưng để được hưởng các khoản trợ cấp, hỗ trợ của hệ
thống BTXH, NKT còn phải đảm bảo các điều kiện hưởng cụ thể.
2. Mức trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật không phụ thuộc
vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà chủ yếu phụ thuộc vào mức
độ khuyết tật và nhu cầu thực tế của đối tượng.
Xuất phát từ nguyên nhân rủi ro là những khiếm khuyết về sức khỏe khiến
nhiều NKT có những hạn chế nhất định so với những đối tượng khác trong cộng
đồng, thậm chí, họ còn khó khăn trong việc đảm bảo sự tồn tại. Những rủi ro này có
thể xuất hiện ngay từ khi họ sinh ra hoặc trong quá trình sống, vì vậy, đòi hỏi một
khoản tích lũy đóng góp hay nghĩa vụ tài chính nào cho phần phụ hưởng trợ cấp sẽ
khiến khoản trợ cấp này không còn vai trò “lưới đỡ” cuối cùng của người dân cho sự
tồn tại và không còn ý nghĩa đảm bảo quyền sống của con người, đảm bảo phân phối
lại lợi ích xã hội. Chỉ trong trường hợp cuộc sống thường nhật của họ bị đe dọa, hoặc
cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ để tồn tại, vấn đề trợ cấp mới được đặt ra.
Với mục đích không nhằm bù đắp hoặc thay thế thu nhập của đối tượng hay
đảm bảo đời sống cho NKT với những yêu cầu định trước mà chỉ nhằm giúp đỡ, hỗ
trợ cho đối tượng thoát khỏi tình trạng cuộc sống thường nhật bị đe dọa, tạo cơ hội
cho họ vươn lên khắc phục rủi ro, hòa nhập cộng đồng, do vậy, các khoản trợ cấp
BTXH cho NKT không gắn với bất cứ yêu cầu gì về nghĩa vụ tài chính cho việc thụ
hưởng. Nói cách khác, để được hưởng trợ cấp BTXH, NKT không phải đóng góp tài
chính đồng thời, mức thu nhập, mức sống của họ trước khi bị khuyết tật cũng không
9
phải là tiêu chí xác định mức hưởng. Không phải trước khi bị khuyết tật, đối tượng
nào có thu nhập cao, mức sống cao hơn thì hưởng trợ cấp cao hơn và ngược lại. Tiêu
chí quan trọng để xác định mức hưởng trợ cấp cho NKT chính là mức độ rủi ro
khuyết tật và hoàn cảnh sống thực tế của NKT. Chẳng hạn, với những mức độ khuyết
tật khác nhau như nặng, đặc biệt nặng, khuyết tật trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ
khuyết tật mang thai… hay thậm chí có cùng mức độ khuyết tật nhưng hoàn cảnh
sống có sự khác nhau nhất định như có người chăm sóc, kinh tế gia đình khá giả hay
không cũng là những căn cứ quan trọng để xác định mức trợ cấp, hỗ trợ cho phù hợp.
Điều này phù hợp với ý nghĩa, mục đích của trợ cấp và đảm bảo công bằng cho người
thụ hưởng.
3.
Thực hiện bảo trợ xã hội cân đối giữa nhu cầu thực tế của người
khuyết tật và phù hợp với khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế xã hội.
Nhu cầu BTXH của NKT và khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế xã hội là
một bài toán mà hầu hết các quốc gia phải cân đối trong tương quan đảm bảo quyền
của NKT và giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy, với
những đặc điểm riêng khác nhau mà số lượng và nhu cầu bảo trợ của NKT ở các
quốc gia khác nhau có sự khác nhau nhất định. Ở Việt Nam, với tỉ lệ đối tượng NKT
chiếm tới hơn 6% dân số cả nước, cộng với điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó
khăn khiến nhu cầu trợ giúp cho NKT là rất lớn. Để đảm bảo thực hiện BTXH cho
NKT có hiệu quả, cần phải xác định được cụ thể nhu cầu của NKT và được chuyển
tải bằng điều kiện hưởng trong các khoản trợ cấp, hỗ trợ. Nhu cầu này phải được đặt
trong tương quan chung của điều kiện kinh tế xã hội với mức sống của người dân.
Việc đáp ứng nhu cầu bảo trợ của NKT phải được tính toán cân đối với khả
năng đáp ứng và điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia trong từng giai đoạn, nếu
không sẽ không đạt được mục đích của BTXH và ảnh hưởng đến các chính sách kinh
tế khác. Nếu trợ cấp quá cao so với khả năng đáp ứng thì thiếu tính khả thi, khó đảm
bảo duy trì thực hiện và nếu thực hiện được, có thể sẽ tạo tâm lí ỷ lại, trông chờ vào
nguồn tài chính trợ giúp, làm cản trở ý thức vươn lên, phát huy nội lực và kìm hãm
10
sức phát triển của các cơ chế bảo vệ khác. Ngược lại, nếu mức trợ cấp, hỗ trợ cho
NKT quá thấp sẽ không đảm bảo được ý nghĩa và mục đích của BTXH bởi xét cho
cùng, đây là “lưới đỡ” kinh tế cận kề nhất với cuộc sống của NKT và cũng thể hiện
rõ nét nhất thái độ của Nhà nước đối với nhóm người “yếu thế” trong xã hội. Mặc dù
vậy, về cơ bản, việc cân đối giữa nhu cầu của NKT và khả năng đáp ứng của điều
kiện kinh tế cũng phải hướng tới yêu cầu đảm bảo nhu cầu tối thiểu cần thiết nhằm
duy trì cuộc sống cho NKT trước những khó khăn cuộc sống.
4.
Đa dạng hóa, xã hội hóa hoạt động bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật, phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Nguyên nhân rủi ro dẫn đến tình trạng khuyết tật của con người là đa dạng, vì
vậy, việc thực hiện BTXH đối với họ cũng cần phải xem xét đến mức độ, hình thức
và biện pháp hợp lí. Ở phạm vi hẹp, BTXH cho NKT với những khoản trợ cấp, hỗ trợ
nuôi dưỡng được thực hiện chủ yếu bằng tiền hoặc hiện vật, đáp ứng nhu cầu tối
thiểu cuộc sống, song cần hướng tới phát huy đa dạng các hình thức, biện pháp bảo
trợ nâng đỡ tinh thần, tâm lí, chăm sóc sức khỏe,… Thông qua những hoạt động bảo
trợ này, đối tượng xóa đi mặc cảm, tạo cơ hội tự tin cho họ hòa nhập cộng đồng, phát
huy những khả năng vươn lên đảm bảo cuộc sống. Thậm chí, từ cách tiếp cận mới mẻ
về NKT, hiện nay đang hướng tới nhìn nhận NKT như một trong đa dạng đối tượng
xã hội, là nguồn nhân lực tiềm ẩn cần có sự hỗ trợ khai thác.
Từ việc xác định trách nhiệm chính của Nhà nước đối với cuộc sống NKT
thông qua các khoản trợ cấp, hỗ trợ từ tài chính công, Nhà nước cũng huy động sự
tham gia của cả cộng đồng và bản thân NKT. Mỗi cá nhân trong cộng đồng đều có
trách nhiệm với các thành viên khác và với chính mình trên cơ sở thương yêu, đùm
bọc, che chở lẫn nhau. Đây trở thành nền tảng của xã hội hóa hoạt động BTXH đối
với NKT. Trong điều kiện hiện nay, việc xã hội hóa thực hiện BTXH đối với NKT
được nhìn nhận theo hướng tiến bộ. Không phải BTXH cho NKT chỉ dừng lại ở
những khoản trợ cấp do Nhà nước thực hiện mang tính ban phát, bao cấp mà hướng
tới việc huy động nguồn lực và sự quan tâm của cả cộng đồng nhằm đưa đến sự bảo
11
vệ cao nhất cho NKT. Điều này thể hiện rõ trong những quy định mang tính tùy nghi,
điều chỉnh hoạt động của các hiệp hội từ thiện, các trung tâm bảo trợ, chăm sóc
NKT… và cả những mô hình chăm sóc thay thế hiện đang thu hút sự quan tâm của cả
cộng đồng.
III. Quy định của pháp luật thể hiện những nguyên tắc của bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật.
1. Với nguyên tắc Người khuyết tật có quyền được hưởng bảo trợ xã hội
không có sự phân biệt theo tiêu chí nào.
Nguyên tắc thực hiện quyền hưởng bảo trợ xã hội đối với NKT không có sự
phân biệt theo tiêu chí nào được thể hiện ở Khoản 1, 2 Điều 28 Công ước quốc tế về
quyền của NKT mà Việt Nam đã ký cam kết tham gia năm 2007, quy định về bảo trợ
xã hội:
“1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận quyền của người khuyết
tật được hưởng mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình, bao gồm đủ ăn, đủ
mặc, có nhà ở, và được cải thiện điều kiện sống thường xuyên; và cam kết thực hiện
các biện pháp phù hợp để bảo hộ và thúc đẩy việc thực hiện quyền này trên thực tế
mà không có sự phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận quyền của người khuyết tật
đối với bảo trợ xã hội và người khuyết tật được hưởng quyền này mà không bị phân
biệt đối xử vì lý do khuyết tật; và cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo
đảm và thúc đẩy sự việc thực hiện quyền này trên thực tế...”
Và nguyên tắc tắc thực hiện quyền hưởng bảo trợ xã hội đối với NKT không
có sự phân biệt theo tiêu chí nào cũng chính là nội dung nguyên tắc cơ bản của Luật
an sinh xã hội. Nội dung nguyên tắc thể hiện ở việc quy định phạm vi và đối tượng áp
dụng. Theo đó, mọi thành viên xã hội bị khuyết tật đều có quyền được hưởng BTXH
mà không có sự phân biệt về địa vị, kinh tế, tôn giáo, giới tính, thành phần xã hội,…
12
2.
Với nguyên tắc: “Mức trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật
không phụ thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà chủ yếu
phụ thuộc vào mức độ khuyết tật và nhu cầu thực tế của đối tượng”.
Tại Điều 44 Luật Người khuyết tật 2010 quy định về trợ cấp bảo trợ xã hội như
sau:
“1. Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
a) Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều 45 của Luật này;
b) Người khuyết tật nặng.
2. Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:
a) Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
người đó;
b) Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;
c) Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này đang mang thai hoặc nuôi con
dưới 36 tháng tuổi.
3. Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này là trẻ em, người cao tuổi được
hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.
4. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với
từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ quy định.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật, điều kiện để hưởng mức trợ cấp xã hội của
NKT không hề phù thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà phụ
thuộc vào mức độ khuyết tật (nặng, nhẹ) và nhu cầu thực tế của họ. Các khoản trợ
cấp BTXH cho NKT không gắn với bất cứ yêu cầu gì về nghĩa vụ tài chính cho việc
thụ hưởng. Nói cách khác, để được hưởng trợ cấp BTXH, NKT không phải đóng góp
tài chính đồng thời, mức thu nhập, mức sống của họ trước khi bị khuyết tật cũng
không phải là tiêu chí xác định mức hưởng. Không phải trước khi bị khuyết tật, đối
tượng nào có thu nhập cao, mức sống cao hơn thì hưởng trợ cấp cao hơn và ngược
lại. Tiêu chí quan trọng để xác định mức hưởng trợ cấp cho NKT chính là mức độ rủi
ro khuyết tật và hoàn cảnh sống thực tế của NKT.
13
3.
Với nguyên tắc: “Thực hiện bảo trợ xã hội cân đối giữa nhu cầu thực
tế của người khuyết tật và phù hợp với khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế xã
hội”.
Việc xác định điều kiện hưởng trong các khoản trợ cấp được quy định tại Luật
Khuyết tật 2010 như: đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng; Đối tượng được hỗ
trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng; mức trợ cấp xã hội hàng tháng; điều kiện NKT
được nuôi dưỡng trong cơ sở BTXH… cũng chính là việc thể hiện nguyên tắc thực
hiện BTXH phải cân đối giữa nhu cầu của NKT để phù hợp với khả năng đáp ứng
của điều kiện kinh tế xã hội. Việc đáp ứng nhu cầu bảo trợ của NKT phải được tính
toán cân đối với khả năng đáp ứng và điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia trong
từng giai đoạn, nếu không sẽ không đạt được mục đích của BTXH và ảnh hưởng đến
các chính sách kinh tế khác. Nếu trợ cấp quá cao so với khả năng đáp ứng thì thiếu
tính khả thi, khó đảm bảo duy trì thực hiện và nếu thực hiện được, có thể sẽ tạo tâm lí
ỷ lại, trông chờ vào nguồn tài chính trợ giúp, làm cản trở ý thức vươn lên, phát huy
nội lực và kìm hãm sức phát triển của các cơ chế bảo vệ khác. Ngược lại, nếu mức trợ
cấp, hỗ trợ cho NKT quá thấp sẽ không đảm bảo được ý nghĩa và mục đích của
BTXH.
4. Với nguyên tắc: “Đa dạng hóa, xã hội hóa hoạt động bảo trợ xã hội đối
với người khuyết tật, phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng.”
Không phải BTXH cho NKT chỉ dừng lại ở những khoản trợ cấp do Nhà nước
thực hiện mang tính ban phát, bao cấp mà hướng tới việc huy động nguồn lực và sự
quan tâm của cả cộng đồng nhằm đưa đến sự bảo vệ cao nhất cho NKT. Điều này thể
hiện rõ trong những quy định mang tính tùy nghi, điều chỉnh hoạt động của các hiệp
hội từ thiện, các trung tâm bảo trợ, chăm sóc NKT… và cả những mô hình chăm sóc
thay thế hiện đang thu hút sự quan tâm của cả cộng đồng, ví dụ như:
“Điều 47. Cơ sở chăm sóc người khuyết tật
1. Cơ sở chăm sóc người khuyết tật là cơ sở nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ
giúp người khuyết tật.
14
2. Cơ sở chăm sóc người khuyết tật bao gồm:
a) Cơ sở bảo trợ xã hội;
b) Cơ sở dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật;
c) Trung tâm hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập;
d) Cơ sở chăm sóc người khuyết tật khác.
3. Chính phủ quy định điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể cơ sở chăm sóc người
khuyết tật.
4. Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động cho cơ sở chăm
sóc người khuyết tật công lập.
Điều 48. Trách nhiệm của cơ sở chăm sóc người khuyết tật
1. Tuân thủ điều kiện hoạt động của cơ sở chăm sóc người khuyết tật; thực hiện đầy
đủ các quy chuẩn về nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp người khuyết tật
tương ứng với từng loại cơ sở.
2. Thực hiện cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối
với người khuyết tật.”
Bên cạnh những cơ sở công lập được đảm bảo hoạt động từ kinh phí Nhà nước, pháp
luật cho phép và khuyến khích thiết lập các cơ sở BTXH ngoài công lập với những
điều kiện nhất định hướng tới việc bảo đảm và nâng cao hơn chất lượng cuộc sống,
khơi gợi khả năng tiềm ẩn của NKT, khắc phục những rào cản về ý thức, tâm lí cho
NKT, giúp họ nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.
KẾT LUẬN
Từ những quy định trên của pháp luật đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của
Nhà nước ta đối với người khuyết tật, nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định
cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, làm giảm thiểu những bất ổn xã hội, góp phần ổn
định xã hội, ổn định chính trị, là nền tảng cơ bản thúc đẩy phát triển bền vững về kinh
tế xã hội và chính trị mỗi quốc gia.
15
- Xem thêm -