Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hội truyền bá quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội việt nam (1938 1945)...

Tài liệu Hội truyền bá quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội việt nam (1938 1945)

.PDF
195
2429
146

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN L£ V¡N PHONG HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM (1938 – 1945) LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN L£ V¡N PHONG HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM (1938 – 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Cận đại và Hiện đại Mã số:62.22.54.05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM XANH Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó. Hà nội, tháng 10 năm 2014 Lê Văn Phong Tác giả luận án Lê Văn Phong LỜI CẢM ƠN Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn tới Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Xanh tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình làm luận án. Tôi xin gửi lời tri ân tới các thầy, cô giáo trong Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu làm nền tảng tri thức cho tôi thực hiện luận án. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình, đồng nghiệp đã luôn chia sẻ, thấu hiểu và là điểm tựa vững chắc về tinh thần trong toàn bộ thời gian thực hiện luận án. Hà Nội, tháng 10 năm 2014 Tác giả luận án Lê Văn Phong MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 4 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 8 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................. 9 5. Đóng góp của luận án ................................................................................ 9 6. Bố cục của luận án .................................................................................. 10 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU............................. 11 1.1. Khái quát kết quả nghiên cứu ................................................................. 11 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ....................................... 24 Chƣơng 2. SỰ RA ĐỜI CỦA HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ............... 26 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ ......................... 26 2.1.1. Quá trình hình thành chữ Quốc ngữ ............................................. 26 2.1.2. Sự phát triển của chữ Quốc ngữ ................................................... 29 2.1.2.1. Chữ Quốc ngữ ở thế kỷ XVII .................................................. 29 2.1.2.2. Chữ Quốc ngữ ở thế kỷ XVIII ................................................ 30 2.1.2.3. Chữ Quốc ngữ ở thế kỷ XIX ................................................... 31 2.1.2.4. Những cản trở trên con đường phát triển của chữ Quốc ngữ 33 2.1.3. Các phong trào Truyền bá Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1938.... 37 2.1.3.1. Mục đích sử dụng chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp............ 37 2.1.3.2. Khuynh hướng sử dụng chữ Quốc ngữ làm vũ khí chống thực dân Pháp ............................................................................................. 39 2.1.3.3. Báo chí với sự phát triển của chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX . 45 2.2. Hội Truyền bá Quốc ngữ ra đời ........................................................... 55 2.2.1. Sự cấp thiết thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ .......................... 55 2.2.2. Cuộc vận động thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ ..................... 56 1 2.2.3. Điều lệ hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ .......................... 61 Tiểu kết chương 2........................................................................................ 65 Chƣơng 3. HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ (1938 – 1945) .. 67 3.1. Hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ (7/1938 - 9/1940)............................ 67 3.1.1. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động ở Hà Nội ............................. 67 3.1.2. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động ở Huế .................................. 72 3.2. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động ở miền Bắc và miền Trung (10/1940 - 7/1944)....................................................................................... 78 3.2.1. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động ở miền Bắc .......................... 78 2.2.2. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động ở miền Trung ...................... 89 3.3. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động trong phạm vi cả nước và hoà chung vào phong trào giải phóng dân tộc (8/1944 - 8/1945) ..................... 92 3.3.1. Phong trào Truyền bá Quốc ngữ phát triển ở miền Bắc .............. 92 3.3.2. Hội Truyền bá Quốc ngữ mở rộng phạm vi hoạt động tại các tỉnh miền Trung ............................................................................................ 109 3.3.3. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động ở miền Nam ....................... 116 Tiểu kết chương 3...................................................................................... 122 Chƣơng 4. ẢNH HƢỞNG CỦA HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM .......................................................................... 123 4.1. Những yếu tố tác động đến sự thành công của Hội Truyền bá Quốc ngữ . 123 4.1.1. Một sáng kiến chính trị hợp lòng dân ......................................... 123 4.1.2. Phẩm chất và năng lực của người đứng đầu .............................. 126 4.1.3. Có sự chỉ đạo kịp thời và đúng đắn của Đảng cộng sản Đông Dương 129 4.1.4. Phương pháp dạy chữ Quốc ngữ phù hợp với đối tượng ........... 132 4.2. Những ảnh hưởng ............................................................................... 134 4.2.1. Góp phần to lớn vào quá trình phổ biến chữ Quốc ngữ ............. 134 4.2.2. Góp phần giảm bớt người mù chữ, nâng cao dân trí và bãi bỏ những hủ tục của xã hội Việt Nam ........................................................ 137 2 4.2.3. Góp phần vào thắng lợi của phong trào cách mạng 1939 – 1945 .. 141 4.2.4. Để lại tiền đề, cơ sở cho phong trào Bình dân học vụ tiếp tục thực hiện sự nghiệp xoá nạn mù chữ sau cách mạng Tháng Tám 1945 ....... 143 Tiểu kết chương 4...................................................................................... 147 KẾT LUẬN .................................................................................................. 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ................. 152 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................... 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 153 PHỤ LỤC 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong một thời gian dài nhiều thế kỷ, người Việt Nam chưa có chữ viết. Tới thế kỷ thứ X, do nhu cầu phát triển của tư duy, của tư tưởng, của văn học cần phải có công cụ biểu đạt ngôn ngữ Việt Nam mang tính phổ quát và biểu thị được âm thanh của tiếng Việt, thì người Việt Nam bắt đầu sáng tạo ra chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm phải dựa vào chữ Hán để viết thành chữ. Trong suốt nhiều thế kỷ chữ Nôm cùng với chữ Hán được xem là công cụ biểu đạt của tư tưởng, của văn hoá Việt Nam. Nhưng điều đó rất hạn chế vì chữ Hán cũng như chữ Nôm chưa vượt khỏi tầng lớp sĩ phu, còn đại đa số người Việt vẫn bị xem chưa có chữ viết để biểu đạt tình cảm, tư duy và tư tưởng của mình. Nhưng đến giữa thế kỷ XVII, qua sự tiếp xúc với người phương Tây, đặc biệt là với giới giáo sĩ truyền bá đạo Thiên chúa đã dẫn đến một bước ngoặc mới của văn hoá, tư tưởng Việt Nam, đó là sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ. Nhưng mục tiêu ban đầu của các nhà sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là tạo ra một công cụ truyền đạo (bằng tiếng Việt) và phổ biến kinh bổn. Do đó, chữ Quốc ngữ chưa vượt khỏi phạm vi Kitô giáo. Thế là, phải trải qua một thời gian đấu tranh lâu dài giữa ý thức dân tộc với nhà nước thực dân, thì chữ Quốc ngữ mới dành được vị trí xứng đáng trong xã hội Việt Nam, trở thành một bước ngoặt trong sự phát triển của văn hoá, của tư tưởng người Việt Nam. 1.2. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, trọng người có chữ lại rơi vào tình trạng hơn 90% dân số không biết chữ, bởi chính sách giáo dục nhỏ giọt của thực dân Pháp. Trước nạn mù chữ của quốc gia dân tộc cùng với yêu cầu thiết tha, mong mỏi của quần chúng lao động thất học, giới trí thức Việt Nam xuất hiện ý tưởng phổ biến chữ Quốc ngữ vốn dĩ những nhà Duy tân trong Đông Kinh nghĩa thục đã thực hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX. Nguyễn Văn Tố cùng Phan 4 Thanh, Bùi Kỷ, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp. . . tiến hành thảo luận và đi đến quyết định xin phép thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ với mục đích cao cả “nay dựng lên một Hội Truyền bá Quốc ngữ nhằm cốt truyền bá chữ Quốc ngữ, dạy cho đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của mình để dễ học những điều thường thức, cần dùng cho sự sinh hoạt hàng ngày” [81, tr. 1]. Trước yêu cầu chính đáng được đi học để biết đọc, biết viết của quần chúng nhân dân lao động mù chữ, cùng với quá trình đấu tranh khôn khéo của các nhà trí thức và các chiến sĩ cộng sản buộc nhà cầm quyền người Pháp phải chấp nhận sự ra đời và hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động từ năm 1938 đến năm 1945, Hội góp phần xoá nạn mù chữ, bước đầu xây dựng một nền giáo dục bình dân, bãi bỏ những tệ nạn hủ tục, nâng cao dân trí, phổ biến chữ Quốc ngữ và đóng góp vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945. Những thành tựu mà Hội đạt được là không nhỏ đối với lịch sử dân tộc trong những năm trước cách mạng Tháng Tám 1945. Nhưng cho đến ngày nay, chưa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Hội Truyền bá Quốc ngữ, nhất là nghiên cứu về những tác động của Hội đến xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Thời gian gần đây có xuất hiện một số bài viết về một số vấn đề liên quan đến Hội, nhưng còn mang tính khái quát, sơ lược về một vài khía cạnh của Hội Truyền bá Quốc ngữ, mà chưa phản ánh hết những hy sinh, cố gắng vượt qua mọi khó khăn của các hội viên, giáo viên của Hội để có những đóng góp to lớn đối với lịch sử dân tộc. Thế hệ chúng tôi không được tận mắt chứng kiến những hoạt động của Hội, của những “chiến sĩ diệt dốt vô danh”, nhưng lại được thừa hưởng những giá trị to lớn mà Hội Truyền bá Quốc ngữ để lại. Vì thế, chúng tôi mong muốn góp phần dựng lại một bức tranh toàn cảnh, sinh động về sự tồn tại và hoạt động của Hội, của những người trí thức xưa dồn bao tâm huyết cho công cuộc diệt dốt, nâng cao dân trí và mở mang trí tuệ của người Việt. 5 1.3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã quyết định lấy chữ Quốc ngữ làm chữ viết chính thức cho dân tộc Việt Nam. Đồng thời, khẳng định dứt khoát vị trí độc tôn của thứ chữ do các giáo sĩ người châu Âu cùng với tầng lớp trí thức Việt Nam, nhất là các thầy giảng sáng chế ra từ thế kỷ XVII, trải qua một thời gian nhiều thế kỷ đấu tranh, hoàn thiện để trở thành chữ viết chính thức của người Việt. Chính phủ Việt Nam mới tiếp tục thực hiện sự nghiệp chống nạn thất học, nâng cao dân trí, phổ biến chữ Quốc ngữ mà Hội Truyền bá Quốc ngữ đã để lại ý tưởng, tiền đề và cơ sở. Chính phủ quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ. Lúc này Hội Truyền bá Quốc ngữ hết vai trò lịch sử và trở thành tổ chức tiền thân của Nha Bình dân học vụ. Nghiên cứu về Hội Truyền bá Quốc ngữ sẽ góp phần bổ cứu thêm những tư liệu cho các thế hệ sau hiểu hơn về sự tồn tại, hoạt động và đóng góp của Hội đối với lịch sử dân tộc. Đồng thời, biết được những cống hiến, hy sinh vô cùng to lớn của các nhân sĩ, trí thức trong những năm 30, 40 của thế kỷ XX, từ đó, giáo dục truyền thống yếu nước, lòng tự hào dân tộc cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ. 1.4. Hiện nay, một bộ phận người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ do chịu sự tác động của lối sống thực dụng nên có nhiều biểu hiện xem nhẹ, coi thường chữ Quốc ngữ và tiếng Việt. Trong khi đó, chữ Quốc ngữ được các thế hệ người Việt Nam đi trước nhận ra cái hay, cái tiện và xem là thứ chữ “mầu nhiệm”, là “cái bè” để cứu vớt dân tộc khỏi cảnh đem tối, lầm than đi lên con đường văn minh. Họ xem chữ Quốc ngữ mới là chữ viết của dân tộc, chỉ có chữ Quốc ngữ mới phù hợp với văn hóa của người Việt Nam. Nếu không nhìn nhận đúng đắn và kịp thời, thì trong tương lai không xa có một bộ phận không nhỏ là người Việt Nam, sống ở quê hương, đất nước mà không biết viết đúng chữ Quốc ngữ và thiếu đi bản sắc văn hóa dân tộc. Ngày nay, chữ Quốc ngữ giữ vai trò chủ đạo, là chữ viết chính thức của dân tộc, mang lại “món ăn” tinh thần cho người Việt, xây dựng, gìn giữ, lưu 6 truyền bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Nên việc nghiên cứu về Hội Truyền bá Quốc ngữ và những tác động của Hội đến xã hội Việt Nam, góp phần làm thay đổi quan điểm và sự nhìn nhận của một bộ phận người Việt vẫn có tư tưởng xem nhẹ, coi thường chữ Quốc ngữ và tiếng Việt. 1.5. Nghiên cứu đề tài “Hội truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938 – 1945)”, có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử văn hoá cũng như lịch sử dân tộc, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc và làm sáng tỏ những vấn đề lớn trên lĩnh vực văn hoá trong những năm 1938 - 1945. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Hội Truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938 – 1945)” làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng bao trùm của Luận án là Hội Truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938 – 1945). Tuy nhiên, những hoạt động của Hội không chỉ giới hạn trong việc tổ chức mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho nhân dân Việt Nam mà còn tuyên truyền, phổ biến những điều hay, những kiến thức cần thiết có ý nghĩa cho cuộc sống hàng ngày. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung, nghiên cứu sự ra đời và các giai đoạn hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ trên phạm vi cả nước, kết quả hoạt động của từng giai đoạn; những tác động, ảnh hưởng của Hội đến xã hội Việt Nam từ năm 1938 đến năm 1945, trong đó, tập trung vào những nội dung: xóa nạn mù chữ, bãi bỏ những hủ tục lạc hậu, phổ biến chữ Quốc ngữ, để lại cơ sở, tiền đề cho Bình dân học và góp phần vào thắng lợi của phong trào cách mạng 1939 – 1945. Về mặt thời gian, tập trung nghiên cứu bối cảnh ra đời và các giai đoạn hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ từ năm 1938 đến 1945, nhất là đánh 7 giá những tác động của Hội đến xã hội Việt Nam. Nhưng, trong khi nghiên cứu đề tài, luận án còn mở rộng phạm vi nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ từ thế kỷ XVII cho đến thế kỷ XX, để làm rõ sự ra đời và hoàn thiện của thứ chữ viết này. Về mặt không gian, là tập trung nghiên cứu, làm rõ hoàn cảnh ra đời và quá trình hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ trên trên phạm vi toàn quốc. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của Luận án là dựng lại bức tranh toàn cảnh và sinh động về quá trình hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ từ năm 1938 đến năm 1945; những tác động, ảnh hưởng của Hội đến xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Để đạt được mục đích, Luận án có nhiệm vụ nghiên cứu khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của chữ Quốc ngữ; các tổ chức, cá nhân tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ, như phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, các báo, tạp chí đầu thế kỷ XX đã để lại tiền đề, cơ sở và ý tưởng cho Hội Truyền bá Quốc ngữ. Sự ra đời của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Các giai đoạn hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ, như: - Giai đoạn từ tháng 7 năm 1938 đến tháng 9 năm 1940: Hội Truyền bá Quốc ngữ chủ yếu hoạt động ở trong thành phố Hà Nội và kinh thành Huế. - Giai đoạn từ tháng 10 năm 1940 đến tháng 7 năm 1944: Hội Truyền bá Quốc ngữ từng bước mở rộng phong trào ra các tỉnh ở miền Bắc và miền Trung. - Giai đoạn từ tháng 8 năm 1944 đến tháng 8 năm 1945: Phong trào truyền bá Quốc ngữ phát triển mạnh mẽ trong cả nước. Những tác động, ảnh hưởng của Hội Truyền bá Quốc ngữ đối với xã hội Việt Nam; những thuận lợi và khó khăn trong bước trưởng thành Hội phải vượt qua. Một số yếu tố tác động đến sự thành công của Hội. 8 4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Nguồn tài liệu gốc gồm những tài liệu, nghị định, điều lệ, nội lệ liên quan đến Hội Truyền bá Quốc ngữ ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Nguồn tài liệu này được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Hà Nội, Trung tâm lưu trữ Trung ương quốc gia I Hà Nội. Ngoài ra, các báo, tạp chí như; Đông Pháp, Tràng An, Tin Tức, Tri Tân, Thanh Nghị...đã cập nhật liên tục những hoạt động của Hội thời bấy giờ mà chúng tôi tiếp cận được trong quá trình sưu tầm tài liệu. Nguồn tài liệu hồi ký là các công trình nghiên cứu, bài viết của các giáo viên, hội viên nhớ lại một thời tham gia hoạt động truyền bá Quốc ngữ đã đề cập đến nhiều nội dung về Hội Truyền bá Quốc ngữ. Nguồn tài liệu nghiên cứu là các công trình được in ấn, các bài viết của nhiều tác giả trong nước được đăng trên Tạp chí Tri Tân, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Xưa và Nay có đề cập đến một số nội dung về Hội Truyền bá Quốc ngữ hiện đang được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội, Thư viên Trường đại học Sư phạm I Hà Nội, Thư viện tỉnh Thanh Hoá, Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện sử học. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết những nhiệm vụ khoa học đặt ra, chúng tôi sử dụng hai phương pháp chuyên ngành cơ bản: Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp liên ngành khác như: Phương pháp đối chiếu so sánh, phân tích, thống kê xã hội học. 5. Đóng góp của luận án Luận án có những đóng góp sau: Trình bày quá trình ra đời và hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ từ năm 1938 đến năm 1945; dựng lại bức tranh toàn cảnh, sinh động từ hoàn cảnh ra đời, tồn tại, hoạt động đến những tác động của Hội đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. 9 Phân tích những tác động của Hội Truyền bá Quốc ngữ đến xã hội Việt Nam như: xóa nạn mù chữ, phổ biến chữ Quốc ngữ, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu; tác động đến phong trào cách mạng 1939 – 1945, trực tiếp nhất là phong trào cứu đói ở miền Bắc và cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Đồng thời, phân tích những nguyên nhân đưa đến sự thành công của Hội, trong bối cảnh bị kìm kẹp của chính quyền cai trị. Trong phạm vi nghiên cứu, luận án đề cập đến quá trình ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ, góp phần làm rõ hơn về lịch sử của thứ chữ viết này. Cuối cùng, nội dung và tư liệu của luận án có thể sử dụng phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử văn hoá, lịch sử dân tộc giai đoạn trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng thời phục vụ những bạn đọc quan tâm đến Hội Truyền bá Quốc ngữ. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương. Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Sự ra đời của Hội Truyền bá Quốc ngữ Chương 3. Hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ (1938-1945) Chương 4. Ảnh hưởng của Hội Truyền bá Quốc ngữ đến xã hội Việt Nam 10 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Vấn đề về Hội Truyền bá Quốc ngữ, chữ Quốc ngữ, phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu dưới các cách tiếp cận và cách nhìn nhận khác nhau được công bố. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Luận án, chúng tôi không có điều kiện trình bày cụ thể mà chỉ xin tổng quan về một số nhóm công trình quan trọng. 1.1. Khái quát kết quả nghiên cứu Tác phẩm Đầu nguồn (Nxb Văn học năm 1975), là tập hồi ký của nhiều tác giả viết về Bác Hồ từ nước ngoài trở về Việt Nam trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cho đến tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Tập hồi ký đã để lại nhiều giá trị về tư liệu lịch sử, văn học, chính trị… . Trong đó, phản ánh khái quát về tình trạng mù chữ của nhân dân Việt Nam dưới sự cai trị của người Pháp, nhất là nhiều cán bộ cách mạng cũng không biết một thứ chữ nào. Trước tình trạng mù chữ của nhân dân, Bác Hồ chủ trương phát động phong trào: Việt Minh tới đâu, tổ chức học văn hóa tới đó. Người biết chữ dạy cho người không biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít. Chính có chủ trương này, phong trào học chữ Quốc ngữ, xóa nạn mù chữ, bãi bỏ những hủ tục lạc hậu trong đời sống nhân dân bắt đầu được thực hiện ở Cao Bằng và dần dần lan rộng ra các địa phương khác. Năm 1991, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội in tác phẩm Hồi ký của Trần Huy Liệu. Trong đó, tác giả ghi lại các giai đoạn hoạt động cách mạng và kể về những chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương muốn kết hợp với các nhà trí thức thành lập một hội chống lại nạn mù chữ, nâng cao dân trí, tuyên truyền chủ trương, đường lối cách mạng ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Đảng Cộng sản Đông Dương đã giao cho một số chiến sĩ cộng sản kết hợp với giới trí thức xúc tiến thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ. 11 Tác phẩm Chặng đường nóng bỏng của Hoàng Quốc Việt viết dưới dạng hồi ký, đã nhớ lại thời kỳ hoạt động cách mạng trong những năm 30 của thế kỷ XX. Hồi ký tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa tác giả với nhà hoạt động cách mạng Trường Chinh tại bệnh viện Bạch Mai bàn luận về việc kết hợp với các nhà trí thức ở Hà Nội lập ra một tổ chức chống nạn mù chữ, làm cho nhân dân Việt Nam biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ tạo thuận lợi cho việc phổ biến chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương đi vào đời sống nhân dân. Cuốn Hồi ký Thanh Nghị, của tác giả Vũ Đình Hòe, (Nxb Văn học, năm 2000) có giá trị phong phú về nhiều mặt lịch sử, văn hóa, xã hội, chính trị… Trong đó, tác giả nguyên là Phó Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ đã tường thuật lại một cách sâu sắc về tình trạng mù chữ của nhân dân Việt Nam; về tổ chức mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho quần chung lao động thất học; về những khó khăn, thử thách mà Hội Truyền bá Quốc ngữ phải vượt quan. Tác phẩm Hồi ký của Tô Hoài (Nxb Hội Nhà văn, năm 2004) đã trình bày nhiều vấn đề về lịch sử, văn hóa, chính trị, trong đó có nêu lên những hoạt động của chi Hội Truyền bá Quốc ngữ ở Nam Định. Đặc biệt, kể về cuộc gặp gỡ giữa tác giả với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trong khi đang tham gia tuyên truyền, vận động các tầng nhân dân lao động nghèo đi học chữ Quốc ngữ, các nhà hảo tâm ủng hộ tiền, tài sản, công sức giúp Hội. Công trình Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, (Nxb Văn học, 2006), Tuấn chàng trai nước Việt chứng tích thời đại đầu thế kỷ XX, của Nguyễn Vỹ (Nxb Văn học, 2006), đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức của người Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX về chữ Quốc ngữ. Họ từ chỗ nghi ngờ, coi thường đến tiếp nhận và xem chữ Quốc ngữ là “hồn trong nước”, là “lợi khí thứ nhất” để khai dân trí. Từ đó, họ đã cổ vũ, vận động gia đình, người thân theo học chữ Quốc ngữ, nhiều nhà đã thuê thầy về dạy chữ Quốc ngữ cho con, em mình. 12 Nhóm tài liệu nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ, tiêu biểu như: Tác phẩm Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 – 1659 của tác giả Đỗ Quang Chính (Nxb Sài Gòn năm 1972), “Thưởng thức chữ Quốc ngữ cổ” của Nguyễn Khắc Xuyên đăng trên Tạp chí Xưa và Nay, số 99, 2001 đã nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ từ năm 1620 đến 1659. Nhất là, các tác giả đã phân tích, lý giải về tính tiện ích, sự phù hợp của chữ Quốc ngữ đối với con người và văn hóa Việt Nam. Tác phẩm Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ của Hoàng Xuân Việt (Nxb Văn hóa Thông tin, năm 2007), đã trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ gắn liền với các nhà truyền giáo người châu Âu từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX. Tác giả tập trung nghiên cứu về quá trình phát triển của tiếng nói, chữ viết bao gồm chữ Nôm và chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Đồng thời, phản ánh khái quát quá trình cổ vũ, truyền bá chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ; vai trò của chữ Quốc ngữ trong công cuộc chống nạn thất học, mở mang dân trí, trong sáng tác thơ ca, xây dựng và gìn giữ nền văn hóa của dân tộc. Tác phẩm Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20, của tác giả Hoàng Tiến (Nxb Thanh Niên, năm 2003) đã nghiên cứu khái quát về sự ra đời của chữ Quốc ngữ và quá trình vận động, cổ vũ các tầng lớp nhân dân Việt Nam sử dụng chữ Quốc ngữ vào những năm đầu thế kỷ XX. Tác giả phân tích, đánh giá khách quan về sự tiện ích của chữ Quốc ngữ so với chữ Hán, chữ Nôm là học dễ nhớ, dễ học và phù hợp với văn hóa, con người Việt Nam. Tác giả đã khái quát quá trình truyền bá, cổ vũ nhân dân bỏ chữ Hán, chữ Nôm mà học và sử dụng chữ Quốc ngữ do tầng lớp trí thức phát động. Trong đó, khẳng định, chữ Quốc ngữ được truyền bá và sử dụng đầu tiên ở miền Nam do một bộ phận trí thức thực hiện, tiêu biểu là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... Nhưng, phải đến đầu thế kỷ XX, công cuộc truyền bá chữ Quốc ngữ mới trở thành phong trào phát triển rộng lớn do các nhà trí thức ở 13 miền Bắc đứng ra cổ vũ, tạo nên một cuộc cách mạng chữ viết, mở đầu bằng sự ra đời của tờ Đăng cổ Tùng báo, do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút và kết thức vào năm 1917, bằng việc tờ Đông Dương tạp chí đình bản. Công trình Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ (tài liệu hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ tháng 9 năm 1960) do Đặng Thai Mai chủ biên đã nghiên cứu khái quát về sự ra đời của chữ Quốc ngữ; các giai đoạn phát triển và hoàn thiện chữ Quốc ngữ, những đặc điểm của chữ Quốc ngữ và phương án tổ chức cải cách chữ Quốc ngữ của các nhà khoa học. Các bài viết của Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên báo, tạp chí Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn…, như: “Chữ Quốc ngữ”, “Cách viết tên người, tên đất ra chữ Quốc ngữ”, “Cách viết chữ Quốc ngữ, Chủ nghĩa”…, đã phân tích, lý giải và khẳng định tính ưu việt, sự tiện ích, dễ học, dễ nhớ của chữ Quốc ngữ, đồng thời cổ vũ nhân dân Việt Nam sử dụng chữ Quốc ngữ thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Các công trình của Nguyễn Văn Vĩnh có ý nghĩa to lớn cho việc nghiên cứu về quá trình hoàn thiện và phổ biến chữ Quốc ngữ những năm đầu thế kỷ XX. Các công trình nghiên cứu của Phạm Quỳnh về chữ Quốc ngữ và phổ biến chữ Quốc ngữ, tiêu biểu như: Bài “Khảo về chữ Quốc ngữ”, đăng trên Nam Phong tạp chí, số 122, năm 1917 đã nghiên cứu về sự ra đời, tính chất dễ học, dễ sử dụng và sự phù hợp của chữ Quốc ngữ đối với nhân dân Việt Nam. Đồng thời, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân nhanh chóng bỏ chữ Hán, chữ Nôm khó học, khó nhớ để học lấy chữ Quốc ngữ nhằm xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí. Tác giả khẳng định, chữ Quốc ngữ chính là phương tiện hữu hiệu và phù hợp để nâng cao dân trí cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Các tác phẩm Luận giải văn học và triết học (Nxb Văn hóa Thông tin, 2003), Thượng chi văn tập (Nxb Văn học, 2006), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 (Nxb Tri thức, 2007) tác giải đã phân tích và 14 lý giải nhiều vấn đề, ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó khảo sát về chữ Quốc ngữ, tích cực cổ vũ, tuyên truyền nhân dân Việt Nam sử dụng chữ Quốc ngữ và tiếng Việt. Công lao của Phạm Quỳnh trong việc phổ biến chữ Quốc ngữ, phát triển Tiếng Việt và xây đắp nền Quốc văn cho dân tộc đã được Dương Quảng Hàm đánh giá cao trong tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu. Năm 2008, công trình Văn trên Nam Phong tạp chí, diện mạo và thành tựu của Nguyễn Đức Thuận đánh giá cao về vai trò của Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong trên lĩnh vực văn hóa và trong sự nghiệp truyền bá chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Đồng thời, tác giả khẳng định, Nam Phong tạp chí chí là diễn đàn quan trọng góp phần to lớn vào quá trình phổ biến và hoàn thiện của chữ Quốc ngữ. Nhất là, khi chữ Quốc ngữ đã trở thành phương tiện để các nhà thơ, nhà văn sáng tác mang lại “món ăn” tinh thần cho nhân dân. Các công trình nghiên cứu mang tính chất văn học – sử, tiêu biểu như: Việt Nam văn học sử yếu, của Dương Quảng Hàm (Nxb Trẻ, 2005), Văn học sử Việt Nam, tác giả Lê Văn Siêu (Nxb Văn học, 2006) trong đó, các tác giả có nghiên cứu khái quát quá trình hình thành của chữ Quốc ngữ và chữ Quốc ngữ từng bước được phổ biến trong đời sống nhân dân, đồng thời đánh giá công lao của một số nhà trí thức trong việc phổ biến chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Các tác phẩm Văn thơ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX 19001930 (Nxb Văn học, 1976), Văn thơ cách mạng 1930 – 1945 (Nxb Văn học, 1980), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của Đặng Thai Mai (Nxb Văn học, 1976), Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam tư tưởng yêu nước, tác giả Trần Văn Giàu (Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1983), Lược truyện các tác giả Việt Nam, của Trần Văn Giáp (Nxb Văn học, 2000), Nhà văn hiện đại, tập 1, 2 của Vũ Ngọc Phan (Nxb Văn học, 2005) đã nghiên cứu phản ánh về đời sống của nhân dân Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp và tình trạng mù chữ phổ biến trong nhân dân nghèo lao động. Có nhiều bài thơ, bài văn khuyên nhân dân theo 15 học chữ Quốc ngữ để xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, chống lại chính quyền cai trị giành chính quyền về tay nhân dân. Hơn nữa, các tác phẩm cũng nghiên cứu sơ lược về tiểu sử, quá trình hoạt động của nhiều nhà trí thức trong việc truyền bá, phổ biến chữ Quốc ngữ. Trong tác phẩm Chuyện nghề của Nguyễn Tuân (Nxb Tác Phẩm mới, 1986) lại nghiên cứu, tìm hiểu về tâm trạng của tầng lớp trí thức nho học xuất phát từ lòng yêu nước, căm thù giặc nên ghét luôn cả chữ Quốc ngữ mà tiêu biểu như nhà thơ Tú Xương. Các công trình của Phan Khôi như: Tác phẩm đăng báo năm 1928 (Nxb Đà Nẵng, 2003), Tác phẩm đăng báo 1929 (Nxb Đà Nẵng, 2005), Tác phẩm đăng báo năm 1930 (Nxb Hội nhà văn Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005) Tác phẩm đăng báo 1931 (Nxb Hội Văn học, 2007) do Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn. Các công trình nghiên cứu của Phan Khôi đã phản ánh phong phú các mặt trong đời sống xã hội, nên có nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa và chính trị. Trong đó, ông viết nhiều về chữ Quốc ngữ, tiêu biểu như: “Tại sao chúng ta không nên bỏ chữ Quốc ngữ mà phải viết cho đúng”, “Viết chữ Quốc ngữ phải viết đùng”, “Phải viết chữ Quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho đúng”, “Trả lời một vị độc giả hỏi về chữ Quốc ngữ”, “Lại trả lời cho một bức thơ hỏi về chữ Quốc ngữ”, “Chữ Quốc ngữ ở Nam Kỳ với thế lực của phụ nữ”…đã phân tích sự tiện ích, dễ nhớ, dễ học của chữ Quốc ngữ mà cổ vũ, tuyên truyền nhân dân Việt Nam học ngay lấy chữ Quốc ngữ, viết chữ Quốc ngữ cho thống nhất trong cả nước, đồng thời thẳng thắn phê phán những quan điểm xem nhẹ, coi thường chữ Quốc ngữ và tiếng Việt. Đầu thế kỷ XX đã nổ ra một cuộc tranh luận về việc có nên hay không nên sử dụng chữ Quốc ngữ, sử dụng như thế nào cho thống nhất, thuận lợi cho giao tiếp được đăng tải trên nhiều tờ báo lúc bấy giờ. Năm 2002, Nhà xuất bản Lao Động đã phát hành công trình Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, do Nguyễn Ngọc Thiện sưu tầm và biên soạn dựa vào những bài viết đã được 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan