HƯƠNG SẮC TRONG
VƯỜN VĂN
Tác-giả: Nguyễn Hiến Lê
Nhà xuất bản: Nguyễn Hiến Lê
Năm xuất bản: 1961
Đánh máy: Sunnie, Goldfish, Ca_kiem
Sửa lỗi: Phaplu
Tạo ebook: Goldfish
Ngày hoàn thành: 24/04/2012
http://www.e-thuvien.com
MỤC LỤC
THAY LỜI GIỚI THIỆU
QUYỂN NHẤT
TỰA
CHƯƠNG I: ÓC THẨM-MỸ
1. Óc thẩm-mỹ thuộc về tình-cảm
nhiều hơn về lý-trí.
2. Óc thẩm-mỹ mỗi xứ một khác.
3. Óc thẩm-mỹ mỗi thời một khác.
4. Óc thẩm-mỹ mỗi người một khác.
5. Óc thẩm-mỹ thay đổi tùy trình độ
học thức và sự từng trải.
6. Óc thẩm-mỹ là một tình-cảm thiên
lệch, võ đoán.
7. Óc thẩm-mỹ có thể đúng và sai.
8. Sự phán-đoán của thời gian.
9. Muốn luyện óc thẩm-mỹ.
CHƯƠNG II: VĂN HÙNG-TRÁNG
1. Hùng-tráng là một vẻ của cái đẹp.
2. Những đầu đề hùng-tráng.
3. Văn hùng-tráng của Trung-Hoa.
4. Văn hùng-tráng của Việt Nam
5. Tại sao văn thơ Việt Hoa ít giọng
hùng-tráng.
6. Công-dụng của hình ảnh trong lối
văn hùng-tráng.
7. Hình ảnh phải ra sao?
8. Phải bỏ những chi-tiết nhàm.
9. Phải tránh cái lố-bịch.
10. Sự hỗn độn cũng có thể hùngtráng
11. Một đoạn của Milton.
CHƯƠNG III: VĂN BA-LAN
1. Một truyện có tính cách ba-lan.
2. Một kịch có tính cách ba-lan.
3. Một chương, một đoạn có tínhcách ba-lan.
4. Ý phải đột-ngột.
5. Nhưng phải liên-tiếp.
6. Đợt sau nên ngắn hơn đợt trước.
7. Một bài văn làm kiểu mẫu: APhòng cung phú của Đỗ Mục.
CHƯƠNG IV: TẾ-NHỊ VÀ HÀMSÚC
1. Thuật gợi cho độc-giả tưởngtượng.
2. Tài gợi bằng vài nét của thi-sĩ
Trung-Hoa và Việt-Nam.
3. Thuật kín-đáo.
4. Thuật hàm-súc.
5. Cái tế-nhị trong văn thơ Pháp.
CHƯƠNG V: LỜI XỨNG Ý – Ý
HỢP VỚI CẢNH VÀ TÌNH
1. Cảm xúc là cần nhất.
2. Lời không được thắng ý, ý không
được thắng lời.
3. Nếu lời thắng ý.
4. Nếu ý thắng lời.
5. Ý phải hợp với cảnh, với tình.
CHƯƠNG
VI: CẢNH VẬT
TRONG VĂN
1. Muốn tả, trước hết phải nhận-xét.
2. Tả một khía cạnh của cảnh vật.
3. Ghi chép đủ chi-tiết.
4. Tật của Zola.
5. Mượn cảnh để ngụ ý.
6. Tưởng-tượng để tạo hình-ảnh.
7. Tưởng-tượng để tạo cảnh vật.
8. Lối văn bình-dị hợp với những
cảnh cảm-động.
CHƯƠNG VII: TÌNH TRONG
VĂN
1. Văn có tình mới hay.
2. Những văn thơ đủ cảnh lẫn tình.
3. Tình kín-đáo.
4. Tình nồng-nhiệt. Văn thơ trữ-tình.
5. Đối-tượng của văn thơ trữ-tình.
6. Phải thành-thực.
7. Một bài thơ tầm thường mà được
truyền tụng.
QUYỂN NHÌ
CHƯƠNG VIII: LÝ TRONG VĂN
1. Người xưa không biết lý luận.
2. Các danh gia mở đường cho phép
lý luận.
3. Lý đương nhiên.
4. Nghị luận gọn của Trung Hoa.
5. Nghị luận tài hoa
6. Mượn cảnh để phát biểu tư tưởng.
7. Phép đối chiếu.
8. Phép tiệm tiến phối hợp với vài
phép khác.
9. Rào trước đón sau.
10. Vài phép nghị luận đặc sắc.
11. Kể lể vơ vẩn.
CHƯƠNG IX: SỰ THỰC TRONG
VĂN
1. Những cố gắng của văn sĩ để diễn
đúng sự thực.
2. Nhưng văn không thể nào hoàn
toàn đúng sự thực được.
3. - Thí dụ trong kịch.
4. - Thí dụ trong tiểu thuyết.
5. Lựa chọn để lý tưởng hóa.
CHƯƠNG
X: NHỮNG CÁCH
THOÁT RA NGOÀI SỰ THỰC
1. Phóng đại sự thực để trào phúng.
2. Phóng đại sự thực để gây những
cảm tưởng hùng vĩ, tươi đẹp, cảm động,
rùng rợn.
3. Giản dị hoá sự thực.
4. Giấu bớt sự thực.
5. Cho sự thực phản chiếu tư tưởng.
6. Cho sự thực phản chiếu tâm sự.
7. Nhà văn kể lể tâm sự nhiều nhất:
Nguyễn Tuân.
CHƯƠNG XI: ĐUỔI BẮT ẢO
ẢNH
1. Cái vô cùng tạp đa trong vũ trụ
2. Đuổi bắt ảo ảnh.
3. Phái cổ điển.
4. Phái lãng mạn.
5. Phái hiện thực và tự nhiên.
6. Phái tượng trưng.
7. Các phái đa đa, siêu thực tự âm
CHƯƠNG XII: ĐUỔI BẮT ẢO
ẢNH (tiếp theo)
8. Marcel Proust.
9. Michel Butor
10. Kết
CHƯƠNG XIII: KỸ THUẬT CHÂN
CHÍNH
1. Vài mẫu văn đẽo gọt.
2. Vài mẫu văn bình dị và tự nhiên.
3. Các kỹ thuật thay đổi tùy thời
nhưng vẫn có một kỹ thuật bất biến.
4. Làm sao luyện được kỹ thuật đó?
CHƯƠNG
XIV: CÁI THẦN
TRONG VĂN
1. Có cái đẹp không phân tích được.
2. Một bài thơ của Baudelaire.
3. Bài tả cảnh Hương Sơn của Chu
Mạnh Trinh.
4. Cái thần của văn cũng như cái
duyên của phụ nữ.
Trước hết nên cảm thông với nghệ sĩ.
[1]
THAY LỜI GIỚI THIỆU
Trong chương XVIII tôi đã nói về bộ
Luyện văn (3 cuốn) và bộ Đại cương văn
học sử Trung Quốc rồi.
Tác phẩm thứ ba mà tôi thích hơn bộ
Luyện văn là bộ Hương sắc trong vườn
[2]
văn (mới đầu in làm hai cuốn) .
Tôi nảy ra ý viết bộ đó nhờ năm 1947
hay 1948, đọc cuốn Cours de technique
littéraire của một trường hàm thụ (tôi
quên mất tên) ở Paris. Cuốn đó dạy kĩ
thuật viết báo, tiểu thuyết, kịch, phê bình
văn học, viết thư, cả viết quảng cáo nữa.
Những thuật đó không có gì mới mẻ,
đại khái tôi cũng biết qua rồi, mà tôi
cũng không có ý trứ tác những ngành kể
trên; nhưng soạn giả khéo dẫn nhiều thí
dụ lí thú, và năm 1958 tôi dùng một số
thí dụ đó với nhiều thí dụ khác trong văn
học Trung Quốc và Việt Nam để viết
Hương sắc trong vườn văn.
Công việc không có gì khó. Cần nhất
là có nhiều văn thơ để trích dẫn, muốn
vậy phải đọc thật nhiều. Không phải đọc
trong sáu tháng hay một năm khi đã nảy
ra ý định viết rồi, mà phải đọc từ năm
mười năm trước, thì mới được nhiều tài
liệu. Và như Sainte Beuve nói, “khi đã
lượm được đầy tay rồi thì công việc giản
dị lắm”, chỉ cần một bố cục khéo để
“đóng khung” thôi. Khi thu thập tài liệu
tôi đã thấy vui, mà khi viết tôi cũng thấy
thích. Và chắc chắn độc giả đọc sách tôi
cũng thấy vui như tôi. Một ông giám học
trường trung học ở miền Trung khen
Hương sắc trong vườn văn là tác phẩm
phê bình văn học sâu sắc ở nước nhà.
Gần đây một ông bạn cho tôi hay một
thanh niên tốt nghiệp đại học Văn khoa ở
Huế khi “vượt biên” chỉ mang theo mỗi
cuốn đó.
Ngày nay đọc lại, tôi vẫn thích các
chương Văn ba lan, Tế nhị và hàm súc,
Tình trong văn, lí trong văn, Đuổi bắt
ảo ảnh (tiếp), nhất là hai chương cuối:
Kĩ thuật chân chính, và Cảm thông với
cái đẹp.
Cuối đoạn kết (gồm một trang) của
toàn bộ, tôi viết mấy hàng này: “Trong
nghệ thuật cũng như ở ngoài đời, phân
tích tỉ mỉ quá không có lợi gì cho người
và cho mình. Những kẻ sung sướng nhất
là những kẻ lí luận ít mà cảm xúc nhiều.
Bạn cứ hỏi trái tim bạn, hạnh phúc ở đó,
mà cái đẹp cũng ở đó”.
Bộ đó in hai lần, trước sau được
[3]
5.000 bản . Trong số năm ngàn độc giả
đó, tôi mong có được dăm trăm người
biết dùng văn thơ để bồi luyện cảm xúc
mà tìm được hạnh phúc. Tôi cho đó là
cái lợi nhất khi ta đọc những tác phẩm
bất hủ của nhân loại.
(Nguồn: Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê, Nxb
Văn Học, năm 1993, trang 443-444)
QUYỂN NHẤT
TỰA
Theo tôi, cái gì làm cho đời người
phong-phú lên là cái ấy đẹp. Phong-phú về
vật-chất cũng như về tinh-thần, vì vật-chất
và tinh-thần liên quan mật thiết với nhau.
Một kiểu áo giúp cho điệu-bộ của ta uyển
chuyển hoặc nghiêm-trang; một trái cam ăn
vào ta thấy cơ thể nhẹ nhàng, sảng khoái;
một nền trời lấp lánh những vì sao, một
cánh đồng thơm tho những lúa chín, một
định lý hoá học, một hành-vi bác ái…
những cái đó đều là đẹp cả.
Hiểu như vậy thì cái Đẹp bao trùm cả
cái Chân và cái Thiện; mà mục-đích của
đời người là tìm tòi thực hiện rồi hưởng
cái Đẹp. Chúng ta càng văn minh bao
nhiêu thì càng bỏ nhiều thì giờ để theo
đuổi mục-đích đó bấy nhiêu.
Ngay từ hồi tiền sử, cả ức vạn năm về
trước, tổ tiên ta mỗi khi được rảnh rang,
khỏi phải lo cái ăn cái mặc, đã tỉ-mỉ đục
trên đá hình vạn vật ở chung quanh, nét
đục rất tinh-xảo; rồi họ lại biết tạo ra
những xa xỉ phẩm, chê trái cây trong rừng
là không ngon, vỏ cây lá không ấm, mà
trồng lê trồng táo, dệt tơ dệt vải; và bạn có
ngờ được chăng, cách đây bốn ngàn năm,
một dân-tộc ở đảo Crét (Crète) giữa Địatrung-hải đã có những phòng tắm đủ nước
nóng nước lạnh và những kiểu giầy cao gót
y như giầy các bà các cô bây giờ vậy?
Hơn nữa, các dân-tộc Ai-cập và Can-
[4]
đê còn tìm hiểu vũ trụ, đặt nền tảng cho
Toán học, Thiên văn-học và dạy bảo nhau
những lễ nghi cùng tư-tưởng nhân quần bác
ái, khuyến-khích lòng hy sinh cho nghĩa vụ
và đồng bào.
Những sự tìm tòi đó của các nhà trồng
trọt, ươm dệt, các vị bác-học, triết-gia đều
nhằm mục-đích làm cho đời sống ta
phong-phú lên; những phát minh của họ
mới đầu chỉ là những xa xỉ phẩm, lần lần
thành những nhu-cầu của nhân loại.
Ta thường nghe nhiều người phàn-nàn
mỗi ngày chỉ lo cho có đủ hai bữa cơm mà
phải làm tối-tăm mặt mũi quanh năm suốt
tháng. Thực ra, chúng ta bận rộn, lo lắng
có phải chỉ vì mấy chén cơm mà thôi đâu.
Nếu chỉ cần có cái gì ăn cho no, mặc cho
ấm như tổ tiên ta thời cổ, thì phần đông
chúng ta có lẽ mỗi ngày làm vài giờ cũng
đủ rồi. Nhưng chúng ta còn cần có rượu,
có trà, có trái cây, sữa hộp, có giày, có
nón, có kính đeo mắt, có dao cạo râu… lại
cần đọc báo, đọc sách, đi coi hát bóng, đá
banh, cần cho con đi học, cho vợ đi nghỉ
mát… biết bao cái ngày nay ta cho là cần
thiết thì hồi xưa chỉ là xa xỉ. Đó là kết quả
tự nhiên của văn minh.
Vậy, quả thực là loài người sống để
tìm cái Đẹp, thực hiện cái Đẹp và hưởng
cái Đẹp. Không một ai thoát khỏi luật
chung đó. Cả những người sống rất giảndị, không chút xa hoa, như các vị hiền
triết, cũng là để hưởng cái Đẹp, cái Đẹp
của trăng, mây, hoa, cỏ, cái đẹp của tĩnh
mịch, an nhàn.
*
* *
Nghệ-thuật có mục-đích ghi và thực
hiện được cái Đẹp trong vũ-trụ; mà trong
các nghệ-thuật, văn-chương và âm-nhạc
phổ cập hơn hết, cảm người ta sâu hơn hết;
riêng văn-chương lại có công-dụng giảng
giải, truyền bá các nghệ-thuật khác, nên từ
khi nhân loại có chữ viết thì bất kỳ ở thời
nào và xứ nào, nó cũng được coi trọng hơn
mọi môn và được dạy nhiều nhất trong các
trường học.
Ngày xưa, ở phương Tây cũng như ở
phương Đông chúng ta, nói đến học tức là
học văn, vì triết lý hay sử-ký cũng đều là
văn. Ngày nay, khoa học tuy đã chiếm một
địa vị lớn trong chương-trình giáo-khoa,
song vẫn không áp đảo nổi văn-chương.
Không nói trong các ban tiểu-học và trung-
- Xem thêm -