Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong...

Tài liệu Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong tố tụng hình sự việt nam

.PDF
78
44
65

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH ĐẶNG VĂN HÙNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60380104 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN BÁ NGỪNG TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu độc lập của tôi với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn khoa học. Các nội dung, số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ .. 5 1.1. Nhận thức chung về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ............................................................................................. 5 1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm ........................................ 5 1.1.2. Khái niệm về kiến nghị khởi tố ........................................................ 13 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...18 1.2. Công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ............................................................................................................ 19 1.2.1. Nhiệm vụ tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ........................................................................... 19 1.2.2. Trình tự tiếp nhận và giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.................................................................................................. 23 1.3. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ............................ 28 1.3.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tố giác,tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .................................................................. 28 1.3.2. Nội dung công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .................................................... 34 Kết luận Chương 1 ................................................................................................. 40 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ .. 41 2.1. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ..................................................................................................... 41 2.1.1. Tình hình tố giác, tin báo tội phạm và kết quả công tác kiểm sát ............ 41 2.1.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ kiểm sát qua một năm thực hiện Thông tư liên tịch 6/2013/TTLT ngày 02/8/2013 ....................................................................... 44 2.2. Những tồn tại và vướng mắc, bất cập trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...................................... 46 2.2.1. Một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động kiểm sát ..................................... 46 2.2.2. Những vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật đối với hoạt động công tác kiểm sát .......................................................................................................... 51 2.2.3. Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế và vướng mắc, bất cập ................... 58 2.3. Những giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ................. 61 2.3.1. Về giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm sát ..... 61 2.3.2. Các kiến nghị hoàn thiện về cơ sở pháp lý và trong công tác tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát .............................................. 64 Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 68 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm khách thể được Bộ luật Hình sự bảo vệ, nên khi có tội phạm xảy ra thì tất yếu phát sinh trách nhiệm của Nhà nước trong việc phát hiện kịp thời, xử lý tội phạm và người phạm tội để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân. Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nguồn căn cứ để xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để xem xét quyết định việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Nhận thức rõ tầm quan trọng của khâu công tác này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Nghị quyết của Quốc hội về cải cách tư pháp đều đặt ra yêu cầu phải “thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo tội phạm…”1. Để thực hiện yêu cầu bảo đảm “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo pháp luật”2, “Không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”3 thì hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát là rất cần thiết, có vai trò quan trọng, thực hiện tốt công tác này ngay từ khi tội phạm xảy ra nhằm góp phần bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đúng pháp luật, có căn cứ, khách quan và triệt để, khắc phục việc bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thực hiện chủ trương về cải cách tư pháp, yêu cầu phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên công tác này vẫn còn những hạn chế và vướng mắc, bất cập dẫn đến hiệu quả công tác chưa cao. Trong tiếp nhận, phân loại, thụ lý giải Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013. 2 Khoản 1, Điều 3 Bộ luật Hình sự. 3 Khoản 3, Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự. 1 2 quyết còn vi phạm phổ biến như: không thụ lý đầy đủ, thực hiện không đúng trình tự, thủ tục quy định, giải quyết quá hạn chiếm tỷ lệ cao; một số tố giác, tin báo về tội phạm giải quyết không đúng thẩm quyền, giải quyết không chính xác, trình trạng “khép kín” từ việc tiếp nhận thông tin và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm vẫn còn xảy ra, do cơ chế trách nhiệm cung cấp giữa cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết và Viện kiểm sát không rõ ràng, chưa đầy đủ; việc nắm, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm ở nhiều Viện kiểm sát là không đầy đủ, kịp thời; Viện kiểm sát là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng lại thiếu các cơ chế pháp luật để Viện kiểm sát thực hiện trách nhiệm này, thiếu các cơ chế bảo đảm cho mọi yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát về chứng minh tội phạm được thực hiện đầy đủ… từ đó chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát còn hạn chế, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, sự mong đợi của nhân dân: Việc giải quyết, xử lý tin báo về tội phạm chưa kịp thời, tội phạm còn bị bỏ lọt, chưa được phát hiện nhanh chóng, xử lý nghiêm minh. Để góp phần khắc phục những tồn tại và vướng mắc, bất cập trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát lĩnh vực này cần nghiên cứu thực trạng về thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Ngành Kiểm sát, rút ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc bất cập, từ đó đề ra những giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác kiểm sát trong thời gian tới. Từ lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay, theo chúng tôi được biết, đã có các bài viết đăng trên tạp chí Kiểm sát đề cập vấn đề này, cụ thể: bài Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến 3 nghị khởi tố của tác giả Bùi Mạnh Cường đăng trên tạp chí số 1/2011; Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của tác giả Đỗ Mạnh Quang đăng trên tạp chí số 11/2011... Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các báo cáo chuyên đề về công tác này vào năm 2010, 2014. Các bài viết, báo cáo chuyên đề đã nêu thực trạng những vướng mắc, bất cập, những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, chưa có luận văn nghiên cứu đề tài: "Kiểm sát việc giải quyết việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố" để lý giải toàn diện những vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn, nên việc nghiên cứu đề tài này là vấn đề mới có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn thiện về mặt lý luận, cũng như phương diện pháp luật, giải quyết những yêu cầu thực tiễn đòi hỏi để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát. 3. Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu a. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ lý luận về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đồng thời làm rõ những bất cập trong áp dụng các quy định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công tác kiểm sát. b. Đối tượng nghiên cứu Đề tài luận văn nghiên cứu về vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn hoạt động công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của ngành Kiểm sát nhân dân. c. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trong đó tập trung đi sâu về kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. 4 Về thời gian: Khảo sát thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2009 đến năm 2014 trên phạm vi toàn quốc (Theo Báo cáo hàng năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao). 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp phân tích; - Phương pháp tổng hợp; - Phương pháp so sánh; - Phương pháp tiếp cận hệ thống. 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ, bổ sung hoàn thiện cơ sơ lý luận, pháp lý của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của ngành Kiểm sát nhân dân, có thể nghiên cứu để nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực tiễn công tác kiểm sát nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thời gian tới. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn gồm hai chương, có nội dung như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát và những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. 5 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ 1.1. Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những cơ sở xác định dấu hiệu của tội phạm, mà dấu hiệu tội phạm là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố có vai trò đặc biệt quan trọng, nó giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, đồng thời phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chỉ quy định về nhiệm vụ giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền, không định nghĩa thế nào là tố giác về tội phạm, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hiện nay, có nhiều cách hiểu, nhận thức chưa thống nhất về các khái niệm này dẫn đến việc vận dụng vào thực tiễn khác nhau. Do đó, việc làm rõ nội hàm và đưa ra các khái niệm “tố giác về tội phạm”, “tin báo về tội phạm” và “kiến nghị khởi tố” có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. 1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm Dưới góc độ ngôn ngữ học, thì các thuật ngữ: tố cáo, tố giác, tin báo được hiểu là: Tố cáo: 1. Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. 2. Vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn. Tố giác: Báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. Tin: 1.Điều được truyền đi, báo đi cho biết về sự việc, tình hình xảy ra. 2.Sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó. 6 Báo: 1.Cho biết việc gì đó đã xảy ra. 2.Cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung… là dấu hiệu cho biết trước4. Trên bình diện pháp lý, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 của Luật Tố cáo năm 2011 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2012) thì “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe đọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. Tố cáo ở đây là khái kiện chung, là việc công dân thực hiện quyền của mình báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Tùy theo lĩnh vực pháp luật bị vi phạm mà phân biệt các loại tố cáo khác nhau. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tái phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo qui định của pháp luật về tố tụng hình sự (khoản 3 Điều 31 Luật Tố cáo). Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo qui định của pháp luật về tố tụng hình sự (Khoản 2 Điều 3 Luật Tố cáo). Như vậy, trong tố tụng hình sự, tố cáo hành vi phạm tội được gọi là tố giác về tội phạm. Đây chính là việc thuộc nội dung khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt nhất định. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm, còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm, có thể cấu thành tội phạm đã được qui định trong Bộ luật hình sự. Do đó, có thể nói, khái niệm tố cáo rộng hơn và cơ bản đã bao hàm cả khái niệm tố giác tội phạm theo luật tố tụng hình sự. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này là: Tố cáo là quyền công dân, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật về tố giác tội phạm thì phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công dân có quyền quyết định việc mình sẽ tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp luật, nhưng bắt buộc phải tố 4 Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 7 giác nếu đã biết rõ về một tội phạm đang chuẩn bị hoặc sẽ được thực hiện. Công dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Không tố giác tội phạm” theo qui định tại Điều 314 Bộ luật hình sự, nếu biết mà không tố giác tội phạm. Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, theo từ điển luật học giải thích: “Tố giác về tội phạm là báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền biết hành vi phạm tội của một người nào đó”5; “Tin báo về tội phạm là thông tin về tội phạm do cơ quan, tổ chức cung cấp dùng làm cơ sở để khởi tố vụ án hình sự”6. Thực trạng lập pháp tố tụng hình sự qui định về tố giác, tin báo về tội phạm từ năm 1988 đến nay cho thấy: Theo Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 qui định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1.Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3.Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng…”, tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự qui định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức… cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được đơn tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra…” Tại Thông tư liên ngành số 03/TT-LN ngày 15/5/1992 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Bộ Quốc phòng - Bộ lâm nghiệp - Tổng cục Hải Quan. (Sau đây viết tắt là Thông tư liên ngành số 03) hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đã nêu:“Tin báo và tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự do công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ quan, tổ chức) cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc cho người phạm tội tự thú”. Khái niệm này có những điểm chưa phù hợp, chưa nêu và phân biệt giữa 5 6 Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 785 và 765. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 785 và 765. 8 tố giác và tin báo về tội phạm. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành không quy định thế nào là tố giác, tin báo về tội phạm. Đến khi liên ngành Trung ương ban hành Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT), tại Điều 3 về giải thích từ ngữ, các khái niệm tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm được hiểu như sau: 1- Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận giải quyết. 2- Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm giải quyết. Từ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự, có thể thấy rằng về hình thức của khái niệm tố giác về tội phạm, tin báo về tội phạm đều là những nguồn thông tin thuộc một trong những nội dung quan trọng để xác định dấu hiệu tội phạm, mà các cơ quan tiến hành tố tụng nắm được thông tin qua các chủ thể khác nhau. Chúng còn giống nhau ở chỗ đều là những nguồn thông tin ban đầu về tội phạm mang tính chủ quan theo suy nghĩ của chủ thể đưa ra thông tin, tức là họ cho rằng, có hành vi nào đó đã xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra có dấu hiệu tội phạm, hay có người nào đó đã thực hiện, đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Những nguồn thông tin này hầu hết chưa được kiểm chứng về tính xác thực và khách quan, những chứng cứ đưa ra chưa mang tính pháp lý, cần phải qua quá trình tiến hành kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền thì mới có cơ sở kết luận hành vi nào có dấu hiệu tội phạm và người thực hiện hành vi đó có dấu hiệu phạm tội hay không, hay chỉ là quan hệ hành chính, quan hệ 9 kỷ luật hoặc quan hệ dân sự. Ngoài ra, tố giác và tin báo về tội phạm đều có chung trình tự, thủ tục giải quyết theo Điều 103, Bộ luật Tố tụng hình sự. Vậy, vì sao Bộ luật Tố tụng hình sự lại đặt tên gọi khác nhau và phân biệt thành các khái niệm khác nhau là dựa vào tiêu chí nào và nhằm mục đích gì? Một là, tiêu chí để phân biệt khái niệm tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm là yếu tố chủ thể. Về khái niệm “tố giác tội phạm” chủ thể của tố giác là “công dân” (Khoản 1, Điều 100 và Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự), nhưng tại Khoản1, Điều 103 và Khoản 3, Điều 108, Bộ luật Tố tụng hình sự thì lại qui định là “cá nhân”. Theo chúng tôi thì luật cần phải qui định thống nhất bởi hai khái niệm này có nội hàm khác nhau, khái niệm “công dân” theo Hiến pháp và Luật Quốc tịch là người có quốc tịch Việt Nam, còn khái niệm “cá nhân” tuy chưa định nghĩa trong văn bản quy phạm pháp luật nhưng theo cách hiểu truyền thống và trong giáo trình giảng dạy môn Luật Hành chính của các cơ sở đào tạo luật trong nước, cũng như trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đều hiểu và sử dụng khái niệm “cá nhân” theo nghĩa bao gồm: công dân (người có quốc tịch Việt Nam), người nước ngoài (người không có quốc tịch Việt Nam, nhưng có một hoặc nhiều quốc tịch nước khác), người không quốc tịch (không có quốc tịch bất cứ một nước nào). Như vậy, khái niệm “cá nhân” có nội hàm rộng hơn khái niệm “công dân”, ở Việt Nam, ngoài công dân Việt Nam, còn có cả người nước ngoài, người không quốc tịch sinh sống, học tập và làm việc, họ cũng có quyền phát hiện và tố giác những hành vi vi phạm pháp luật mà họ cho là dấu hiệu tội phạm để bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình, cũng như của các chủ thể khác. Do đó, luật nên sử dụng khái niệm “cá nhân” là hợp lý nhất, tránh tình trạng có ý kiến cho rằng chỉ có “công dân” tức người có quốc tịch Việt Nam mới có quyền tố giác tội phạm. Có thể khẳng định, chủ thể của “tố giác tội phạm” chỉ là “cá nhân”; người tố giác về tội phạm có thể với bất cứ cơ quan, tổ chức nào; việc tố giác có thể thực hiện bằng miệng (trong trường hợp này cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản có chữ ký người tố giác), qua điện thoại, mạng Internet hoặc gởi đơn thư dưới dạng trình báo, phản ánh, phát giác… 10 Về khái niệm “tin báo về tội phạm” theo quy định tại Khoản 23 Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chủ thể của tin báo về tội phạm chỉ là “cơ quan, tổ chức” mà không quy định cá nhân là chủ thể của tin báo về tội phạm, mặc dù trong thực tiễn cá nhân vẫn có thể cung cấp thông tin dưới dạng là tin báo cho cơ quan pháp luật hoặc cơ quan nhà nước khác, nhưng ở đây cần hiểu bản chất của tin báo do cá nhân cung cấp là tố giác tội phạm. Như trên đã nêu, chủ thể của tin báo về tội phạm là “cơ quan, tổ chức”; “cơ quan, tổ chức” ở đây cần được hiểu là bất cứ cơ quan, tổ chức nào, có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp …; chủ thể là cơ quan, tổ chức có thể trực tiếp phát hiện tội phạm hoặc việc tiếp nhận tố giác của cá nhân và phải báo tin đến Cơ quan điều tra theo hai hình thức: bằng văn bản (Đoạn 2 Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự) hoặc có thể đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng nếu là cơ quan báo chí. Theo quy định tại Khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT thì các cơ quan, tổ chức gồm: Công an xã, phường, thị trấn, đồn, trạm Công an; Tòa án; Cơ quan báo chí; các cơ quan tổ chức khác sau khi nhận được tố giác về tội phạm có trách nhiệm báo ngay tin đã nhận được cho Cơ quan điều tra bằng văn bản. Trường hợp khẩn cấp có thể báo tin trực tiếp hoặc qua điện thoại và các hình thức liên lạc khác nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản. Như vậy, đối với tin báo được các cơ quan báo chí đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng do có nhược điểm là không phải lúc nào Cơ quan điều tra cũng biết được, nếu biết thì cũng không thể hoặc không buộc phải thụ lý, giải quyết vì chưa thể xác định đây có phải là tin báo về tội phạm hay không, hay chỉ là những bài báo phản ánh các vụ việc trong xã hội nói chung; trừ trường hợp cơ quan báo chí chủ động liên hệ với Cơ quan điều tra cung cấp thông tin về vụ việc có tội phạm thì những thông tin là tin báo về tội phạm và cơ quan điều tra buộc phải thụ lý giải quyết. Hai là, mục đích của việc phân biệt trên là để xác định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tương ứng với mỗi khái niệm. Tố giác tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ buộc phải thực hiện của bất cứ công dân hoặc cá nhân nào, có nghĩa là, khi công dân hoặc cá nhân biết rõ hành vi 11 hoặc người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì không ai có quyền cấm họ không được tố giác, nhưng nếu họ không thực hiện nghĩa vụ tố giác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “không tố giác tội phạm” theo Điều 314, Bộ luật Hình sự. Người tố giác tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra (Khoản 2, Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình sự); người tố giác tội phạm không đúng sự thật cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý, tức là họ có thể báo những thông tin chủ quan, nhất thời, thiếu căn cứ, thậm chí là thông tin thất thiệt, nhưng pháp luật không buộc họ phải chịu trách nhiệm. Gửi tin báo vê tội phạm là nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức (Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự), nhưng nếu cơ quan, tổ chức không thực hiện nghĩa vụ này thì luật chưa quy định trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể này phải gánh chịu. Chỉ riêng đối với chủ thể là cơ quan nhà nước thì “Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không thông báo hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình” (Khoản 1, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự). Đây là quy định chung mang tính nguyên tắc, cơ quan, tổ chức báo tin về tội phạm cũng có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án (Khoản 2, Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình sự). Ba là, xét về bản chất, tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền, tin báo về tội phạm là việc cơ quan, tổ chức thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm với các cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận được các thông tin về tội phạm từ các phương tiện đại chúng. Như vậy, tố giác và tin báo về tội phạm đều là những hành vi, việc làm mang tính tích cực của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, thể hiện trách nhiệm của các chủ thể trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, không thể xem đây là những “thông tin đơn thuần” theo Điều 3 Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT giải thích tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm đều là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm”, nên chưa nêu rõ bản chất hành vi của các chủ thể thực hiện việc tố giác, tin báo về tội phạm. Đối với khái niệm tố giác về tội phạm thông tư quy định điều kiện về chủ thể thực hiện là “cá nhân đối với danh tính, địa chỉ rõ ràng” điều này 12 có thể hiểu đối với cá nhân mà không có ghi danh tính, địa chỉ rõ ràng thì những thông tin của họ về hành vi có dấu hiệu tội phạm thì không được xem là tố giác về tội phạm. Việc quy định này tạo nên cách hiểu máy móc trong thực tiễn, không phù hợp và tương đồng với nhiều đạo luật khác, khi quy định việc thực hiện quyền của cá nhân thì không có quy định về các điều kiện mang tính hạn chế việc thực hiện quyền của chủ thể. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về tố giác và tin báo về tội phạm như sau: -Tố giác tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm hoặc người phạm tội với cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. -Tin báo về tội phạm là việc cơ quan, tổ chức thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết hoặc cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận được các thông tin về tội phạm từ các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, cần phải phân biệt nguồn thông tin về tội phạm và nguồn tố giác tin báo về tội phạm. Trong tố tụng hình sự, những thông tin về tội phạm được tiếp nhận, thu thập ở các giai đoạn từ các nguồn và bằng những biện pháp theo luật định. Nguồn tố giác, tin báo về tội phạm là một trong những nguồn thông tin chính, đầu tiên về tội phạm được một quy định là cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án. Trên cơ sở, các đặc điểm của tố giác, tin báo về tội phạm đã phân tích, theo chúng tôi, có thể xác định các nguồn thông tin về tội phạm sau đây được gọi là nguồn tố giác, tin báo về tội phạm: 1- Do cá nhân trực tiếp đến Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra để tố giác và báo tin về tội phạm, 2- Tin báo của cơ quan nhà nước, tổ chức; 3- Tin báo qua phản ánh trên các thông tin đại chúng như báo, đài …; 4- Người phạm tội tự thú. Đối với nguồn thông tin về tội phạm, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm, theo chúng tôi, đây chính 13 là nguồn thông tin về tội phạm nói chung và cũng là một trong những nguồn thông tin đầu tiên về tội phạm được quy định là cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án. Nguồn thông tin này thường có tính chất bí mật nghiệp vụ, thuộc về các chuyên án của Cơ quan điều tra trong giai đoạn chưa phá án (nhất là loại án an ninh quốc gia, ma túy,…) cho nên, Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra để kiểm sát việc xử lý thông tin này, đảm bảo việc chuyển hóa các tài liệu trong giai đoạn điều tra trinh sát, bí mật sang tài liệu, chứng cứ của giai đoạn điều tra công khai đúng luật định. Việc phân biệt như trên có ý nghĩa quan trọng trong công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. 1.1.2. Khái niệm kiến nghị khởi tố Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “kiến nghị” được hiểu là: “nêu ý kiến đề nghị một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét”; “yêu cầu” là: “nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”7. Hai thuật ngữ này đều có chung là đề nghị một cơ quan, một người nào đó làm một việc thuộc nhiệm vụ và trách nhiệm, khả năng của họ. Trên bình diện pháp lý, khái niệm kiến nghị khởi tố mới được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, mà trước đó pháp luật tố tụng hình sự chưa đề cập. Theo chúng tôi, kiến nghị khởi tố là quyền của cơ quan nhà nước, tổ chức thể hiện bằng văn bản kiến nghị gửi đến Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý tội phạm và người phạm tội nào đó. Kiến nghị khởi tố là một dạng đặc biệt của tin báo về tội phạm (tuy nhiên kiến nghị khởi tố không quy định là cơ sở xác định dấu hiệu tội phạm tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bộ luật Tố tụng hình sự quy định tất cả cơ quan nhà nước đều có quyền kiến nghị khởi tố: “Các cơ quan Nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mọi 7 Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ Điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 14 hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong việc quản lý của mình; có quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người có hành vi “phạm tội” (Khoản 1, Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự). Về chủ thể của quyền kiến nghị khởi tố hiện nay có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước qua công tác kiểm tra, thanh tra phát hiện có hành vi phạm tội, hành vi có dấu hiệu tội phạm và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội”8. Quan điểm này xác định chủ thể của kiến nghị khởi tố là tất cả cơ quan nhà nước và qua công tác kiểm tra, thanh tra phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm mới có kiến nghị khởi tố. Quan điểm khác cho rằng: Ngoài cơ quan nhà nước thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, còn cơ quan Tòa án thông qua công tác xét xử cũng có quyền kiến nghị khởi tố9; bởi vì đối với Tòa án kiến nghị khởi tố được thể hiện bằng văn bản “Yêu cầu khởi tố” của Hội đồng xét xử. Khoản 1, Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”. Quy định này là sự thay đổi cách xử lý thông tin của cơ quan xét xử, thể hiện ở chỗ không phải Tòa án nói chung mà chính là Hội đồng xét xử thông qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện tội phạm thì có hai cách xử lý: ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT ngày 2/8/2013 về hướng dẫn thi hành quy định Bộ luật tố tụng hình sự , tại Khoản 3, Điều 3 quy định như sau: kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét khởi tố vụ án hình sự”. Theo quy định này thì xác định chủ thể của thực hiện việc kiến nghị khởi tố Quyết định số 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSNDTC. 9 Lê Ra (2012), “Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, (20), tr36. 8 15 là tất cả cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền kiến nghị khởi tố vụ án hình sự. Theo quan điểm chúng tôi cho rằng, căn cứ quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chủ thể có quyền kiến nghị khởi tố là “cơ quan nhà nước”, nhưng không phải cơ quan nhà nước nào cũng có quyền này, đây chỉ là một quy định mang tính nguyên tắc chung. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-VKSTC-TTrCP-BCABQP ngày 23/5/2006 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ công an và Bộ quốc phòng, Thông tư này hiện nay được thay thế bằng Thông tư số 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP ngày 22/3/2012, quy định về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố (Sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 03) thì chỉ có cơ quan thanh tra trong các cơ quan nhà nước mới có quyền “kiến nghị khởi tố”. Sở dĩ luật quy định như vậy là vì quyền thông tin về tội phạm theo kiến nghị khởi tố của cơ quan thanh tra thường là có cơ sở hơn, do đã qua quá trình xác minh, làm rõ theo những trình tự, thủ tục, chặt chẽ của pháp luật về thanh tra; chính vì thế mà đối với “kiến nghị khởi tố”, ngoài những quy định mang tính nguyên tắc chung về nhiệm vụ giải quyết theo Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì còn được quy định riêng trong Thông tư liên tịch về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ có dấu hiệu tội phạm cho Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố. Như vậy, những kiến nghị xử lý về tội phạm của các “cơ quan nhà nước” mà không phải là trên cơ sở do hoạt động thanh tra việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao mà phát hiện các hành vi có dấu hiệu tội phạm và kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền xử lý thì không phải là “kiến nghị khởi tố”, mà được coi là việc báo tin về tội phạm và được hiểu đồng nghĩa với khái niệm “lên báo về tội phạm”. Điều này cho phép phận định rõ chủ thể của kiến nghị khởi tố là cơ quan nhà nước trong tố tụng hình sự. Kiến nghị khởi tố là quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước; trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra mà phát hiện dấu hiệu tội phạm thì cơ quan đó 16 phải kiến nghị khởi tố, nếu không thực hiện thì Thủ trưởng cơ quan, Trưởng đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (Điều 7, Luật Thanh tra), đây là quy định mang tính nguyên tắc; nếu không đồng ý với quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, thì cơ quan thanh tra có quyền kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên (Khoản 1, Điều 6 Thông tư liên tịch 2). Ngoài công tác thanh tra trong các cơ quan nhà nước, thì công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ trong mỗi cơ quan nhà nước và tổ chức là việc làm thường xuyên, nên khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm qua kiểm tra kết luận thì Thủ trưởng cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý theo pháp luật. Về lý luận, cần phải phân biệt chủ thể của quyền kiến nghị khởi tố và tin báo về tội phạm. Chủ thể của quyền kiến nghị khởi tố không phải bất kỳ là các cơ quan nhà nước và tổ chức nói chung đều có quyền kiến nghị khởi tố, bởi vì các cơ quan nhà nước, tổ chức có thể là chủ thể của tin báo về tội phạm hoặc của kiến nghị khởi tố10, cần phân biệt là: cơ quan nhà nước, tổ chức là chủ thể của kiến nghị khởi tố trong trường hợp qua công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì thu thập hồ sư, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị khởi tố gởi đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án, cơ quan nhà nước là chủ thể tin báo về tội phạm trong trường hợp thông qua công tác quản lý hoặc công tác khác, phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét giải quyết. Sự phân biệt này là tương đối rõ ràng, có căn cứ thuyết phục bởi lẽ các tiêu chí đưa ra với nội hàm, mang tính chất cụ thể. Do đó, phân biệt trường hợp nào cơ quan nhà nước, tổ chức là chủ thể kiến nghị khởi tố, trường hợp nào là chủ thể của tin báo về tội phạm. Điều này cũng phù hợp theo Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự, về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Báo cáo công tác kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tr.9. 10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan