TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
NGÔ MINH NHÀN
CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG THEO
PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG THEO
PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGÔ MINH NHÀN
KHÓA: 42 MSSV: 1753801011134
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. LÊ VĂN TRANH
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Lê Văn Tranh, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích về tài liệu tham khảo. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Ngô Minh Nhàn
i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
CISG
Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc
tế năm 1980
LTM
Luật Thương mại
Nxb.
Nhà xuất bản
ii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ PHẠT VI PHẠM TRONG PHÁP
LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế tài phạt vi phạm trong pháp
luật thương mại Việt Nam
7
1.1.1. Khái niệm chế tài phạt vi phạm trong thương mại
7
1.1.2. Đặc điểm của chế tài phạt vi phạm trong thương mại
9
1.1.3. Ý nghĩa của chế tài phạt vi phạm trong thương mại
12
1.2. Quy định về chế tài phạt vi phạm trong Luật Thương mại năm 2005 14
1.2.1. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm
14
1.2.2. Mức phạt vi phạm
17
1.2.3. Các trường hợp miễn trách nhiệm
19
1.2.4. Mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm với các chế tài thương mại khác
22
1.3. Quy định của pháp luật nước ngoài về chế tài phạt vi phạm trong
thương mại
24
1.3.1. Hệ thống pháp luật Thông luật (Common Law)
24
1.3.2. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law)
27
1.3.3. Các điều ước quốc tế
29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT, MỘT SỐ VƯỚNG
MẮC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
32
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật và một số vướng mắc về chế tài phạt vi
phạm
32
2.1.1. Thực trạng và vướng mắc trong việc áp dụng quy định về mức phạt vi
phạm và căn cứ để xác định giá trị phần phạt vi phạm
32
2.1.2. Thực trạng và vướng mắc trong vấn đề can thiệp, điều tiết của cơ quan
tài phán đối với thỏa thuận phạt vi phạm
40
2.1.3. Một số vướng mắc khác trong quy định của pháp luật thương mại về chế
tài phạt vi phạm
44
iii
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm
48
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định về mức phạt vi phạm và căn cứ để xác
định giá trị phần phạt vi phạm
48
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền can thiệp, điều tiết của cơ quan
tài phán đối với thỏa thuận phạt vi phạm
52
2.2.3. Một số kiến nghị khác
54
KẾT LUẬN
57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
iv
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau 35 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hòa cùng với xu thế toàn cầu hóa
diễn ra nhanh và mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, tại nước ta các hoạt động thương
mại ngày càng nở rộ với nhiều hình thức khác nhau với phương thức chủ yếu là thông
qua việc xác lập các hợp đồng trong thương mại. Cùng với đó xuất hiện ngày càng
nhiều những trường hợp vi phạm từ các bên trong quan hệ hợp đồng đã trực tiếp hoặc
gián tiếp làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bị vi phạm. Trên cơ sở đó, nhằm đảm
bảo thực hiện những cam kết, thỏa thuận đã đặt ra giữa các bên cũng như có thể khắc
phục được những thiệt hại tổn thất có thể xảy ra khi có hành vi vi phạm hợp đồng
thương mại thì các chế tài đối với hành vi vi phạm hợp đồng cũng ngày càng được
hoàn thiện trong pháp luật thương mại của Việt Nam.
Có thể nói, Luật Thương mại (LTM) năm 2005 là văn bản pháp luật chuyên
ngành quy định những vấn đề trong việc điều chỉnh quan hệ phát sinh trong các hoạt
động thương mại giữa các chủ thể. Trong số những vấn đề được quy định, LTM năm
2005 đã xây dựng một hệ thống các quy định về các chế tài thương mại tương đối
hoàn chỉnh. Đó là sự giao thoa, dựa vào đặc điểm riêng của kinh tế - xã hội Việt Nam
và tiếp thu kinh nghiệm từ các hệ thống pháp luật nổi bật trên thế giới xoay quanh
vấn đề về chế tài. Trong số các loại chế tài thương mại được quy định, chế tài phạt vi
phạm được xem như là một sự chủ động của các bên đối với quan hệ hợp đồng trong
thương mại. Chế tài này đã và đang thật sự phổ biến, xuất hiện ngày càng nhiều trong
các hợp đồng trong thương mại, góp phần làm cho hợp đồng được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên trước các hành vi vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết thực hiện trong hợp đồng. Tuy nhiên, qua quá trình hơn
15 năm áp dụng LTM năm 2005 và đặc biệt là quy định về chế tài phạt vi phạm trong
luật này đã cho thấy những hạn chế, vướng mắc trong quy định. Thực tiễn áp dụng
các quy định về chế tài phạt vi phạm vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Điều
này cho thấy quy định về chế tài phạt vi phạm là một vấn đề khá phức tạp, ảnh hưởng
không nhỏ đến quyền và lợi ích giữa các bên trong quan hệ hợp đồng và việc giải
quyết các tranh chấp thương mại tại các cơ quan tài phán. Việc pháp luật tồn tại những
bất cập, vướng mắc về chế tài phạt vi phạm có thể làm quyền và lợi ích của các bên
trong hợp đồng bị xâm phạm nếu không được bảo vệ một cách hiệu quả thông qua
các quy định của pháp luật
1
Chính thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu nghiên cứu một cách toàn diện và sâu
sát đối với vấn đề về chế tài phạt vi phạm trong pháp luật về thương mại Việt Nam,
cần có cách hiểu đúng đắn về quy định của pháp luật cũng như nhìn nhận một cách
khách quan thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài phạt vi phạm hiện nay. Qua việc
thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tác giả mong muốn góp một phần nhỏ nhằm làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, cũng như đưa ra một số giải pháp khắc phục
hạn chế đang tồn tại về vấn đề phạt vi phạm theo quy định của pháp luật thương mại
Việt Nam. Với tinh thần đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Chế tài phạt vi phạm theo
pháp luật thương mại Việt Nam” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả đã tiến hành tổng hợp các
công trình nghiên cứu có liên quan từ nhiều nguồn khác nhau. Trong số đó có thể kể
đến một số bài viết, công trình nghiên cứu, ấn phẩm nổi bật có liên quan đến chế tài
phạt vi phạm như sau:
- Nguyễn Thị Thùy Mỵ (2009), Phạt vi phạm theo pháp luật Việt Nam, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Võ Thị Ngọc Hạnh
(2014), Chế tài phạt vi phạm theo pháp luật thương mại Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thế Đức Tâm (2015),
Chế tài phạt vi phạm thương mại từ góc nhìn quản trị và Luật So sánh, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Mai Thị Thảo (2019), Chế tài
phạt vi phạm theo quy định của Luật Thương mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh: Khóa luận tốt nghiệp của các tác giả
trên đã phân tích và diễn giải chế tài phạt vi phạm ở nhiều góc độ khác nhau, có nhiều
cái nhìn đa dạng trong việc đi sâu làm rõ những vướng mắc của quy định này. Bên
cạnh đó, đối với riêng đề tài khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thế Đức Tâm
là một bước nghiên cứu mới mẻ, mở ra những hướng đi tích cực trong việc tìm hiểu
và vận dụng các quy định của pháp luật nước ngoài trong việc hoàn thiện quy định
về chế tài phạt vi phạm trong pháp luật thương mại Việt Nam.
- Đỗ Văn Đại (2018), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án (tập
2), Nhà xuất bản (Nxb.) Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam: Tác giả tập trung nghiên
cứu, phân tích và bình các vấn đề quy định về hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
thông qua việc tìm hiểu các bản án thực tế. Trong ấn phẩm này, tác giả dành một dung
lượng tương đối để phân tích về các chế tài trong thương mại trong đó có chế tài phạt
vi phạm.
2
- Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo
Luật Thương mại Việt Nam, Nxb. Tư pháp: Tác giả đã tập trung phân tích một cách
chuyên sâu hai chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, đồng thời tác giả cũng
đã nêu ra những quan điểm của mình trong việc nhận xét, kiến nghị hoàn thiện những
bất cập, vướng mắc của pháp luật đặc biệt là đối với chế tài phạt vi phạm.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật
về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam: Giáo
trình cung cấp những kiến thức cơ bản về pháp luật thương mại Việt Nam, trong đó
có đề cập đến việc phân tích các vấn đề liên quan đến chế tài phạt vi phạm.
- Một số công trình nghiên cứu khác của các học giả nước ngoài như: Lucinda
Miller (2004), “Penalty Clause in England and France: A Comparative Study”,
International and Comparative Quarterly, số 53; Tadas Klimas (2008), “A
comparative analysis of Lake River: The true attitude of the Continental Law towards
penalties, Annual Journal of the Faculty of Law of the University Estacio de Sa, Rio
de Janeiro, Brazil, số 11: Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu
phân tích chế tài phạt vi phạm thông qua việc chỉ ra những sự khác biệt trong quy
định giữa pháp luật của các quốc gia Thông luật và Dân luật.
- Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan đến chế tài phạt vi phạm được
đăng tải trên các ấn phẩm tạp chí về pháp luật nổi tiếng như: Dương Anh Sơn, Lê Thị
Bích Thọ (2005), “Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định
của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 1/2005; Nguyễn Việt Khoa
(2011), “Chế tài phạt vi phạm theo Luật Thương mại năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 14/2011; Đồng Thái Quang (2014), “Chế tài phạt vi phạm theo Luật
Thương mại 2005 – một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 20/2014; Thanh Huyền (2017), “Phạt vi phạm trong kinh doanh thương mại”,
Tạp chí Kiểm sát, số 04/2017; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2017), “Bản chất pháp lý
của thỏa thuận trước về việc trả một khoản tiền xác định khi có hành vi vi phạm hợp
đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 (107)/2017; Nguyễn Thế Đức Tâm (2017),
“Chế tài phạt vi phạm dưới góc độ kinh tế học pháp luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
số 23/2017; Đinh Văn Cường (2020), “Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng và mối quan hệ giữa hai chế tài”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 03/2020,… và
nhiều bài viết trên các trang thông tin điện tử, tạp chí điện tử khác.
Như vậy, cho đến nay đã có khá nhiều đề tài, bài viết tạp chí chuyên ngành đã
nghiên cứu về chế tài phạt vi phạm. Các tài liệu này cung cấp nhiều vấn đề lý luận và
3
thực tiễn cũng như nhiều góc nhìn và quan điểm pháp lý khác nhau về vấn đề này.
Đây là những tài liệu rất hữu ích để tác giả tham khảo và hoàn thiện khóa luận tốt
nghiệp.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề sau
đây:
Thứ nhất, khóa luận phân tích dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với quy định của
pháp luật thương mại Việt Nam để làm rõ các vấn đề liên quan đến khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa các quy định của LTM Việt Nam hiện hành về chế tài phạt vi phạm.
Thứ hai, khóa luận liên hệ với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy
định về chế tài phạt vi phạm. Từ đó có cái nhìn khái quát nhất về pháp luật của các
quốc gia cũng như kinh nghiệm làm luật, làm tiền đề cho những kết luận tiếp theo về
việc đề xuất các vấn đề hoàn thiện hơn quy định này.
Thứ ba, khóa luận tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng chế tài
phạt vi phạm trong thương mại từ đó nên ra được những vướng mắc, khó khăn hiện
nay trong việc áp dụng chế tài này theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, khoá luận đưa ra một số kiến nghị về áp dụng và hoàn thiện pháp luật,
nhằm tạo cơ sở để áp dụng chế tài phạt vi phạm cũng như giải quyết những tranh chấp
thương mại có liên quan một cách linh hoạt và hiệu quả nhưng vẫn bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Chế tài phạt vi phạm là một vấn đề pháp lý khá rộng, đây là chế tài về trách
nhiệm chung đối với các hợp đồng về dân sự nên BLDS năm 2015 đã có những quy
định đề cập về vấn đề này. Ngoài ra không chỉ giới hạn trong khuôn khổ BLDS, chế
tài phạt vi phạm còn được quy định ở các văn bản luật chuyên ngành khác nhau như
LTM năm 2005; Luật Xây dựng năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020,… Trong
những văn bản luật khác nhau, chế tài phạt vi phạm được quy định một cách cụ thể
cơ bản vẫn theo tinh thần chung của BLDS từ năm 2005 đến nay. Tuy vậy các quy
định vẫn có những khác biệt nhất định. Đề tài với một phạm trù rộng, vì thế trong
giới hạn phạm vi khóa luận tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý
nổi bật về chế tài phạt vi phạm trong LTM năm 2005 của Việt Nam. Bên cạnh đó để
làm sáng tỏ vấn đề thì đề tài đã có những liên hệ với quy định tại BLDS 2015 để làm
rõ hơn về những quy định chung và có cái nhìn so sánh giữa quy định chung và riêng
liên quan đến vấn đề phạt vi phạm. Song song với mục đích đó, đề tài cũng dành một
4
phần dung lượng để nghiên cứu phân tích các quy định của pháp luật nước ngoài về
chế tài phạt vi phạm. Do giới hạn phạm vi khóa luận, tác giả chỉ tập trung phân tích
những quy định về phạt vi phạm trong LTM, nội dung chính liên quan đến hợp đồng
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (không bao gồm hợp đồng dịch vụ giám định
và hợp đồng xây dựng).
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài sử dụng và phối hợp một cách linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua đó, tác giả có thể đưa ra được cách nhìn
nhận khách quan, toàn diện, tránh phiến diện, chủ quan, thể hiện tư duy nhận thức
pháp luật và thực tiễn, cụ thể như sau:
− Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng linh hoạt trong việc
nghiên cứu các các vấn đề lý luận chung ở Chương 1 và thực trạng, vướng mắc của
pháp luật ở Chương 2. Phương pháp này nhằm làm rõ các quan điểm pháp lý, quy
định pháp luật; qua đó hình thành các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế tài phạt
vi phạm một cách rõ ràng, chính xác; làm rõ bản chất từng quy định pháp luật, điều
kiện áp dụng.
− Phương pháp so sánh – đối chiếu: được sử dụng để so sánh giữa pháp luật
thương mại Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử nhằm làm rõ sự tương quan, có cái
nhìn so sánh giữa luật chung và luật chuyên ngành, so sánh giữa pháp luật Việt Nam
và pháp luật các nước trên thế giới như: Pháp, Hoa Kỳ,… về quy định của chế tài
phạt vi phạm được thực hiện ở Chương 1; so sánh làm rõ những điểm khác nhau và
giống nhau trong thực tiễn áp dụng của Toà án thông qua các bản án cũng như các
quan điểm của các nhà nghiên cứu với quy định của pháp luật hiện hành về chế tài
phạt vi phạm, từ đó rút ra giải pháp để khắc phục những vướng mắc, bất cập của quy
định hiện hành trong Chương 2.
− Phương pháp suy luận – logic: được sử dụng trong toàn bộ khóa luận, giúp
tiếp cận các quan điểm, thông tin liên quan có được trong quá trình đánh giá các ý
kiến của các tác giả, chuyên gia, các quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết
các vụ việc liên quan. Ngoài ra, phương pháp này còn giúp liên kết, xâu chuỗi các lập
luận, thông tin trong các tài liệu tham khảo và thực tiễn. Qua đó, tác giả có thể đưa ra
những nhận định đúng đắn cho các đề xuất của mình.
5
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận được
kết cấu thành hai chương, bao gồm:
Chương 1: Khái luận chung về phạt vi phạm trong pháp luật thương mại Việt
Nam;
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật, một số vướng mắc và kiến nghị hoàn
thiện.
6
CHƯƠNG 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ PHẠT VI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế tài phạt vi phạm trong pháp
luật thương mại Việt Nam
1.1.1. Khái niệm chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Điều 300 LTM năm 2005 quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng
có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm…”.
Về nguyên tắc, phạt vi phạm là một biện pháp chế tài trong LTM 2005 của
Việt Nam. Về lý luận, chế tài được hiểu là một trong những biện pháp quan trọng để
đảm bảo cho các quy định của pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Chế tài là một
biện pháp trừng phạt mà các chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật1. Chế tài theo định nghĩa được nêu trong Từ điển Tiếng Việt đó là
“Biện pháp cưỡng chế nhà nước có thể được áp dụng nhằm đảm bảo việc thực hiện
các quy định của pháp luật”2. Phạt vi phạm là chế tài tiền tệ nhằm trừng phạt, phòng
ngừa vi phạm hợp đồng giữa các bên, đảm bảo sự lành mạnh trong quan hệ hợp đồng3.
Chế tài phạt vi phạm mang tính chất dân sự nhiều hơn và không mang tính chất cưỡng
chế can thiệp của nhà nước cho đến khi phát sinh tranh chấp. Chế tài phạt vi phạm là
một dạng trách nhiệm vật chất bất lợi được đặt ra để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng
theo thỏa thuận giữa các bên được thực hiện một cách nghiêm túc. Bất kỳ hành vi vi
phạm hợp đồng nào nếu có thỏa thuận đều bị áp dụng chế tài này bởi bên bị vi phạm.
Thỏa thuận về chế tài phạt vi phạm là một thỏa thuận dân sự, vì thế thỏa thuận
phạt vi phạm phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của một thỏa thuận dân
sự theo quy định của BLDS hiện hành4. Việc có thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp
đồng là một điều kiện tiên quyết để các chủ bên có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về vấn đề phạt vi phạm trong hợp đồng,
nếu có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra thì sẽ không được quyền yêu cầu phạt vi
phạm5.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. CAND Hà Nội, tr. 391.
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.50.
3
Thanh Huyền (2017), “Phạt vi phạm trong kinh doanh thương mại”, Tạp chí Kiểm sát, số 04/2017, tr.44.
4
Điều 117 BLDS năm 2015
5
Vấn đề này sẽ được giải thích cụ thể tại Mục 1.2 của khóa luận.
1
2
7
Nếu như thỏa thuận về vấn đề phạt vi phạm là một điều kiện cần tiên quyết
của việc áp dụng chế tài này thì việc có hành vi vi phạm hợp đồng của các bên được
xem là điều kiện đủ để phát sinh yêu cầu phạt vi phạm. Theo Đại từ điển Tiếng Việt,
“Hành vi là cách cư xử trong một hoàn cảnh nhất định được biểu thị bằng lời nói, cử
chỉ, hành động nhất định”6, “Vi phạm là làm trái các quy định”7. Khoản 12 Điều 3
LTM năm 2005 cũng đưa ra định nghĩa một cách đầy đủ về vi phạm hợp đồng là việc
một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật Thương mại năm 2005.
Như vậy dấu hiệu của vi phạm hợp đồng là không thực hiện, thực hiện không đúng
hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên không phải bất cứ
hành vi vi phạm hợp đồng nào cũng đều là điều kiện để phát sinh quyền yêu cầu áp
dụng chế tài phạt vi phạm. Điều 294 LTM năm 2005 quy định về các trường hợp
miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Quy định về miễn trách nhiệm này được
xem là một cứu cánh đối với bên vi phạm trong trường hợp họ vi phạm hợp đồng với
nguyên nhân rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định. Bất kỳ hành vi
vi phạm hợp đồng nào nếu chứng minh được thuộc trường hợp miễn trách nhiệm thì
chế tài phạt vi phạm xem như được miễn.
Với quy định trong LTM năm 2005, chế tài phạt vi phạm là một loại chế tài
mang tính chất bổ sung và hoàn toàn độc lập với các loại chế tài khác. Chế tài phạt vi
phạm có chức năng quan trọng trong việc đảm bảo hợp đồng được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh, có tính chất răn đe hạn chế những hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra.
Khi một hành vi vi phạm hợp đồng phát sinh, chế tài phạt vi phạm được xem một một
hình thức trừng phạt đối với bên vi phạm. Điều này rõ ràng phân biệt được giữa tình
chất của chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Đều là những chế tài về tiền tệ,
đều phát sinh do có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra, tuy nhiên đối với chế tài bồi
thường thiệt hại lại mang tính chất bồi thường, khắc phục những tổn thất xảy ra trên
thực tế do hành vi vi phạm gây ra hơn là răn đe, trừng phạt. Một điểm quan trọng nữa
đó là theo quy định của LTM năm 2005, chế tài phạt vi phạm chỉ phát sinh khi có
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng. Còn chế tài bồi thường thiệt hại là một loại
chế tài được áp dụng một cách đương nhiên nếu chứng minh được thiệt hại trên thực
tế.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng chế tài phạt vi phạm trong thương
mại là một loại chế tài được các chủ thể thỏa thuận với nhau trong hợp đồng nhằm
mục đích chủ yếu là đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng được diễn ra đúng thỏa
6
7
Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, tr.781.
Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, tlđd (6), tr.1811.
8
thuận, ngăn ngừa, răn đe và trừng phạt đối với những hành vi vi phạm hợp đồng.
Theo đó, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng sẽ phải phải trả một khoản tiền cho bên bị
vi phạm8.
1.1.2. Đặc điểm của chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Chế tài phạt vi phạm trong thương mại có những đặc trưng pháp lý mang bản
chất của một chế tài dân sự. Tác giả đưa ra năm đặc điểm cơ bản của chế tài phạt vi
phạm trong thương mại cụ thể như sau:
Thứ nhất, chế tài phạt vi phạm là một loại chế tài trong thương mại, được quy
định trong LTM. Đây là một loại chế tài mang tính thỏa thuận, tùy nghi. LTM năm
2005 quy định chỉ phát sinh chế tài phạt vi phạm nếu như trong hợp đồng có thỏa
thuận về loại chế tài này9. “Điều này có ý nghĩa để phân biệt với những trách nhiệm
vật chất ngoài hợp đồng khác”10. Chế tài phạt vi phạm được hình thành trên cơ sở
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng.
Thỏa thuận về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng giữa các bên là một loại thỏa
thuận dân sự, được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng giữa các bên
trong khuôn khổ của pháp luật. Ý chí của các bên trong quan hệ thỏa thuận này hoàn
toàn độc lập. Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên trong việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Có thể thấy chế tài phạt vi phạm được thỏa thuận trong hợp đồng là một loại
nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên đây là một dạng nghĩa vụ dân sự “có điều kiện”, nghĩa
vụ này chỉ phát sinh khi có một bên có hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi áp dụng
chế tài phạt vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng trước đó. Pháp luật thương
mại Việt Nam hiện nay coi phạt vi phạm là một trong những điều khoản của hợp đồng
nhưng không phải là điều khoản bắt buộc11.
Thứ hai, chế tài phạt vi phạm được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng
theo thỏa thuận. Trong điều khoản phạt vi phạm được các bên thỏa thuận sẽ có quy
định về hành vi vi phạm nào mà một khi nó xảy ra, bên vi phạm phải chịu phạt vi
phạm. Điều này có nghĩa rằng không phải bất cứ hành vi vi phạm hợp đồng nào cũng
sẽ bị phạt vi phạm. Ví dụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai thương nhân A
và B có thỏa thuận phạt vi phạm như sau: “Bên A có nghĩa vụ giao hàng với số lượng
Quy định này sẽ bị loại trừ trong “các trường hợp miễn trừ trách nhiệm”, bên cạnh đó về mức phạt, căn cứ
phạt… sẽ được trình bày ở các nội dung sau của khoá luận.
9
Điều 300 LTM năm 2005.
10
Mai Thị Thảo (2019), Chế tài phạt vi phạm theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 9.
11
Thanh Huyền, tlđd(3), tr. 44.
8
9
đúng như đã thỏa thuận. Trong trường hợp giao thiếu hàng, trong vòng năm ngày kể
từ ngày kết thúc đợt giao hàng mà bên A không bổ sung kịp sẽ phải chịu phạt vi phạm
tương đương 8% giá trị phần hàng giao thiếu”. Như ví dụ trên, giả sử A là bên giao
hàng đã giao đầy đủ số lượng hàng như thỏa thuận, tuy nhiên lại chậm trễ hai ngày
so với thỏa thuận về thời gian giao hàng, lúc này mặc dù có thỏa thuận phạt vi phạm
nhưng B không có quyền yêu cầu phạt vi phạm với A. Bởi lý do thỏa thuận phạt vi
phạm chỉ đề cập đến hành vi giao thiếu hàng mới phải chịu phạt chứ không có bất cứ
thỏa thuận phạt nào đối với việc giao hàng chậm trễ.
Pháp luật Việt Nam quy định về hành vi vi phạm hợp đồng cụ thể tại khoản
12 Điều 3 LTM năm 2005 như sau: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực
hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận
giữa các bên hoặc theo quy định của luật này”. Quy định này cũng như những vấn
đề khác liên quan đến quy định về hành vi vi phạm là căn cứ để phạt vi phạm sẽ được
phân tích và làm rõ trong Mục 1.2.1 của khóa luận này.
Thứ ba, chế tài phạt vi phạm là một dạng trách nhiệm vật chất – mang tính tài
sản. “Phạt vi phạm ngoài việc mang những đặc điểm riêng của trách nhiệm hợp đồng
còn có những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự”12. Theo đó, một trong những
đặc điểm nổi bật của trách nhiệm dân sự đó là trách nhiệm dân sự bao giờ cũng là
trách nhiệm tài sản13. Điều 300 LTM năm 2005 quy định bên vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng phải trả một khoản tiền phạt vi phạm do hành vi vi phạm hợp đồng nếu trong
hợp đồng có thỏa thuận. Có thể thấy rằng trách nhiệm vật chất về tài sản trong chế tài
phạt vi phạm là một khoản tiền. Hiện nay có một số quan điểm cho rằng phạt vi phạm
không nhất thiết phải thực hiện bằng tiền. Phạt vi phạm có thể được thay thế bởi một
hình thức khác của tài sản như: vật, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản14. Đây cũng là
một quan điểm phù hợp với quy định của pháp luật về các loại tài sản. Tuy nhiên,
theo quan điểm của tác giả, quy định của pháp luật hiện nay đối với hình thức của
khoản phạt vi phạm là hợp lý. Xét từ góc độ triết học, kinh tế học chính trị Mác Lenin đã nêu rõ rằng “tiền tệ là … vật ngang giá chung cho tất cả hàng hóa…”15.
Tiền là vật ngang giá chung, tất cả các dạng hàng hóa đều có thể được quy ra thành
tiền trong trao đổi. Như vậy suy cho cùng dù phạt vi phạm với bất kỳ hình thức nào
cũng có thể quy ra thành tiền. Do đó việc các nhà lập pháp Việt Nam quy định trách
nhiệm vật chất của phạt vi phạm là tiền là hoàn toàn hợp lý, quy tất cả hình thức trách
Nguyễn Thị Thùy Mỵ (2009), Phạt vi phạm theo pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 20.
13
Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 348.
14
Theo Điều 105 BLDS năm 2015, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
15
Hội đồng trung ương (2004), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lenin, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 131.
12
10
nhiệm làm một tránh được sự rườm rà trong quy định và khó khăn trong thực tiễn áp
dụng.
Thứ tư, chủ thể có quyền áp dụng chế tài phạt vi phạm là bên bị vi phạm. “Chế
tài phạt vi phạm là một dạng trách nhiệm dân sự mà bên vi phạm phải gánh chịu
trách nhiệm trực tiếp với bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”16 (bên bị vi
phạm). Việc áp dụng chế tài này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của bên bị vi phạm
với điều kiện cần là đáp ứng được các quy định về thỏa thuận phạt vi phạm và có
hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Việc áp dụng này là quyền chứ không phải là
nghĩa vụ của bên bị vi phạm. Chế tài phạt vi phạm là một loại chế tài thương mại
khác với các loại chế tài pháp luật khác mang tính quyền lực công của Nhà nước.
Việc áp dụng chế tài này có thể cho phép chúng ta phân biệt được chế tài phạt vi
phạm với các chế tài hành chính, hình sự17. Những loại chế tài công, chủ thể có quyền
áp dụng chỉ là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, việc áp dụng này không những
là quyền mà còn là nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước trong việc xử lý các hành vi
vi phạm các quy định của pháp luật. Chế tài phạt vi phạm một mặt khác với các chế
tài công bởi chủ thể có quyền yêu cầu và áp dụng chế tài là chính các bên trong quan
hệ hợp đồng. Điều này thể hiện sự trách nhiệm trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng chịu
trách nhiệm dân sự với chính bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng chứ không phải
với Nhà nước. Tuy nhiên trong một số trường hợp sự can thiệp của quyền lực Nhà
nước vẫn là một yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm. Việc
yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm của bên bị vi phạm mang tính chất dân sự bình
thường, thiếu tính nghiêm khắc quyền lực. Do đó rất hay gặp phải những cản trở,
không thi hành điều khoản phạt của bên vi phạm. “Trong trường hợp bên bị vi phạm
không tự nguyện thực hiện nghĩa phạt vi phạm, yêu cầu của bên bị vi phạm được bảo
đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước”18. Điều này thông thường
thể hiện thông qua việc chủ thể bị xâm phạm quyền lợi khởi kiện tranh chấp thương
mại ra cơ quan tài phán để giải quyết.
Thứ năm, phạt vi phạm là chế tài thương mại được thỏa thuận nhằm mục đích
đảm bảo tính nghiêm minh trong việc thực hiện hợp đồng, răn đe, trừng phạt đối với
những hành vi vi phạm hợp đồng. Chế tài phạt vi phạm là một loại chế tài hoàn toàn
độc lập, không thể thay thế với các loại chế tài thương mại khác. Hợp đồng được ký
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 328.
17
Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo luật thương mại Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, tr. 15.
18
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd(16), tr. 328 - 329.
16
11
kết dựa trên cơ sở thuận theo ý chí tự nguyện và bình đẳng giữa các bên. Vấn đề thiện
chí trong việc thực hiện hợp đồng được đặt ra như một nguyên tắc nhằm đảm bảo
quyền lợi của các bên luôn được đảm bảo trong quá trình thực hiện hợp đồng. Phạt vi
phạm nhằm đảm bảo tính nghiêm minh trong thực hiện hợp đồng, răn đe đối với các
hành vi vi phạm hợp đồng. Các bên trong hợp đồng phải hết sức cân nhắc những hành
vi của mình, phải hoàn toàn hướng đến mục đích chung trong việc thực hiện hợp đồng
để không vi phạm và bị áp dụng chế tài bất lợi cho bản thân mình.
Một khi có vi phạm hợp đồng xảy ra, chế tài phạt vi phạm áp dụng như một
hình phạt bằng một khoản tiền đối với hành vi vi phạm đó. Đây là một chế tài mang
tính chất răn đe, trừng phạt kịp thời, bảo vệ nhanh chóng quyền lợi của bên bị vi
phạm. So với chế tài bồi thường thiệt hại thì đây cùng là những loại chế tài mang tính
vật chất. Tuy vậy, xét về mục đích thì hai loại chế tài này là hoàn toàn khác nhau.
Phạt vi phạm không mang mục đích khắc phục những thiệt hại tổn thất thực tế mà
hành vi vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm.
1.1.3. Ý nghĩa của chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Chế tài phạt vi phạm trong thương mại có ý nghĩa trước hết đối với các bên
trong quan hệ hợp đồng. Đồng thời quy định này cũng có ý nghĩa nhất định đối với
các cơ quan tài phán như Tòa án, Trọng tài và đối quan hệ thương mại nói chung.
Đối với các bên trong quan hệ hợp đồng: Hợp đồng trong thương mại ghi nhận
về các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện,
tôn trọng lợi ích của nhau và cùng hướng đến lợi ích chung. BLDS năm 2015 nêu rõ
nguyên tắc thiện chí trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự19. Chế tài phạt vi phạm được đặt ra như một biện pháp nhằm răn đe, ngăn chặn
những hành vi vi phạm hợp đồng có thể xảy ra trên thực tế. Từ đó các bên sẽ phải
luôn cân nhắc thật kỹ những hành vi của mình làm sao để tránh những vi phạm và bị
phạt không đáng có. Một khi có hành vi vi phạm xảy ra, chế tài phạt vi phạm như một
biện pháp trừng phạt đối với bên vi phạm đồng thời với đó có thể bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bên bị vi phạm, bù đắp một phần tổn thất, thiệt hại do hành vi vi
phạm gây ra. Việc thỏa thuận về phạt vi phạm như một sự dự liệu trước, tạo một sự
an tâm nào đó cho các bên trong hợp đồng, họ sẽ có tâm thế chủ động trong trường
hợp xảy ra vi phạm không hay về sau. Bên cạnh đó, phạt vi phạm được xem như một
chế tài mang tính thủ tục nhanh, cơ chế thoáng để giải quyết đối với các hành vi vi
phạm hợp đồng. Đối với việc áp dụng chế tài có mối liên quan như bồi thường thiệt
Khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định nguyên tắc trên như sau: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực”.
19
12
hại, việc áp dụng chế tài này cần phải trải qua nhiều bước chứng minh khó khăn về
thiệt hại thực tế xảy ra, việc làm này tương đối mất thời gian, thậm chí nếu việc chứng
minh thiệt hại không thành công thì bên vi phạm hoàn toàn không phải chịu chế tài
bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên đối với phạt vi phạm, chỉ cần có thỏa thuận trong hợp
đồng và có hành vi vi phạm xảy ra thì hoàn toàn có thể áp dụng ngay chế tài này mà
không cần phải chứng minh. Phạt vi phạm góp phần bảo vệ nhanh chóng, kịp thời đối
với quyền lợi của bên bị vi phạm. Tuy thể hiện được những ưu điểm về những vai trò
trên, nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, vấn đề giới hạn mức phạt
của các bên lại phần nào ảnh hướng đến quyền tự do hợp đồng, ảnh hưởng đến tính
răn đe, trừng phạt của chế tài phạt vi phạm. Đây được xem là sự kìm hãm đi phần nào
vai trò của chế tài phạt vi phạm. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần sau của
khóa luận.
Đối với cơ quan tài phán: Ngày nay những tranh chấp thương mại đang diễn
ra khá phổ biến với những hình thức khác nhau. Tranh chấp về việc thực hiện hợp
đồng và nghĩa vụ của các bên chiếm phần lớn trong số những tranh chấp thương mại
nói chung. Chính vì thế vai trò của các cơ quan tài phán hiện nay là Tòa án nhân dân
và Trọng tài là vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp trên. Việc
pháp luật thương mại Việt Nam quy định về chế tài phạt vi phạm đã tạo ra một cơ sở
cho các cơ quan tài phán để giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề này. Dựa
vào những quy định của pháp luật, các cơ quan tài phán sẽ xem xét một cách toàn
diện, có căn cứ để có những phán quyết đúng đắn, bảo vệ được thỏa đáng quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Các cơ quan tài phán cũng dễ dàng
hơn trong việc giải quyết các yêu cầu của đương sự liên quan đến vấn đề phạt vi
phạm, tránh được phần nào tình trạng thiếu thống nhất trong việc xét xử.
Đối với quan hệ thương mại nói chung: Trong môi trường mà các giao dịch
thương mại đang phát triển một cách năng động thì việc duy trì những mối quan hệ
tốt đẹp giữa các đối tác thương mại với nhau là một vấn đề quan trọng đối với các
chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại. Vấn đề đó thể hiện ở sự uy tín, thiện
chí, tận tâm trong quá trình hợp tác giữa các bên. Chế tài phạt vi phạm được quy định
như một biện pháp để đảm bảo các bên luôn giữ vững tinh thần tận tâm hết mực với
những thỏa thuận của mình. Bằng việc thỏa thuận phạt vi phạm, các bên có thể nhận
biết được “tâm ý” của nhau trong việc thực hiện hợp đồng. Nếu một bên cố tình né
tránh việc thỏa thuận phạt vi phạm, điều này phần nào cho thấy mức độ thiện chí của
đối tác. Nếu không có quy định về thỏa thuận phạt vi phạm, trong một số trường hợp
một bên sẽ sẵn sàng vi phạm hợp đồng để hướng đến một lợi nhuận cao hơn. Đây là
vấn đề hết sức quan trọng giúp duy trì được một môi trường thương mại lành mạnh,
13
tránh được những tranh chấp không đáng có đặc biệt là xung quanh các vấn đề về vi
phạm hợp đồng. Một môi trường kinh doanh ổn định và lành mạnh sẽ góp phần giúp
ích rất nhiều cho nền kinh tế, để ngày càng có nhiều giao dịch thương mại được xác
lập theo đúng những nguyên tắc của pháp luật và phù hợp với thị trường.
1.2. Quy định về chế tài phạt vi phạm trong Luật Thương mại năm 2005
Quy định về chế tài phạt vi phạm tại Việt Nam đã được hình thành ngay từ
những năm đầu của thế kỷ trước khi Thực dân Pháp đưa Bộ Dân luật Trung Kỳ
(1936)20 vào áp dụng trong quá trình độ hộ nước ta. Trải qua gần một thế kỷ với
những sự thay đổi qua từng giai đoạn lịch sử, ngày nay LTM năm 2005 đã xây dựng
được quy định tương đối hoàn chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương mại. Những
điểm nổi bật, quan trọng trong quy định của chế tài phạt vi phạm sẽ được phân tích
một cách cụ thể trong phần này của khóa luận.
1.2.1. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm
Điều 300 LTM năm 2005 quy định về các căn cứ áp dụng chế tài này như sau:
“Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn
trách nhiệm…”. Trong một quan hệ hợp đồng, theo quy định của LTM năm 2005,
chế tài phạt vi phạm được áp dụng khi và chỉ khi thỏa mãn ba căn cứ: (i) Có thỏa
thuận trong hợp đồng về việc áp dụng chế tài phạt vi phạm, (ii) Có hành vi vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng là điều kiện phát sinh chế tài phạt vi phạm như đã thỏa thuận, và
(iii) Không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm.
Thứ nhất, vấn đề phạt vi phạm phải được các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
“Chế tài phạt vi phạm hiện nay không phải là một chế tài đương nhiên được áp dụng
đối với hành vi vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật nữa mà nó phụ thuộc
vào sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng”21. Pháp luật thương mại Việt
Nam quy định căn cứ về thỏa thuận đã thể hiện được bản chất của chế tài phạt vi
phạm đó như là một biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm, nhằm mục đích răn đe để
buộc các chủ thể phải triệt để tuân thủ nghĩa vụ hợp đồng22. Chế tài phạt vi phạm
được xem là một loại chế tài dân sự, điều này rất khác với các loại chế tài Nhà nước
khác. Giai đoạn trước 1986, Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế tập trung, quan liêu,
Điều 842: “Khoản phạt là một khoản do một người cam đoan rằng nếu không thi hành nghĩa vụ thì phải chịu
một sự gì; khoản ấy là để đảm bảo cho sự thi hành nghĩa vụ”
Điều 845: “Khoản phạt cốt để đền vào sự tổn hại mà người chủ nợ phải chịu vì sự người mắc nợ không y ước
thi hành nghĩa vụ”.
21
Thanh Huyền (2017), ltđd (3), tr.44.
22
Đồng Thái Quang (2014), “Chế tài phạt vi phạm theo Luật Thương mại 2005 – một số vướng mắc về lý luận
và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2014, tr. 19.
20
14
- Xem thêm -