Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn con người cá nhân trong thơ văn đoàn nguyễn tuấn...

Tài liệu Luận văn con người cá nhân trong thơ văn đoàn nguyễn tuấn

.PDF
60
208
96

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ MINH PHƢỢNG CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG THƠ VĂN ĐOÀN NGUYỄN TUẤN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2018 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ MINH PHƢỢNG CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG THƠ VĂN ĐOÀN NGUYỄN TUẤN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CẢM ƠN Khóa luận đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn, giúp đỡ của Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Hằng, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình triển khai đề tài. Hà Nội, tháng 3 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Minh Phƣợng LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn” là kết quả nghiên cứu của bản thân dƣới sự hƣớng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả khóa luận không trùng khớp với bất kì công trình nghiên cứu nào khác, nếu sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 3 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Minh Phƣợng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Đối tƣợng nghiên cứu.................................................................................... 5 5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 5 6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5 7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 6 8. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................... 7 1.1. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học................................................... 7 1.2. Thân thế, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn ................................................... 9 Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 11 Chƣơng 2. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ......................................................................... 13 2.1. Con ngƣời ƣu tƣ trƣớc bể dâu cuộc đời ................................................... 13 2.2. Con ngƣời nặng lòng với quê hƣơng, gia đình, bè bạn ............................ 17 2.3. Con ngƣời với nỗi niềm trăn trở trên con đƣờng “hoạn lộ”..................... 23 Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 33 Chƣơng 3. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT................................................................... 34 3.1. Hình tƣợng nghệ thuật.............................................................................. 34 3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................ 38 3.3. Thời gian, không gian nghệ thuật ............................................................ 42 3.3.1. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 42 3.3.2. Không gian nghệ thuật .................................................................. 46 Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 50 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Từ cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đƣợc xem là giai đoạn xảy ra nhiều biến cố mạnh mẽ. Chế độ phong kiến ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Trong một thời gian ngắn mà liên tục có nhiều triều đại thịnh rồi suy: Lê, Trịnh, Tây Sơn, chúa Nguyễn. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do Quang Trung lãnh đạo. Đây cũng là giai đoạn chứng kiến sự đi xuống của Nho giáo. Nếu nhƣ ở thế kỉ XV trƣớc đây, Nho giáo từng chiếm vị trí độc tôn thì đến thế kỉ XVI – XVII, Nho giáo ngày càng lung lay và sang thế kỉ XVIII – XIX thì gần nhƣ bị sụp đổ hoàn toàn. Có thể nói, những mâu thuẫn trong xã hội giai đoạn này trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Vua tôi lẫn lộn, xã hội suy đồi, luân thƣờng đạo lý đảo ngƣợc, “chúa lấn vua, giết vua, chúa anh giết chúa em, bề tôi lột vàng, lột áo chúa thƣợng” [16, 60]. Điều đó khiến cho con ngƣời rơi vào tình trạng khủng hoảng chƣa từng thấy, đặc biệt phải kể đến bộ phận trí thức nho học. Thời thế thay đổi khiến họ trở nên khủng hoảng về tinh thần, mông lung về tƣ tƣởng, không tìm ra hƣớng đi cho bản thân, hầu hết đều mang trong mình một nỗi buồn riêng. Trong đó phải kể đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Ngô Thời Nhậm... Và Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc xem là một trong những trí thức mang đặc trƣng chung với các tác giả trong giai đoạn này, tuy nhiên ông lại không đƣợc đƣa vào giảng dạy trong chƣơng trình phổ thông, bởi thế mà còn trở nên xa lạ. Tìm hiểu về Đoàn Nguyễn Tuấn phần nào giúp chúng tôi có cái nhìn bao quát về tác giả, tác phẩm của ông đồng thời có cái nhìn rộng rãi hơn về giai đoạn này. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học cổ xƣa nay đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đã có một công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề 1 này, đó là: Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Tuy nhiên tìm hiểu về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn thì đến nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt. Chọn đề tài này, tác giả khóa luận muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn qua nội dung tƣ tƣởng và hình thức nghệ thuật biểu hiện, đồng thời khẳng định lại những giá trị và đóng góp của Đoàn Nguyễn Tuấn trong việc phát triển nội dung con ngƣời cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam. Là một sinh viên khoa Ngữ Văn và cũng là một giáo viên dạy văn trong tƣơng lai, việc bao quát về các tác giả văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng vô cùng cần thiết, nghiên cứu con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn sẽ là cầu nối quan trọng góp phần bổ trợ kiến thức cho quá trình học tập và giảng dạy của cá nhân sau này. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tìm hiểu con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn” cho khóa luận của mình. 2. Lịch sử vấn đề Tìm hiểu, đánh giá về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn là công việc đã đƣợc một số nhà nghiên cứu quan tâm, song chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt. Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một vài nhận xét về cuộc đời, sự nghiệp cũng nhƣ nét khái quát về nội dung và nghệ thuật thể hiện trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb Sử học, 1971 có trình bày sơ lƣợc về tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn và tác phẩm Hải Ông thi tập [5]. Viện nghiên cứu Hán Nôm với Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982 cũng đã đề cập đến tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn và một số tác phẩm của ông [1]. 2 Nguyễn Lộc trong Văn học Tây Sơn, giới thiệu thân thế và sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn cùng lời nhận xét: “Ông là một trong số ít những ngƣời chỉ ra làm quan dƣới thời Tây Sơn. Điều đó chứng tỏ cảm tình của ông đối với nhà Tây Sơn là nồng hậu… Giống nhƣ nhiều nhà thơ khác thời Tây Sơn, thơ ông lạc quan, thể hiện rõ nét tinh thần tự hào về triều đại Tây Sơn” [8, 275]. Tác giả cũng trích dẫn 48 bài trong Hải Ông thi tập để đối chiếu với các bản Cựu Hàn Lâm Đoàn Nguyễn Tuấn thi tập, Trương Mộng Mai thi, Nhật Nam phong nhã thống biên. Nguyễn Tuấn Lƣơng với bài viết “Đoàn Nguyễn Tuấn con ngƣời và thơ văn” trong cuốn Danh nhân Thái Bình, tập 2, (Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình) cũng dành sự quan tâm nghiên cứu về Đoàn Nguyễn Tuấn. Đây đƣợc đánh giá là một bài viết khá quy mô (46 trang). Bên cạnh việc giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn, bài viết còn nêu ra một số vấn đề về con ngƣời ông qua thơ văn. Theo Nguyễn Tuấn Lƣơng, “Con ngƣời của Đoàn Nguyễn Tuấn cũng thể hiện rõ nét qua thơ văn ông. Qua Hải Ông thi tập và chín dị bản khác, nhà thơ Hải Ông đã thể hiện sự phóng khoáng sâu trầm, đa tƣ giản dị, gần gũi quần chúng, yêu quý quê hƣơng Tổ quốc. Ông tỏ rõ một tài ba thơ văn điêu luyện, trong sáng, với cách nhìn nhận sự vật khá độc đáo, tinh tế” [10, 118]. Tác giả bài viết nhận định: “Một khía cạnh khác cũng khá nổi bật trong thơ văn của Hải Ông, đó là: lòng tự hào về dân tộc, về đất nƣớc, con ngƣời và phong tục Việt Nam” [10, 122]. Tạ Ngọc Liễn trong Chân dung văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1998, cũng nhắc đến Đoàn Nguyễn Tuấn và có những lời nhận xét sắc sảo, tinh tế: “Đọc thơ Đoàn Nguyễn Tuấn, chúng ta bắt gặp một trái tim giàu xúc cảm, một tâm hồn phong phú và nhạy bén với thế sự, luôn gắn bó với cuộc sống xã hội, với đất nƣớc quê hƣơng” [7, 300]. Tác giả cũng giới thiệu một số bài thơ trong Hải Ông thi tập nhƣ Xích Bích hoài cổ, Đăng Hoàng 3 Hạc lâu, Quá Trường Thành, Chiêu quân mộ, Đáp vấn… Tác giả nhận định: “Trong các nhà thơ thời Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn có lẽ là ngƣời có nhiều bài thơ hay nhất về Thăng Long và là một tác giả có diện mạo riêng rất rõ” [7, 305]. Nguyễn Thạch Giang trong Tinh tuyển văn học Việt Nam (Tập 5 – Quyển 2), Nxb Khoa học Xã hội, 2004 trình bày những nét chính về tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn. Công trình lựa chọn 23 bài thơ trích trong Hải Ông thi tập để khảo dị, chú thích, dịch nghĩa, cùng lời nhận xét về Đoàn Nguyễn Tuấn: “Ông đã để lại cho chúng ta một tập thơ – Hải Ông thi tập – ngót 250 bài. Nội dung thơ ông cho ta thấy ông là con ngƣời trầm mặc, thanh cao, chân thành, giản dị, thiết tha với quê hƣơng, với tổ quốc. Thơ ông lời chải chuốt, thanh thoát, gợi cảm, ít điển cố. Một số bài ca ngợi triều đại Tây Sơn, nhiệt liệt ngƣỡng mộ Quang Trung, hào hứng trƣớc quang cảnh đất nƣớc dƣới triều đại mới” [3, 55]. Trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Nxb Thế giới, 2004, mục “Đoàn Nguyễn Tuấn”, Phạm Tú Châu trình bày sơ lƣợc về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Trong đó có đƣa ra nhận xét: “Nhìn chung thơ Đoàn Nguyễn Tuấn dù sáng tác dƣới thời Quang Trung (1753 – 1792) hay Quang Toản (1783 – 1802), đều có những bài chân thành và hào hứng ca ngợi triều đại mới, ca ngợi võ công đánh quân Thanh, dẹp Nguyễn Ánh của đội quân Tây Sơn, mang lại cảnh thanh bình, thịnh trị cho đất nƣớc […]; hoặc biểu lộ niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc […]. Đoàn Nguyễn Tuấn còn cho thấy niềm phấn khởi, lòng tin, ý mong muốn đóng góp nhiều cho thời đại mới. Nhà thơ cũng không giấu giếm những ý nghĩ tiêu cực, buồn nản để lộ rải rác trong thơ. Đó là một sự thật khó tránh. Là một trí thức có gia đình, bạn bè, thân thích đều là những đại thần của triều đại cũ mà nhiều ngƣời trong họ cũng nhƣ chính tác giả đã từng 4 ôm chí khôi phục nhà Lê nhà Trịnh, Đoàn Nguyễn Tuấn trong tập thơ của mình thành thực nhận rằng ông chƣa rũ bỏ đƣợc hết nỗi băn khoăn, day dứt – những mâu thuẫn và đấu tranh khi đã đi theo Tây Sơn. Tuy nhiên, cuối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn đã vƣợt đƣợc dƣ luận, vƣợt đƣợc giáo lý và những mặc cảm của đời và của mình để phục vụ thủy chung cho triều đại mới. Hải Ông thi tập cũng đã ghi nhận điều đó” [6, 52]. Có thể thấy, cho tới nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cùng một số nhận xét về phong cách, tƣ tƣởng của tác giả. Đó sẽ là cơ sở quan trọng và cần thiết cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi trong việc đi sâu khai thác đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật thể hiện con ngƣời cá nhân trong Hải Ông thi tập nhằm cho ra đời một nghiên cứu về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn, cụ thể là các tác phẩm đƣợc tập hợp trong Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập do Nguyễn Tuấn Lƣơng, Đào Phƣơng Bình, Trần Duy Vôn dịch và chú thích, Nxb KHXH, 1982. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn thông qua những biểu hiện từ nội dung tƣ tƣởng đến hình thức nghệ thuật thể hiện. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp hệ thống - Phƣơng pháp phân tích 5 - Phƣơng pháp lịch sử - Phƣơng pháp so sánh 7. Đóng góp của khóa luận Thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận muốn góp thêm một cái nhìn mới mẻ về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn qua nội dung và hình thức nghệ thuật thể hiện. 8. Bố cục khóa luận Khóa luận tốt nghiệp đƣợc bố cục nhƣ sau: MỞ ĐẦU NỘI DUNG Chƣơng 1: Những vấn đề chung Chƣơng 2: Con ngƣời cá nhân trong Hải Ông thi tập từ phƣơng diện nội dung Chƣơng 3: Con ngƣời cá nhân trong Hải Ông thi tập từ phƣơng diện nghệ thuật KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 6 NỘI DUNG Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học Macxim Gorki từng nói: “Văn học là nhân học, văn học là một khoa học nghiên cứu về con ngƣời”. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học từ lâu đã đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý và quan tâm. D.X.Likhachôp trong công trình Con người trong văn học Nga cổ xưa (Matxcơva, 1958, tái bản 1970) cũng đã đề cập đến con ngƣời cá nhân trong văn học Nga thế kỉ XVII. XX.Avêrixep trong Văn học Hy Lạp và văn chương Cận Đông (Matxcơva, 1971) cho rằng: “ngƣời kể chuyện cổ đại đã nhận trách nhiệm cá nhân về tất cả những gì họ kể”. A.V.Mikhailôp khi nghiên cứu Quan hệ Tiểu thuyết và phong cách (Matxcơva, 1982) đã nhận xét rằng: “thời trung đại đã có những biểu hiện mang tính cá nhân chống lại các truyền thống chung”. Trong văn học trung đại, vấn đề con ngƣời cá nhân cũng đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một trong những đặc điểm của văn học trung đại là tính “vô ngã” (không có cái tôi). Nhƣng không vì thế mà văn học trung đại không có những nét riêng của cái tôi cá nhân. Vấn đề này cho đến nay vẫn còn đƣa ra nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận đƣợc, đó là mỗi cá tính sáng tạo riêng của một tác giả trong sự nghiệp sáng tác của mình đều ít nhiều đƣợc thể hiện. Tập thể tác giả: Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vƣơng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân đã có riêng một công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này, đó là Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Trong đó, Trần Đình Sử chỉ ra rằng: con ngƣời cá nhân trong văn học thời Lý – Trần nổi bật là “con ngƣời yêu nƣớc, trung nghĩa”, nhƣ trong thơ Lý Thƣờng Kiệt (1019 – 1105), Trần Quang Khải (1241 – 1294), Trần Quốc Tuấn (1226 – 1300), Đặng Dung (thế kỉ XV). Bên cạnh đó, con ngƣời trong văn học giai 7 đoạn này “chƣa chịu sự ràng buộc chặt chẽ của Nho giáo, còn đầy tinh thần tự chủ, tiến thủ, tích cực kiểu Thiền tông, hoặc con ngƣời vô ngôn, vô ngã, tự do, phá chấp theo giáo lý nhà Phật” [16, 33]. Sang thế kỉ XV – XVII, con ngƣời cá nhân xuất hiện dƣới các hình thái chính “hoặc là lìa bỏ công danh, lìa bỏ thị phi, khen chê, “độc thiện kỳ thân”, đối lập với kẻ khác phàm tục, hoặc là đam mê vật dục, sắc dục nhƣ một tội lỗi, trái với đạo lí nhƣng đã không còn mặc cảm tội lỗi, trái lại đã biểu hiện đƣợc cảm giác đam mê, đẹp, lãng mạn” [16, 163]. Tác giả tiêu biểu trong giai đoạn này phải kể đến Nguyễn Trãi (1380 – 1442), một con ngƣời nhân nghĩa, yêu nƣớc nhƣng phải chịu nhiều bi kịch. Con ngƣời cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi đƣợc bộc lộ ở sự lựa chọn giữa “các tƣ tƣởng, các con đƣờng lập thân, dƣỡng thân và nhất là bảo thân”. Ông luôn quan niệm ngƣời có tài thì phải dùng vào việc lớn, có ích cho nhân dân, đất nƣớc: “Lâm truyền ai rặng giá lâm khách?/ Tài đống lƣơng cao ắt cả dùng!/ Đống lƣơng tài có mấy bằng mày.” (Tùng). Sang thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu suy tàn, con ngƣời cá nhân vì thế cũng chịu sự ảnh hƣởng sâu sắc. Nếu Nguyễn Trãi khẳng định con ngƣời cá nhân mình khi đối lập “ta” với “chúng ngƣơi” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) lại khẳng định mình qua hình thức đối lập “khép kín, không giao tiếp, bằng tƣ thế “độc thiện kỳ thân” – cô độc một cách cao quý, thanh sạch” [16, 157]. Trái với con ngƣời mang lí tƣởng thuần khiết, cao cả trong thơ thiền Lý – Trần, Nguyễn Bỉnh Khiêm là con ngƣời sống trong “đam mê, sắc dục” trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tính “dục” của cá nhân con ngƣời đƣợc đặt trong mối quan hệ của tình yêu nam nữ. Có thể kể đến cuộc gặp gỡ ái ân của Trung Ngộ với hồn ma Nhị Khanh, cuộc kì ngộ xƣớng họa của Hà Nhân ở trại Tây, rồi kì ngộ Hàn Than và Vô Kỷ, Nhuận Chi và Túy Tiêu, Thị Nghi với quan họ Hoàng… Về mặt đạo lý, những cuộc gặp gỡ này không đƣợc nhà nho chấp nhận. Nhƣng về mặt tình cảm lại đƣợc tác giả một tả một 8 cách khá đẹp, tình tứ trong những vần thơ. Từ đó thể hiện khát vọng cá nhân mạnh mẽ trong cuộc đời trần tục. Đặc biệt giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII – XIX, cái tôi cá nhân đã xuất hiện nhƣ một hiện tƣợng xuyên suốt qua nhiều tác giả khác nhau. Đây đƣợc xem là giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam đi vào tình trạng sụp đổ, vô cùng bế tắc. Điều đó khiến cho con ngƣời trong văn học “kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hƣởng hạnh phúc cá nhân nhƣ một quyền tự nhiên” [16, 194]. Xuất hiện dòng tƣ tƣởng thƣơng ngƣời, xót thân bên cạnh sáng tác mang hƣớng hƣởng lạc và trào phúng. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm là khúc ngâm của “cái tôi” cá nhân ngƣời chinh phụ mang bao nỗi niềm, bao sự nhớ mong, chờ đợi, tủi hờn, hi vọng, khát vọng và là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ của cá nhân ngƣời chinh phụ từ nơi khuê phòng đến nơi biên ải, chiến trƣờng xa. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hƣơng… là những tiếng nói đòi quyền sống, quyền làm ngƣời, quyền đƣợc thể hiện “cái tôi” cá nhân của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ngoài ra văn học giai đoạn này còn chứng kiến sự xuất hiện của “con ngƣời cá nhân công danh hƣởng lạc ngoài khuôn khổ” (thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát), “con ngƣời cá nhân giải thoát bằng hƣởng lạc” (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), “con ngƣời cá nhân trống rỗng, mất hết ý nghĩa” (thơ Nguyễn Khuyến). Nhƣ vậy, có thể khẳng định dù mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học bao giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Nhà mỹ học Lý Trạch Hậu cũng đã từng nói: “Cái gọi là vô ngã, không phải là nói nhà nghệ sĩ không có tƣ tƣởng, tình cảm cá nhân ở trong tác phẩm, mà là nói tƣ tƣởng, tình cảm đó không trực tiếp ngoại lộ” [11, 54]. 1.2. Thân thế, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn Đoàn Nguyễn Tuấn (? - ?) hiệu là Hải Ông, quê ở Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay là Quỳnh Phụ), tỉnh Thái Bình. 9 Đoàn Nguyễn Tuấn là con trai Thám hoa Đoàn Nguyễn Thục (1718 – 1775), con rể tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1702 – 1773) và là anh vợ thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820). Năm 1786, Trịnh Bồng lên ngôi, Đoàn Nguyễn Tuấn đã tập hợp dân làng đến họp về việc khởi binh giúp Trịnh Bồng đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, dành lại ngôi chúa, ổn định tình hình xã hội bấy giờ nhƣng việc không thành. Cuối năm 1787, Vũ Văn Nhậm – tƣớng Tây Sơn đem quân ra Bắc, giết Nguyễn Hữu Chỉnh và đuổi vua Lê Chiêu Thống. Đây là giai đoạn khiến cho Đoàn Nguyễn Tuấn và các nho sĩ Bắc Hà thời bấy giờ mang trong lòng vô số hoang mang, đắn đo lựa chọn những ngả đƣờng xuất xử khác nhau. Cuối năm 1787, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đứng ra giúp nhà Tây Sơn, ông đƣợc giao chức Hàn lâm trực học sĩ (1788). Tháng 9 năm 1789, Đoàn Nguyễn Tuấn vâng mệnh vua Quang Trung đi tiếp sứ Thanh ở trấn Lạng Sơn. Năm 1790, ông cùng Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích đƣợc cử vào đoàn sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc yết kiến vua Càn Long. Khi hoàn thành chuyến đi sứ trở về, Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc thăng làm Tả thị lang bộ Lại, tƣớc Hải Phái hầu (1791). Năm 1794, Hải Ông đƣợc lệnh đến Phú Xuân. Trên hành trình đi ông có viết bài thơ: Giáp Dần mạnh thu phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt Bắc Thành chư hữu (Đầu mùa thu năm Giáp Dần vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, khi lên đƣờng lƣu biệt các bạn ở Bắc thành). Toàn bộ bài thơ là niềm vui cũng nhƣ niềm tin tƣởng, lạc quan của ông vào triều đại mới. Năm 1798, Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc vua Quang Trung cử đi hộ giá tuần du phƣơng Nam. Ông ghi lại sự kiện này bằng hai bài thơ: Mậu Ngọ Mạnh Đông phụng hộ Nam tuần, hiểu phát Hương giang và Mậu Ngọ niên tái quan Nam hà, dật quan đô úy kinh thảng tương ngộ vu khế chi ngụ, toại tương dữ 10 vãng lai, y cầu quan Nam du tập họa lưu tặng nguyên tác. Dư nhân y vận đáp phục. Năm 1792, vua Quang Trung mất, Quang Toản lên kế vị. Quang Toản lên ngôi khi còn quá trẻ (9 tuổi) và chƣa có kinh nghiệm nên không giữ đƣợc việc triều chính. Mọi việc đều do cậu là Bùi Đắc Tuyên là thái sƣ nắm giữ. Chính sự rối ren, các đại thần quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục. Thêm vào đó ở phía Nam, nhân cơ hội này Nguyễn Ánh câu kết với quân Xiêm nhằm lật đổ triều Tây Sơn, giành lại chính quyền về phía mình. Tiếp tục phục vụ cho triều Tây Sơn nhƣng Đoàn Nguyễn Tuấn tỏ ra có phần buồn chán với con đƣờng công danh sự nghiệp. Một thời gian sau ông quyết định lui về quê chọn một cuộc sống thanh nhàn (1800). Sự nghiệp văn học của Đoàn Nguyễn Tuấn cho đến nay còn duy nhất tập thơ Hải Ông thi tập với khoảng 241 bài; bao gồm 146 bài thất ngôn bát cú, 34 bài thất ngôn tứ tuyệt, 12 bài ngũ ngôn, 03 bài ca, 03 bài hành, và 01 bài làm theo thể liên cú, 42 bài chƣa đƣợc dịch; chia làm 2 phần: thơ viết trong nƣớc (139 bài) và thơ đi sứ (102 bài). Nội dung thơ ông cho thấy “ông là con ngƣời trầm mặc, thanh cao, chân thành, giản dị, thiết tha với quê hƣơng, với tổ quốc. Thơ ông lời chải chuốt, thanh thoát gợi cảm, ít điển cố. Một số bài ca ngợi triều đại Tây Sơn, nhiệt liệt ngƣỡng mộ Quang Trung, hào hứng trƣớc quang cảnh đất nƣớc dƣới triều đại mới” [3, 55]. Tiểu kết chƣơng 1 Tính “phi ngã” là một trong những đặc điểm của thi pháp văn học trung đại. Tuy nhiên, vấn đề con ngƣời cá nhân trên tiến trình văn học lại xuất hiện nhƣ một nhu cầu thiết yếu. Có thể nói, vấn đề con ngƣời cá nhân trong thơ Việt Nam trung đại đã hình thành, phát triển qua một quá trình biểu hiện sáng tạo. Và đến giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX thì vấn đề con ngƣời cá nhân đã dần đƣợc khẳng định một cách mạnh mẽ. 11 Đoàn Nguyễn Tuấn là một trí thức nho học dƣới triều Lê – Trịnh sau đứng ra phục vụ cho Tây Sơn. “Đoàn Nguyễn Tuấn cũng nhƣ nhiều bạn bè của ông ít nhiều cũng có những trăn trở, say sƣa trƣớc thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong sự nghiệp chống ngoại xâm do Quang Trung lãnh đạo nhƣng vẫn canh cánh bên lòng nỗi niềm “cố quốc” [10, 21]. Có thể nói, Đoàn Nguyễn Tuấn là một trong những trí thức tràn đầy tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, niềm lạc quan, phấn khởi trƣớc triều đại mới… Ông đƣợc đánh giá là một sứ thần – nhà thơ có nhiều đóng góp cho triều Tây Sơn và là một tác giả mang diện mạo riêng rất rõ. 12 Chƣơng 2. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG 2.1. Con ngƣời ƣu tƣ trƣớc bể dâu cuộc đời Lâu nay núi sông vẫn thƣờng tƣợng trƣng cho sự vĩnh hằng, chứng nhân cho những đổi thay của thời cuộc. Tạo vật có thay đổi ra sao, triều đại có hƣng vong thế nào thì núi non, sông biển cũng vẫn còn đó, không chuyển dời. Chẳng thế mà đứng trƣớc núi cao hay sông sâu bể rộng, con ngƣời thƣờng mang trong lòng bao suy tƣ về sự đƣợc – mất, thịnh – suy, biến thiên của cuộc đời: “Thiên phong tiễu lập khan triều đại Nhất thủy bình lưu tống cổ câm.” (Ngàn núi đứng sững xem các triều đại, Một dòng phẳng lặng đƣa đón cổ kim.) (Giang trình – Hành trình trên sông) Đoàn Nguyễn Tuấn cũng nằm trong số đó. Trên lộ trình muôn dặm của mình, mỗi khi đứng trƣớc vời vợi núi cao hay mênh mang sông nƣớc, ông không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ về “nỗi cổ kim”. Đứng trên đỉnh núi cao trông ra xa trong buổi chiều hôm, trong lòng thi nhân chợt dâng lên bao cảm xúc khó tả: “Nhật mộ thừa cao thư viễn diếu, Vô cùng kim cổ nhất đê đầu.” (Chiều hôm lên cao thƣ thả nhìn ra xa, Cảm nỗi cổ kim man mác, lặng lẽ cúi đầu.) (Quế Hoa tự hoài cổ – Thăm chùa Quế Hoa, nhớ xƣa) Một đêm ngủ lại ở đồn Hoành Sơn, lặng nghe tiếng sóng biển vỗ dƣới khe núi cũng khiến thi nhân phải suy tƣ về lẽ đời, trăn trở về bao “tan hợp”: “Hà xứ đào thanh triệt dạ văn, 13 Hoành Sơn sơn hạ đại dương tân. Phù sinh danh lợi không giao cát; Thử địa quan hà kỷ hợp phân.” (Tiếng sóng đâu đây vang suốt đêm trƣờng, Dƣới núi Hoành Sơn là bờ biển cả. Danh lợi trong cõi phù sinh luống những rối bời; Núi sông ở dải đất này bao lần tan hợp.) (Túc Hoành Sơn đồn, văn hải đào thanh – Ngủ đêm ở đồn Hoành Sơn nghe tiếng sóng biển) Biển muôn đời đều vậy, chẳng khi nào im tiếng sóng vỗ, lặng tiếng gió thổi. Nằm nghe tiếng sóng cứ từng đợt từng đợt vỗ vào bờ rồi lại dội vào lòng khiến thi sĩ khó mà chợp mắt. Để rồi với một tâm hồn vốn nhạy cảm, trƣớc sự vĩnh hằng của thiên nhiên sông núi, thi sĩ không tránh khỏi những ƣu tƣ, nghĩ suy trƣớc thời cuộc. Khi đi qua sông Trƣờng Giang, cũng nhƣ đa số các nhà thơ khác, Đoàn Nguyễn Tuấn hồi tƣởng lại trận Xích Bích nổi tiếng năm xƣa từng diễn ra, giờ đây những chiến thuyền, binh pháp, thế trận… đều không còn, chiến công cũng đều đã qua đi, giờ chỉ có núi sông là còn mãi: “Trường Giang dạ sắc bích du du, Tam Quốc can qua thử địa đầu. Phân đỉnh đồ khuynh sơn tự trĩ, Liên hoàn thuyền tận thủy không lưu.” (Cảnh đêm trên Trƣờng Giang một màu biếc xanh man mác, Nơi đây, từng xảy ra trận can qua thời Tam Quốc. Cơ đồ chia ba chân vạc đã sập, mà núi non vẫn còn sừng sững; Thuyền bè theo kế liên hoàn đã hết, nhƣng sông nƣớc vẫn chảy hoài.) (Xích Bích hoài cổ – Trƣớc cảnh Xích Bích nhớ xƣa ) 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan