luận văn góp phần luận giải một cách sâu sắc công tác dân vận của đảng
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………3
NỘI DUNG……………………………………………………………………….5
I-CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NHÂN DÂN……………………………………………5
1- Nhận thức chung về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân………………..5
2- Cở sở lý luận về quan hệ của Đảng với nhân dân………………………….6
2.1.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, là cơ sở lý luận của
mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân…………………………. 6
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc………………………… 7
2.3. Nhân dân là lực lượng cơ bản, có sức mạnh to lớn để thực hiện
chủ trương đường lối, chính sách của Đảng; những sáng kiến,
nguyện vọng của nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc, là những gợi ý
để Đảng xây dựng, hoàn thiện và điều chỉnh đường lối chính sách……………… 9
II- THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
TRONG THỜI GIAN VỪA QUA, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM…. ……………...10
1-Ưu điểm……………………………………………………………………… 11
2- Hạn chế……………………………………………………………………… 12
3- Nguyên nhân…………………………………………………………………..13
4- Những bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của Đảng……………14
III- NHIỆM VỤ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI………………….14
1. Nhiệm vụ……………………………………………………………………….15
2. Những giải pháp chủ yếu……………………………………………………..15
2.1. Xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với
nguyện vọng chính đáng của nhân dân……………………………………………….. 15
2.2. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong
thời kỳ mới để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân……………….. 16
2.3. Chỉnh đốn các cơ quan nhà nước, xử lý nghiêm những cán bộ,
công chức lợi dụng chức quyền quan liêu, tham nhũng, ức hiếp
2
nhân dân để tăng cường quan hệ giữa Đảng và nhân dân…………………………18
2.4. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn
thể nhân dân trong giai đoạn hiện nay………………………………………………..19
2.5. Phát huy vai trò to lớn của các tổ chức chính trị-xã hội trong
thời kỳ đổi mới……………………………………………………………………………19
KẾT LUẬN………………………………………………………………………21
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………22
3
LỜI NÓI ĐẦU
Tõ khi thµnh lËp ®ªn nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta
đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thống nhất nước nhà và thực hiện công
cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ ngày có
Đảng, nhân dân ta một lòng theo Đảng, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước tiến lên vững chắc, viết nên những trang sử vẻ vang. Đảng vì dân, dựa vào
dân, dân tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đi theo Đảng, đoàn kết xung quanh Đảng
làm cách mạng. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nguồn gốc mọi
sức mạnh của cách mạng Việt Nam, đó cũng chính là truyền thống của Đảng Cộng
sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân là bản chất của Đảng. Ngoài việc phục vụ nhân dân, Đảng ta không còn
lợi ích nào khác. Dân gắn bó mật thiết với Đảng vì Đảng là lực lượng tinh hoa, là
trí tuệ lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng của mình.
Sau gÇn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực. Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng đại là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Đại hội XI cũng chỉ rõ động lực thúc đẩy sự nghiệp đó là phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Và đây cũng
chính là nhân tố cốt lõi của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong
thời kỳ mới.
Khi nghiên cứu vấn đề cốt lõi này là vấn đề lý luận và thực tiễn lớn, đòi hỏi
công sức của nhiều cán bộ lý luận và các nhà hoạt động thực tiễn, của nhiều cấp,
nhiều ngành. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng trên
mọi lĩnh vực, nhiều cơ hội và thách thức đan xen, đặc biệt âm mưu thủ đoạn “Diễn
biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang hàng ngày hàng
giờ tác động đến mọi người dân, nhằm chia rẽ sự lãnh đạo của Đảng với nhân dân,
thậm chí chúng hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị.
Chính vì vậy, việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong
giai đoạn hiện nay là một đòi hỏi có tính cấp thiết, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
4
Đảng và nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
5
I. VỊ TRÍ CỦA CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG
1. Tầm quan trọng của công tác dân vận trong hoat động lãnh đạo của Đảng:
Công tác dân vận là một trong những công tác rất cơ bản và liên quan chặt
chẽ đến mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng. Công tác đó có từ khi Đảng ta ra đời và
gắn liền với từng bước trưởng thành của Đảng. Một trong những truyền thống tốt
đẹp và nguồn gốc sức mạnh của Đảng là mối quan hệ
dân. Nhân dân là lực lượng to lớn nhất, là người trực tiếp thực hiện mục đích, mục
tiêu của Đảng; là người bảo vệ đảng, bổ sung lực lượng cho Đảng; góp phần
định ra đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Vì vậy có làm tốt công tác vận động nhân dân thì đường lối chủ trương chính sách
của Đảng mới thể hiện được ý chí nguyện vọng của nhân gắn bó máu thịt với
nhân dân. Điều này xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí minh và quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: quần chúng nhân dân có vị trí, vai trò đặc
biệt đối với sự phát triển của lịch sử. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật
chất và những giá trị tinh thần - nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội; nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, là chủ nhân
chân chính của lịch sử. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lai giai cấp
bóc lột, Mác-Ăng ghen cho rằng……
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mới làm
cho ý đảng, lòng dân là một, mới thực hiện tháng lợi.
Để làm cách mạng thắng lợi nhân dân cần có Đảng dẫn đường. Đảng ra đời
vì yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân là mối quan hệ máu thịt không thể tách rời. Nếu xa rời quần chúng Đảng
tự đánh mất cơ sở tồn tại của mình.
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh Việt Nam, kế thừa và phát triển những tư tươngẻ tiến bộ qua các thời đại
trong nước và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Dân là quan trọng hơn hết,
là tối thượng “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Dân là gốc của nước, của cách
mạng. Bác nói “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không
6
ủng hộ, việc gì làm cũng không xong” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
2000, T. 5, tr 293); “Nước lấy dân làm gốc…Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”. Dân là chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Quyền
và nghĩa vụ của nhân dân phải đi cùng nhau.
Đề cao vị trí vai trò của nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời chỉ ra lực
lượng nòng cốt, cách mạng trong nhân dân, đó là giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức. Đảng phải thu hút, tập hợp những phần tử ưu tú trong công
nhân, nông dân và trí thức để không ngừng bổ sung lực lượng cho Đảng và tăng
cường vai trò lãnh đạo của mình. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ
gắn bó máu thịt. Nhân dân là chủ nhưng không thể tự mình thực hiện quyền làm
chủ nếu không có Đảng dẫn đường chỉ lối để làm cách mạng. Đảng lấy việc đấu
tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ áp bức giai cấp , xây dựng cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho mọi người dân làm mục đích hoạt động của mình. Để luôn giữ
vai trò lãnh đạo, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, “biết ý dân chúng”,
“học hỏi dân chúng”, “nâng cao dân chúng” và “là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân”. Người chỉ rõ “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân không để sót mnột người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực
hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ, Đoàn thể đã giao cho”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, tr 698).
Theo Hồ Chí Minh nhiệm vụ công tác dân vận là chăm lo, không ngừng
nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân. Phương thức cơ bản của công tác dân
vận là phải sâu sát nhân dân, biết tuyên truyền, giải thích, biết học hỏi và lắng nghe
ý kiến nhân dân. Phải có sự phối hợp của nhiều lực lượng làm công tác dân vận,
trong đó vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền có vị trí đặc biệt quan trọng; phải
biết kết hợp nhiều hình thức, phương pháp, phải nêu gương trước nhân dân “ Việc
dân vận rất quan trọng… Dân vận khéo việc gì cũng thành công”, cách tổ chức,
cách làm việc phải phù hợp với quần chúng.
Quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận,
ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn
quan tâm đến công tác dân vận. Ngày 3/2/1930 Đảng ta được thành lập. trong Hội
nghị quan trọng này, ngoài việc thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng...Hội nghị
thành lập Đảng đã thông qua quyết định thành lập các đoàn thể quần chúng, thông
qua điều lệ tóm tắt của các đoàn thể: Công hội, Nông hội, Đoàn Thanh niên, Hội
cứu tế đỏ, Hội phản đế đồng minh….
7
Hội nghị Trung ương tháng 10/11930 quy định: Trong đảng bộ thượng cấp
(từ Tỉnh ủy, thnàh ủy trở lên) phải lập ra các ban chuyên môn về giới vận động
như: Công nhân vận động, Nông dân vận động, quân sự vận động .....Hội nghị
cũng ra các án Nghị quyết về công nhân vận động, phản đế đồng minh.... Tiếp theo
đó, hàng loạt các tổ chức quần chúng ra đời: Ban Công vận ra đời (20/01/1931);
Ban Thanh vận ra đời vào 26/3/1931; Ban Dân vận TW được thành lập ngày
31/3/1947. Đặc biệt, ngày 15/10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo với tiêu
đề: “Dân vận’ được coi là Cương lĩnh về công tác dân vận của Đảng ta, đã khẳng
định vai trò to lớn của nhân dân: Bao nhiêu lợi ích đề vì dân; bao nhiêu quyền hạn
đều của dân...công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân....
Các tổ chức ra đời đã vận động các giai cấp, tầng lớp, các giới...đoàn kết,
phát huy sức mạnh của mỗi một người dân, góp phần thắng lợi to lớn của dân tộc
ta: giành được chính quyền, đưa nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mìn, giải phóng đất nước giành độc lập dân
tộc
Bước vào công cuộc xây dựng CNXH trên cả nước, ĐH V Đảng ta chỉ rõ:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng vì vậy ở thời kỳ nào công tác quần chúng
cũng có ý nghĩa chiến lược. Đồng thời Đảng ta nhấn manh: Trong cách mạng
XHCN tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng chẳng những giảm bớt
mà còn tăng thêm. Bởi vì: Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn
diện nhất và triệt để nhất, đòi hỏi phải phát huy cao độ sức manh của toàn dân tộc ,
kết hợp với sức mạnh của thời đại đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vượt
qua mọi khó khăn thử thách để đi lên.
Như vậy, sự gắn bó máu thịt của Đảng với nhân dân đã trở thành truyền
thống tốt đẹp và là nguồn sức mạnh của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay. Trong
từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác dân vận, Đảng đã có
nhiều thành công trong công tác dân vận, đã phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Bối cảnh đất nước và vị trí mới của công tác dân vận:
ĐH IX của Đảng đã đánh giá tình hình đất nước ở thời điểm chuyển giao thế
kỷ đã đặt ra vấn đề phải nắm bắt cơ hội (thời cơ), vượt qua thách thức (nguy cơ) -
8
một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay. Những yếu
tố tác động đến công tác dân vận là:
Một là: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ mới yêu cầu phải phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để sớm đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu; CNH,HĐH
thành công, bảo vệ vững chắc Tổ quốc VNXHCN.
CNH,HĐH ở nước ta được NQ TW7 (KVII) nêu: CNH,HĐH là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động, sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển của tiến bộ KHCN tạo ra năng suất lao động đạt chất
lượng cao. CNH,HĐH ở nước ta trong điều kiện ở một nước lạc hậu, tuyệt đại bộ
phận dân cư là nông dân, làm nông nghiệp, sống ở nông thôn, thu nhập hạn hẹp,
sức mua thấp.
Do đó, công nghiệp hóa là quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, ĐH IX
Đảng ta nhấn mạnh: CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy, vấn đề đặt ra
cho công tác dân vận là phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đưa đất
nước ta tiến nhanh và vững chắc lên CNXH.
- Hai là: Trình độ các mặt của nhân dân ngày càng được nâng cao; nền
KTTT và sự hội nhập quốc tế ngày càng phát triển đặt ra nhiều thuận lợi và những
khó khăn mới cho công tác dân vận.
Thông tin mở rông, phong phú, đa dạng: báo chí, truyền hình, phát thanh,
đài, mạng internet...đã góp phần truyền bá đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng đến nhân dân, động viên nhân dân, góp phần vào cuộc đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng. Trình độ các mặt của nhân dân nâng cao, Đảng có nhiều thuận
lợi trong việc đưa đường lối, chủ trương, chính sách đến với nhân dân nên thuận
lợi cho công tác dân vận. Khi trình độ các mặt của nhân dân nâng cao, nếu CB, ĐV
không cập nhật, không nâng cao trình độ thì không đáp ứng yêu cầu, không giải
đáp nổi cho quần chúng những vấn đề mà mình phụ trách. Việc tuyên truyền, giải
đáp những thắc mắc của nhân dân đặt ra yêu cầu người cán bộ phải có trình độ,
trong khi đó một bộ phận CB ở cơ sở còn nhiều yếu kem, bất cập.
Xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là việc mới mẻ. Điều dó đặt ra
cho Đảng và nhân dân ta nhiều khó khăn, phức tạp. Tình hình đó đặt ra cho công
9
tác dân vận của Đảng phải góp phần duy trì, phát triển các thành phần kinh tế song
không làm mất đi tính ưu việt của CNXH, không mất đi truyền thống đạo lý, không
dẫn tới đảo lộn về chính trị, không làm xói mòn, biến dang phẩm giá, đạo đức, lối
sống, bản sắc, văn hóa Việt Nam ...Sự hội nhập quốc tế có nhiều thuận lợi: tạo điều
kiện cho nhân dân ta tiếp xúc với các nước, thu hút vốn, kỷ thuật, kinh
nghiệm...Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế cũng có nhiều khó khăn: cạnh tranh gay
gắt, lợi dụng hội nhập để chống phá đất nước ta. Với chính sách mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta có điều kiện tiếp xúc với thế
giới bên ngoài, đễ tác động cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Để phát huy mặt tích
cực, hạn chế tiêu cực đòi hỏi công tác dân vận phải góp phần nâng cao giác ngộ và
bản lĩnh chính trị, nang cao trinh độ tri thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta
hành động đúng
Ba là: Âm mưu, hoạt động chấng phá bằng “DBHB” của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức thâm độc. Để làm thất bại
Chiến lược “DBHB” phải thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân , tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tóm lai: Bối cảnh đất nước ta hiện nay có những thời cơ và thách thức lớn,
đòi hỏi Đảng phải tăng cường công tác dân vận. Tăng cường công tác dân vận hiện
nay là vấn đề đầu tiên của phương pháp cách mạng nhằm nắm bắt cơ hội, vươt qua
thách thức - một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
1. Mục tiêu:
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
2. Quan điểm của Đảng ta
Tiếp tuc quán triệt và thực hiện những quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác
quần chúng của Đảng do Hội nghị BCH TW 8 K VI đã nêu:
+ Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân……
10
+ Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của
nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công
dân…..
+ Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng…..
+ Công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân ….
Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, BCH TW KVI đến nay, Đảng ta có
nhiều nghị quyết về công tác quần chúng trên từng lĩnh vực cụ thể, với những đối
tượng khác nhau, ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Bước vào thời kỳ mới, Hội nghị lần thứ bảy BCH TW KIX ra Nghị quyết về
“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh” đề ra 4 quan điểm mới:
Thứ nhất: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm sự thắng lợi bền vững của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc phải thường xuyên củng cố
và tăng cương sức mạnh của khối liên minh công, nông, trí thức vì đây là nền tảng
của dân tộc. Đảng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc không phải là chủ trương, sách lược nhất thời. Bác
giải thích: “ Đại đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài.
không phải là một thủ đoạn chính trị...Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ....”
Đây là tư tưởng chính trị va phương pháp cách mạng của Đảng và Bác. Cách
mạng Việt Nam tiến lên không thu hẹp mà ngày càng mở rộng lực lượng. Cách
mạng có nhiều động lực nhưng động lực chủ yếu là đại đoàn kết toàn dân. Đảng ta
xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai: Đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh
làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm định kiến, không phân biệt đối xử về quá
11
khứ, thành phần giai cấp,xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai.
Điểm tương đồng là “mẫu số chung”. Để đoàn kết phải tìm ra điểm tương
đồng. Điểm tương đồng ngày nay là: “Giữ vững đôc lập, thống nhất của Tổ quốc,
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” để gắn bó đông
bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nươc và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Thực chất điểm tương đồng là CNXH nhưng đây là
cách diễn đạt để đạt được sự nhất trí hơn.
Để tạo ra sự tương đồng, về quan điểm, thái độ phải tôn trọng những ý kiến
khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khư, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Đây là thành quả của quá trình đổi mới tư
duy lý luận của Đảng ta,Xóa bỏ định kiến, phân biệt là rất cần thiết để đoàn kết, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân.
NQ 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 của Bộ chính trị về đại đoàn kết toàn dân
tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất còn nhấn mạnh: chấp nhận những
điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ mặc
cảm, định kiến, hận thù.. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và sự đông thuận xã hội
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, là công việc của mỗi người dân,
để nâng cao trách nhiệm của toàn dân, Đảng ta đặt vấn đề phải xây dựng sự đồng
thuận xã hội. Đồng thuận xã hội nguyên tắc đồng thuận xã hội đòi hỏi mọi thành
viên hoặc đa số đồng ý thỏa thuận đối với nguyên tắc chung và ý chí chung. Một
quyết định đươc thông qua phải là “mâu số chung” cho các thành viên dù các thành
viên có thể là có nhiều sự khác nhau, sự đông thuận xã hội, nhằm đạt tới sự cố kết
xã hội, chống lại sự phân biệt xã hội.
Xã hội ta phát triển ngày càng đa dạng. Nền KTTT định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế làm xuất hiện ngày càng nhiều giai tầng với những lợi ích khác
nhau. Nước ta lại là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Đảng ta đã xác định mẫu số
chung cho tất cả những điểm khác nhau đó là điểm tương đồng, do vậy cũng có thể
quan niệm đồng thuận trong xã hội ta hiện nay là sự nhất trí trên những điêm tuơng
đồng: Về chính trị: điểm đồng thuận là mục tiêu chung: giữ vững độc lập thống
nhất của Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
12
văn minh; Về kinh tế là sự phát triển hài hòa các lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng
đồng, xã hội) vì sự phát triển chung của đất nước; Về tinh thần, tư tưởng: là chủ
nghĩa yêu nước chân chính; Về văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh, là sự hướng thiện,
tôn trọng những giá trị văn hóa, đạo đức mang tính nhân bản,; la sự giữ gìn và phát
huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vih và nhớ ơn những người có công với Tổ
quốc, dân tộc và cộng đồng; là sự tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
Thứ ba: Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng, hợp pháp của các giai cấp tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích
cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với kỷ
luật, kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng
nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần
tự lực, tự cường xây dựng đất nước, xem đó là động lực củng cố và phát triển khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng ta xác định các yếu tố quan trọng để đại đoàn kết: Đảm bảo sự thống
nhất về lợi ích, thực hiện dân chủ, phát huy chủ nghĩa yêu nước. Ba yếu tố trên có
sự sắp xếp khác nhau trong từng giai doạn lịch sử để tạo ra điểm tương đồng để
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Nếu trong cuộc đấu tranh với các thế lực ngoại
xâm mạnh hơn mình rất nhiều lần và với thiên nhiên khắc nghiệt, điểm tương đồng
nằm ở chính sự tồn tại của cộng đồng là chủ nghĩa yêu nước và ý thức đoàn kết
trong đấu tranh chống xâm lược.
Ngày nay, đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng hòa bình, thực hiện
kinh tế thị trường, định hướng XHCN phải đi từ sự thống nhất về lợi ích, phát huy
dân chủ
Thứ tư: Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu.
III. NHIỆM VỤ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG:
1. Nội dung công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng:
Công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng bao gồm những nội dung sau:
a. Lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
13
Công tác dân vận trong thời kỳ mới không thể dừng lại ở những lời kêu gọi
chung chung hoặc chạy ở vòng ngoài cuộc sống. Dân vận là phải vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc tổ chức cơ sở đảng phải nắm vững
các chủ trương, chính sách, pháp luật để vận động nhân dân thực hiện. Trong quá
trình thực hiện tổ chức cơ sở đảng phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọn và sáng kiến
của nhân dân để góp phần bổ sung làm cho chủ trương, chính sách ngày càng sát
thực tế và có hiệu quả hơn. Để vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính
sách, pháp luật cần Cần chú ý:
- Coi trọng việc tuyên truyền để mọi người tự giác thực hiện.
- Lãnh đạo việc phối hợp giữa chính quyền với MTTQ và các đoàn thể trong
quá trình vận động thực hiện.
- Chú trọng phát huy những nhân tố tích cực, đấu tranh với những biểu hiện
tiêu cực trong quá tình thực hiện.
- Thường xuyên kiểm tra việc chấp hành các chủ trương chính sách, pháp
luật và các nghị quyết của cấp ủỷ.
b. Phát huy dân chủ ở cơ sở, coi trọng giữ gìn kỷ luật, kỷ cương.
Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; Lãnh đạo tốt việc tuyên
truyền pháp luật trong nhân dân, khắc phục có hiệu quả tình trạng tự do, vô kỷ luật,
coi thường ký cương; Tổ chức đảng nêu gương trong phát huy dân chủ, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ
c. Nâng cao vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
- Lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động thiết thực như: xóa
đói giảm nghèo, giúp nhau làm giàu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc
- Lãnh đạo xây dựng cộng đồng dân cư tự quản ở thôn, làng, bản, ấp, tổ dân
phố…
- Phát huy những mặt tốt đẹp của các hình thức cộng đồng truyền thống như
làng, bản, dòng họ, gia đình. Đồng thời uốn nắn kịp thời những biểu hiện cục bộ,
lệch lạc
Phát huy vai trò của già làng trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, đây là
những người có vai trò quan trọng trong xây dựng khối đoàn kết toàn dân ở cơ sở :
14
tham gia tuên truyền chủ trương, chính sách; vạch trần thủ đoạn của bọn phản
động; hòa giải, xử lý tranh chấp, điểm nóng; Phát huy vai trò của chức sắc tôn giáo
d. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, mở rông, nâng cao chất lượng giáo
dục truyền thống... Hướng vào xây dựng sự đồng thuận trong xã hội, nâng cao
trách nhiệm công dân. Muốn vậy tổ chức cơ sở đảng phải củng cố và tăng cường
các tổ chức làm công tác chính trị, tư tưởng trong nhân dân. Sử dụng tốt vai trò tích
cực của phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức văn hóa, văn nghệ. Xây
dựng đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở làm tốt công tác tuyên truyền mệng.
Phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước Phong trào làm kinh tế
giỏi, làm giàu hợp pháp; xóa đói, giảm nghèo; Xây dựng đời sống văn hóa lành
mạnh, đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội, xây dựng phong trào cả nước thành xã hội
học tập, học tập suốt đời” …. trước hết là trong cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ
e. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, chính quyền cơ sở
trong sạch và có hiệu lực, động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền.
- Thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, bảo đảm tổ chức
cơ sở đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở , đảng
viên gương mẫu về đạo đức lối sống, tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt trong các
tổ chức nhân dân ở cơ sở.
- Xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch vững mạnh và có hiệu lực, tăng
cường công tác dân vận của chính quyền cơ sở theo Chỉ thị 18/2000/CT-TTg.
- Động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
2. Cách tiến hành công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng:
a. Tổ chức cơ sở đảng trực tiếp tiến hành và lãnh đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở tiến hành công tác dân vận:
* Tổ chức cơ sở đảng trực tiếp tiến hành công tác dân vận bằng việc: Đề ra
các chủ trương công tác dân vận cụ thể trong từng thời gian nhất định. Giao trách
nhiệm công tác dân vận cụ thể cho từng đảng viên. Lãnh đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở cùng tiến hành công tác dân vận. Cấp ủy phải xây dựng
15
thành chế độ thường xuyên làm việc với mặt trận và các đoàn thể nhân dân để kịp
thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân
Chính quyền cơ sở làm công tác dân vận bằng việc: cụ thể hóa các chủ
trương của Đảng thành những quy định phù hợp với tình hình địa phương, đơn vị;
Phục vu nhân dân chu đáo, không gây phiền hà, sách nhiễu cho dân; Mặt trận và
cac đoàn thể nhân dân trực tiếp vận động nhân dân
Tóm lại, tổ chức cơ sở đảng phải lãnh đạo tao nên sự phối hợp nhịp nhàng
giữa chính quyền và các đoàn thể trong công tác dân vận phải thật ăn khớp, nhip
nhàng, đồng bộ. Tránh tình trạng một sự việc mà mỗi tổ chức báo cáo khác nhau.
Cấp ủy đảng cần quan tâm lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể chú trọng đến
việc xây dựng các mô hình.
b. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở biết cách làm công tác dân vận
* Cấp ủy Đảng phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ của hệ thống chính
trị cơ sở biết cách áp dụng thành thạo 5 bước công tác:
- Một là: Điều tra nghiên cứu, khảo sát chuyên đề để, thông qua đội ngũ
cán bôh, đảng viên, thông qua mặt trận và các đoàn thể để năm tình hình nhân dân
- Hai là tuyên truyền giáo dục
- Ba là: huấn luyện, vận động
- Bốn là: Tổ chức
- Năm là: Hướng dẫn hành động
Đây là các bước mà trong công cuộc kháng chiến Đảng và Bác huấn luyện
cán bộ vận động nhân dân xây dựng cơ sở , xây dựng tổ chức. là sự tổng kết khái
quát, chặt chẽ, có trình tự, hợp lý, dễ nhớ, dễ làm theo.
Tự mỗi cán bộ phải rèn luyện và giúp nhau rèn luyện để có phong cách:
“Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân” để “nghe dân
nói, nói dân hiểu, làm dân tin” Với những khẩu hiệu ngắn gọn nhưng dễ hiểu, dễ
16
nhớ nhưng hàm chứa nội dung, phương pháp, phương châm của công tác vận
động quần chúng thích hợp với hoàn cảnh cán bộ, đảng viên....
Cán bộ dân vận phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm” là tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Cán bộ ở vùng dân tộc còn phải
thực hiện tốt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững
chắc. Phải thực hiện phương thức dân chủ trong lãnh đạo, tổ chức và quản lý
điều hành, tránh mệnh lệnh, hành chính đơn thuần. Phương pháp giáo dục, thuyết
phục và nêu gương với quần chúng nhân dân phải đặt biệt coi trọng. Hình thức
trực tiếp đối thoại với dân là phương pháp cần được áp dụng rộng rãi.
c. Xây dựng cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết cho công tác dân
vận:
Mỗi chi bộ phải có tờ báo đảng. một bản tin do đảng bộ cấp trên phát
hành, các phương tiện cần thiết khác
d. Phát huy vai trò của khối dân vận xã, phường.
Khối dân vận xã, phường, thị trấn có chức năng, nhiệm vụ: Phối hợp với
các thành viên trong khối để tham mưu với cấp ủy tổ chức thực hiệncác chỉ thị,
nghị quyết của Đảng về công tác dân vận . Theo dõi, kiểm tra tình hình; phản ánh
diễn biến tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân ; sơ kết, tổng kết, rũt kinh nghiệm,
đề xuất và kiến nghị các vấn đề về công tác dân vận với cấp ủy và cấp trên. Phối
hợp các hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể; tuyên truyền, phổ biến đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước tới các tầng lớp nhân
dân
Hướng dẫn tổ chức các phong trào quần chúng thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế-xã hội, an ninh quốc phòng, tham gia xây dựng đảng, xây dựng chính quyền,
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Giúp cấp ủy xử lý những vấn đề cụ thể liên quan đến công tác dân vận.
17
Thường xuyên giữ mối liên hệ các hoạt động trong khối, theo dõi tình hình
và hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, qua đó đề xuất với cấp ủy
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Biểu dương mặt tốt, khắc phục những thiếu
sót, có kế hoạch củng cố tổ chức, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng và khen thưởng,
động viên cán bộ trong khối.
Duy trì nề nếp chế độ giao ban khối hàng tháng, quý, năm để tổng hợp tình
hình quần chúng., thống nhất kiến nghị với cấp ủy và chính quyền xử lý những
vướng mẳctong công tác mặt trận đoàn thể. Thực hiện chế độ thông tin báo cáo
với cấp ủy và Ban dân vận cấp trên theo quy định.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
NHÂN DÂN
1. Nhận thức chung về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
18
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
năm 1991, đã ghi: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh
của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân
dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật,
H1991, Tr5)
Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “Đảng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối
cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động… đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối
cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng nhân dân… Đảng gắn bó mật thiết
với nhân dân, tôn trọng nhân dân và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của
nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến
hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ
phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
CTQG, H2001, Tr3,4,5).
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh, người sáng lập và là lãnh tụ của Đảng, của
dân tộc đã để lại bản Di chúc bất hủ cho dân tộc, trong đó có vấn đề Đảng với nhân
dân “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc, cho nên ngay từ thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức
và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…
Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, T12, Nxb CTQG, H2000, Tr510)
19
Có thể nói, mối quan hệ của Đảng với nhân dân là vấn đề trung tâm, xuyên
suốt và cốt lõi trong đường lối chính trị của Đảng, là mối quan hệ tất yếu, máu thịt
mà nếu không giữ gìn, củng cố, tăng cường và phát huy thì sẽ dẫn đến những sai
phạm không thể lường hết được.
2- Cở sở lý luận về quan hệ của Đảng với nhân dân
2.1.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, là cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và nhân dân
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định nhân dân là lực lượng
quyết định sự phát triển của lịch sử. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân; nhân dân là người làm nên lịch sử.
Tư tưởng chỉ trở thành nội dung tinh thần của các biến đổi lịch sử, khi nó
phản ánh đúng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Nội dung tinh thần ấy, sức mạnh
của tư tưởng ấy. Tư tưởng tự nó không biến đổi được thực tiễn xã hội, tư tưởng chỉ
có giá trị khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử mà điều đó chỉ có thể xảy
ra khi nhân dân đồng lòng, nhiệt tình, quyết tâm hành động. Quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng: Xét đến cùng thì lực lượng sản xuất là cái quyết định
sự biến đổi lịch sử, sự chuyển biến cách mạng xã hội, trong đó nhân dân là lực
lượng sản xuất cơ bản nhất. Chính nhân dân lao động là người sáng tạo ra của cải
vật chất và tinh thần cho xã hội, là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội.
Kế thừa và phát triển tinh hoa của nhân loại và dân tộc, Hồ Chí Minh đã có
quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa sự
lãnh đạo của tổ chức chính trị tiên tiến là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân. Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định dân là gốc của nước mà còn đặt vị trí của
nhân dân rất cao: “Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, T8, Nxb
CTQG, H2000, Tr276). Mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.(Hồ Chí Minh toàn tập,
T5, Nxb CTQG, H2000, Tr698)
Nguyện vọng, ý chí, nhu cầu của nhân dân cần phải được định hướng lãnh
đạo và tổ chức trong một tổ chức thống nhất, mới tạo nên được sức mạnh, mới tạo
nên được kết quả trong thực tiễn xã hội, tức là nhân dân cần có lãnh đạo để thực
20
hiện được ý chí, nguyện vọng của mình. Bởi thế mà cần có những “con người sử
dụng lực lượng thực tiễn” trong một tổ chức cách mạng. Muốn như vậy thì những
cá nhân và tổ chức ấy phải là những cá nhân và tổ chức cách mạng, phải thực sự
trong sạch và phải là tổ chức đại diện cho lợi ích chân chính của nhân dân. Nếu
làm khác đi thì trước sau nó sẽ tự phủ định. Chính đó cũng là những yêu cầu đặt ra
trong mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân mà Đảng ở đây được thể hiện ở tổ chức
bộ máy của Đảng và ở từng cán bộ, đảng viên.
Đảng ta luôn khẳng định giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là
lực lượng nòng cốt của cách mạng, Đảng phải thu hút, tập hợp những phần tử ưu tú
của công nhân, nông dân và trí thức đứng trong tổ chức Đảng. Để đảm đương được
nhiệm vụ và thực hiện được vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải liên hệ mật thiết
với nhân dân. Cần đề phòng khắc phục bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia
trưởng ở những cán bộ, đảng viên, nhất là ở những người cán bộ lãnh đạo các cấp
vì đó là những nhân tố, những tác nhân có thể làm rạn nứt, sói mòn mối liên hệ mật
thiết vốn có giữa Đảng với nhân dân. Tổng kết để rút ra những bài học kinh
nghiệm của đổi mới, Đại hội IX của Đảng đã rút ra bài học: “đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, Tr81)
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân có cơ sở khách quan qui định từ nền
tảng cốt lõi của nó, đó là sự thống nhất giữa mục tiêu và lợi ích.
Mục tiêu của Đảng và của dân tộc, của nhân dân là thống nhất. Đó là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khát khao ngàn đời của dân tộc là độc lập dân tộc và
chỉ thực hiện được độc lập dân tộc thì mới có điều kiện để thực hiện ấm no, hạnh
phúc và công bằng. Trải qua hàng ngàn năm bị xâm lược, đô hộ, thống trị của bọn
phong kiến, đế quốc ngoại bang, khát vọng của dân tộc ta là độc lập, là thoát khỏi
cảnh nô lệ của kẻ thù ngoài nước. Chỉ có độc lập dân tộc thì mới có điều kiện để có
tự do, hạnh phúc, nên nhân dân ta kiên trì cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, không
quản hy sinh, gian khổ. Nhưng chỉ đến khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
thì khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mới được thực hiện. Mục tiêu
của Đảng phù hợp với nguyện vọng cơ bản của dân tộc.
- Xem thêm -