Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn đặc điểm thơ phạm quốc ca...

Tài liệu Luận văn đặc điểm thơ phạm quốc ca

.PDF
124
99
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LƯU THỊ TUYẾT NHUNG ĐẶC ĐIỂM THƠ PHẠM QUỐC CA LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LƯU THỊ TUYẾT NHUNG ĐẶC ĐIỂM THƠ PHẠM QUỐC CA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lưu Khánh Thơ THÁI NGUYÊN - 2019 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố. Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Lưu Thị Tuyết Nhung ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan tâm, động viên, giúp đỡ từ các thầy cô, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp. Trước hết, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Lưu Khánh Thơ, người hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ, Nhà thơ Phạm Quốc Ca đã tận tình giúp đỡ tôi về thông tin tư liệu và góp nhiều ý kiến quý báu để thực hiện luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu cùng toàn thể các thầy cô giáo Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tuy đã cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quý thầy cô, những người quan tâm đến đề tài, đồng nghiệp và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp để luận văn được hoàn thiện. Xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Lưu Thị Tuyết Nhung Tiến sĩ, Nhà thơ Phạm Quốc Ca iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................ii MỤC LỤC ......................................................................................................................iii MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 1 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 6 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6 5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................... 8 6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................... 8 7. Đóng góp của luận văn ................................................................................................ 8 NỘI DUNG…………………………………………………………….………………..9 Chương 1: THƠ PHẠM QUỐC CA TRONG DÒNG CHẢY THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI .................................................................................................................................. 9 1.1. Khái quát thơ Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay ................................................. 9 1.2. Phạm Quốc Ca – cuộc đời và văn nghiệp ............................................................... 14 1.2.1.Vài nét về tiểu sử nhà thơ Phạm Quốc Ca ............................................................ 14 1.2.2. Quan niệm thơ của Phạm Quốc Ca ..................................................................... 17 1.2.3. Hành trình thơ Phạm Quốc Ca ............................................................................ 21 Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 23 Chương 2: NỘI DUNG TRỮ TÌNH THƠ PHẠM QUỐC CA ..................................... 24 2.1. Thơ thể tài lịch sử dân tộc của Phạm Quốc Ca ....................................................... 24 2.1.1.Thơ sử thi giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước........................................ 24 2.1.2. Thơ tái hiện chiến tranh sau 1975 ....................................................................... 28 2.1.3.Thơ về quê hương, đất nước ................................................................................. 30 2.2. Thơ trữ tình đời tư................................................................................................... 36 2.2.1.Thơ tình yêu .......................................................................................................... 36 2.2.2.Thơ về gia đình ..................................................................................................... 44 2.3. Thơ thế sự ............................................................................................................... 55 2.3.1. Thơ hiện thực thế sự............................................................................................. 55 2.3.2. Thơ trào lộng thế sự ............................................................................................. 62 Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 65 iv Chương 3: THƠ PHẠM QUỐC CA TỪ GÓC NHÌN NGHỆ THUẬT ........................ 66 3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................................... 66 3.1.1. Thời gian hiện tại ................................................................................................. 66 3.1.2. Thời gian quá khứ ................................................................................................ 69 3.1.3. Thời gian tương lai .............................................................................................. 73 3.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................................ 75 3.2.1. Không gian chiến trận ......................................................................................... 76 3.2.2. Không gian làng quê ............................................................................................ 80 3.2.3. Không gian đời tư ................................................................................................ 83 3.3. Ngôn ngữ thơ .......................................................................................................... 85 3.3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh ...................................................................................... 85 3.3.2. Ngôn ngữ lạ hóa, giàu tính sáng tạo.................................................................... 87 3.4. Giọng điệu ............................................................................................................... 91 3.4.1. Giọng điệu hùng tráng ......................................................................................... 92 3.4.2. Giọng điệu cảm thương ....................................................................................... 93 3.4.3. Giọng điệu yêu thương, ngọt ngào....................................................................... 95 3.4.4. Giọng điệu suy tư, triết lý .................................................................................... 96 3.4.5. Giọng điệu cay đắng ............................................................................................ 97 3.4.6. Giọng điệu hài hước ............................................................................................ 98 3.5. Các thủ pháp nghệ thuật.......................................................................................... 99 3.5.1. So sánh ................................................................................................................. 99 3.5.2. Nhân cách hóa ................................................................................................... 103 3.5.3. Cường điệu......................................................................................................... 106 3.5.4. Sử dụng từ láy .................................................................................................... 108 KẾT LUẬN.................................................................................................................. 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 113 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lực lượng sáng tác thơ đông đảo, nhiều thế hệ của nền thơ đương đại Việt Nam, Phạm Quốc Ca là một trong những nhà thơ có nhiều thành tựu, được đông đảo bạn đọc yêu mến. Thơ Phạm Quốc Ca đằm sâu vẻ đẹp tâm hồn người lính không chỉ trong chiến tranh mà còn trong cả cuộc sống thường ngày với bao trăn trở, suy tư, chiêm nghiệm. Thơ ông vừa phát huy những vẻ đẹp truyền thống, vừa nỗ lực cách tân, tạo nên một phong cách độc đáo. Đọc thơ Phạm Quốc Ca, ta bắt gặp một trí tuệ mẫn tiệp, một tâm hồn chan chứa tình người, tình đời, một giọng thơ đa thanh, đa sắc. Có những bài thơ của ông khiến ta lặng người, rưng rưng cảm xúc. Đến với thơ ông, người đọc cảm thấy xốn xang như bắt gặp những suy tư, trăn trở, những cảm xúc của chính mình. Thơ Phạm Quốc Ca giản dị, thâm trầm, sâu sắc, được chắt lọc từ chính cuộc đời người lính, người thầy giáo, người nghệ sĩ ngôn từ. Thơ ông được các nhà thơ, nhà phê bình có uy tín đánh giá cao, được nhiều bạn đọc yêu quý, mến mộ. Tìm hiểu thơ Phạm Quốc Ca- thơ của một người lính chống Mỹ, một trí thức trong giai đoạn Đổi mới sẽ có nhiều điều bổ ích và thú vị. Vì những lẽ trên, chúng tôi chọn đề tài "Đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca" cho luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Lịch sử vấn đề Thơ Phạm Quốc Ca đã được các nhà phê bình, các nhà thơ danh tiếng như: Chế Lan Viên, Thanh Thảo, Nguyễn Bùi Vợi, Nguyễn Trọng Tạo, Lò Ngân Sủn, Trịnh Thanh Sơn… đồng cảm, tri âm và đánh giá cao. Sau đây là những ý kiến tiêu biểu: 2.1.Về các tập thơ của Phạm Quốc Ca Trong lời tựa tập thơ đầu tay Tiếng trầm (Sở Văn hoá- Thông tin Lâm Đồng, 1984), Nhà thơ Thanh Thảo đã tinh tế nhận ra một nét đặc điểm phong cách đáng quý:“Thơ Phạm Quốc Ca chuộng những màu đạm, những nét thanh. Mỗi bài thơ với 2 mức độ thành công khác nhau đều là một giao tiếp chân tình, một lời thủ thỉ. Mong thơ anh cứ như bông hoa đồng nội giản dị với hương thơm kín đáo” [5]. Nhà phê bình Trần Thanh Đạm đánh giá cao đặc điểm trữ tình nồng hậu, gây xúc động sâu sắc của tập thơ:“Đọc thơ Phạm Quốc Ca tôi thấy những người tuyển chọn và trao giải thưởng cho thơ anh quả là biết người, biết thơ. Tôi đã đọc một mạch tập thơ "Tiếng trầm" và đã ngồi lặng đi hồi lâu vì xúc động…. Quả thật ở anh tôi đã gặp một nhà thơ, một tâm hồn chân thành, nồng hậu và cao quý” [20]. Chân trời mở (Nxb Văn hoá- Thông tin, 1994) là tập thơ được Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao Tặng thưởng hạng B năm 1995. Trong bài viết “Chân trời mở từ những câu thơ”, Nhà thơ Lò Ngân Sủn đã chỉ ra một số đặc điểm đáng quý. Nổi bật hơn cả là sự hài hoà cảm xúc và trí tuệ:“Thơ Phạm Quốc Ca đằm sâu suy tưởng, dồi dào vốn sống, bố cục chặt chẽ, câu chữ chính xác, đề tài đa dạng, phong phú. Đó là thơ của người có tình, luôn chìm đắm trong dạt dào cảm xúc. Đó là thơ của người có học, hiểu biết sâu rộng” [58]. Làng trong nỗi nhớ (Nxb Thanh niên, Hà Nội,1996) là tập thơ về đề tài quê hương. Nhà thơ Vương Tùng Cương đã có nhận xét: "Với Phạm Quốc Ca, điểm xuất phát và luôn trở về của thơ anh là làng quê ven sông Bùng, Diễn Châu, xứ Nghệ. Ta thấy rõ bản ngã thi nhân, một người con luôn trân trọng những kỷ niệm chốn quê như báu vật riêng mình. Chính tình cảm và lẽ sống ấy đã tạo cho tác giả nguồn cảm hứng thi ca dồi dào”[9, tr. 8]. Tập thơ Những cánh rừng những bài ca (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004) được trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng lần thứ I, 2013. Nhà phê bình Trịnh Thanh Sơn đã chỉ ra đặc điểm của thơ Phạm Quốc Ca là nhiều nghĩ suy, chiêm cảm:“Có thể thấy qua“Những cánh rừng những bài ca” một hồn thơ nhiều chiêm cảm, mực thước mà tài hoa, rưng rưng nỗi niềm thường nhật mà suy tưởng đằm sâu. Thơ Phạm Quốc Ca lặng lẽ đi vào lòng người, không ồn ã mà thấm thía, cẩn trọng mà dịu dàng, minh triết mà dân dã, hồn nhiên. Thơ ấy là thơ của một người thơ thứ thiệt, có thể đồng hành cùng thơ trong một tin cậy dài lâu”[57]. 3 Phạm Quốc Ca đã có một tập thơ riêng về chủ đề tình yêu là Thơ viết trong album (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2010). Về tập thơ này, Nhà thơ Vương Tâm đã viết:“Phạm Quốc Ca đã bày tỏ thật nhiều điều ẩn chứa trong tim… Thơ tình của anh vừa thanh thoát, lãng mạn dành cho tình yêu của mọi lứa đôi, vừa gần gũi tình vợ chồng”[61]. Cơn mưa mạ vàng (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2018) là tuyển tập thơ sau gần năm mươi năm sáng tác của Phạm Quốc Ca. Trong lời giới thiệu tập thơ, Nhà thơ Vương Tùng Cương đã chỉ ra nét phong cách nổi bật: “ Vốn sống, vốn tri thức phong phú, niềm đam mê và lao động sáng tạo nghệ thuật nghiêm túc đã hình thành ở Phạm Quốc Ca một hồn thơ đa sắc, giàu nội lực… Nhưng điều quan trọng hơn cả là Phạm Quốc Ca đã khẳng định được bản sắc riêng, cốt lõi trên con đường thơ của mình. Nói một cách nôm na là một tạng thơ đã được xác lập- đó là bình dị mà ám ảnh”[9, tr. 6,7]. Gần đây nhất, ngày 17.10.2018, Phạm Tuấn Vũ với bút danh Tư Hương có bài viết Một hồn thơ đằm sâu suy tưởng trên báo Bình Định.com.vn. Trong bài viết này, tác giả đã đánh giá: "Đọc "Cơn mưa mạ vàng"ta thấy một hồn thơ rộng mở, giàu cảm xúc nhưng cũng thật lắng sâu, đầy vẻ đẹp trí tuệ... Có thể nói "Cơn mưa mạ vàng" là thành quả ngọt ngào của gần năm mươi năm lao động nghệ thuật nghiêm túc và đam mê của Nhà thơ Phạm Quốc Ca. Tuyển tập thơ này có thể xem là chân dung toàn vẹn của “một hồn thơ bình dị mà ám ảnh” [70]. Thơ hài hước của Phạm Quốc Ca chưa được in thành tập nhưng nhiều bài đã được in trên các báo, tạp chí. Nhà thơ Hoàng Trọng Hà bất ngờ với gần trăm bài thơ vui và chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật gây cười:“Ngòi bút của Phạm Quốc Ca hết sức dí dỏm... Thơ hài của anh cô đọng, thường mỗi bài chỉ 4 hoặc 6 câu, mỗi câu 5, 6 từ. Mỗi bài thơ đều có cấu tứ chặt chẽ, chứa đựng sự bất ngờ. Chỉ qua mấy câu thơ ngắn gọn, vài chi tiết và từ ngữ độc đáo, anh đã tạo được tình huống gây cười”[28]. 2.2.Về những bài thơ hay của Phạm Quốc Ca Phạm Quốc Ca có nhiều bài thơ hay, trong đó một số bài đã được trao giải thưởng.Mỗi bài thơ hay của Phạm Quốc Ca có một vẻ riêng nhưng đều có nét chung là cấu tứ độc đáo. Nhà thơ Chế Lan Viên trong báo cáo chung khảo Cuộc thi thơ do 4 Hội Nhà văn và Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức năm 1981 đã nhận xét:"Từ cánh cổng hố bom" là một bài thơ có tứ hay, vì vậy viết về một đề tài cũ mà vẫn ánh lên những vẻ đẹp mới mẻ”[ 7, tr.55]. Trên báo Người Hà Nội ra ngày 24/10/2008, Nhà thơ Lý Hoài Xuân đã nhận xét: “Thơ Phạm Quốc Ca thấm đẫm tình yêu quê hương, tổ quốc, tình bạn và tình cảm gia đình ruột thịt. Bài thơ nào cũng có tứ, nhiều đoạn, nhiều câu thơ hay”[72]. Đọc bài thơ“Với các em tôi", Võ Vĩnh Khuyến trên tạp chí Văn nghệ Long An, số tháng 11- 2004, đã đánh giá cao nội lực sáng tạo của Nhà thơ Phạm Quốc Ca: “Một năng lượng tinh thần trầm tích, chất chứa bao năm chiêm nghiệm đã tạo nên sự thăng hoa trong cảm xúc…Bản lĩnh người lính đã tạo nên bản lĩnh ngòi bút. Phạm Quốc Ca đã chọn riêng cho mình một cách thể hiện vừa thâm trầm vừa sâu sắc. Nhưng trước hết và bao trùm là nhãn quan biện chứng trên cơ sở một tư duy sắc sảo, mẫn tuệ”. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã có lời bình rất hay bài thơ Ba cây thông và nhận xét: "Bài thơ kết cấu theo trục thời gian tuần tự nhưng thời gian nghệ thuật được đẩy dần lên tới đỉnh điểm qua từng nấc thang rất chắc chắn và sắc bén, gây bất ngờ cho người đọc. Bài thơ có tình thật, hình ảnh đẹp, pha thủ pháp của thơ siêu thực, ngôn ngữ giản dị mà xúc động lòng người" (Tuyển tập Văn học dân tộc và miền núi, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999). 2.3.Về các phương diện khác trong thơ Phạm Quốc Ca Nhà thơ Nguyễn Trọng Bản đã có bài viết Hình tượng người mẹ trong thơ Phạm Quốc Ca. Ông nhận xét về đặc điểm vừa cụ thể, sinh động, vừa khái quát: "Phạm Quốc Ca đã khắc tạc bằng ngôn ngữ thơ bức chân dung rất riêng về người mẹ của mình. Nhưng không chỉ thế. Là nhà thơ anh còn muốn vượt lên cái riêng để nói những điều có tính chất chung ở mọi người mẹ”[4]. Về ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca, Nhà thơ Vương Tùng Cương đã nhận xét: “ Ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca nghiêng về vẻ đẹp truyền thống dễ tiếp nhận. Sự chuyển tải nội dung trong thơ anh rất hiệu quả do ngôn ngữ giản dị nhưng là giản dị đầy tính nghệ thuật, sàng lọc, lựa chọn cẩn trọng. Từ ngữ trong thơ anh được đặt 5 đúng chỗ và thật đắt, mang lại hiệu quả bất ngờ, đột biến cho câu thơ, tạo dư ba, ám ảnh trong lòng người đọc”[9, tr.11]. Trần Huyền Nhung cũng đã nhận xét: “Điều làm tôi trân trọng nhất trong thơ anh là sự chân tình trong cảm xúc, là vẻ đẹp tinh tế đến độ tự nhiên của ngôn từ, không phô trương, đánh bóng câu thơ”[54]. Nhà thơ Lò Ngân Sủn tâm đắc với tính đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca:“Những câu thơ đã nói lên được nỗi niềm của tác giả, tôi chẳng biết nói gì thêm. Nhất là những câu thơ, những bài thơ chứa đựng trong đó nhiều tầng, nhiều nghĩa, đa phương, đa chiều mà chính tác giả chưa chắc đã hiểu hết được thơ mình. Bởi nếu thơ vừa đọc mà hiểu được ngay tất cả thì có lẽ chỉ là thơ bình dân chứ không phải thơ thâm trầm, bay bổng, sâu xa…Chân trời sáng tạo của Phạm Quốc Ca đã được mở ra từ những câu thơ như thế” [58]. Trong bài Người hoạ bức tranh quê bằng ngôn từ, Bùi Khánh Ly đã viết về đặc điểm giàu hình ảnh trong ngôn ngữ thơ ông:"Thơ Phạm Quốc Ca đa dạng về đề tài, phong phú về hình ảnh. Trong đó, bức tranh quê bằng ngôn từ của nhà thơ là một giá trị nghệ thuật thật đáng yêu, đáng quý… Tất cả được thể hiện trong những vần thơ thành bức tranh quê tuyệt đẹp"[48]. Năm 2009 Hồ Thị Hà (Trường Đại học Đà Lạt) làm Khóa luận tốt nghiệp Đại học với đề tài "Tìm hiểu thơ PhạmQuốc Ca". Khoá luận đã đề cập tới những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật cơ bản nhất của thơ Phạm Quốc Ca. Luận văn có đoạn: "Thơ Phạm Quốc Ca hay từ ý, tứ, điệu, tình. Hàng trăm bài thơ, mỗi bài mỗi vẻ, bài nào cũng có cái hay riêng với nhiều cách thể hiện đa dạng. Thơ Phạm Quốc Ca là thơ của tâm hồn yêu cuộc sống thiết tha, dù trong hoàn cảnh nào cũng le lói ánh sáng của niềm tin và hy vọng, tin tưởng vào tương lai cuộc đời, tương lai đất nước. Ánh sáng đó khi như ngọn đuốc không ngừng tỏa sáng, khi như đốm than hồng âm ỉ cháy trong đám tro tưởng chừng như nguội lạnh bên ngoài”[27]. Song khoá luận mới khảo sát 5 tập thơ, chưa có tuyển tập Cơn mưa mạ vàng(2018). Chúng tôi nhận thấy những gì khoá luận này đã viết vẫn chưa đủ để xứng tầm với những đóng góp của thơ Phạm Quốc Ca đối với nền thơ Việt Nam đương đại. 6 Những bài viết của các nhà thơ, nhà phê bình đều thể hiện cái nhìn tinh tế, sâu sắc và đồng cảm với thơ Phạm Quốc Ca, thống nhất đánh giá tài năng và ghi nhận những đóng góp của thơ ông. Song đó mới chỉ là những bài báo, những bài tiểu luận đánh giá về một bài thơ, một tập thơ, hoặc những vấn đề, đề tài cụ thể trong thơ Phạm Quốc Ca. Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống nào về thơ Phạm Quốc Ca. Trên cơ sở kế thừa những ý kiến nhận định sâu sắc, tinh tế của các nhà thơ, các nhà phê bình…với luận văn này chúng tôi muốn đóng góp những cảm nhận, suy nghĩ của riêng mình về thơ Phạm Quốc Ca một cách toàn diện và hệ thống hơn. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là thơ Phạm Quốc Ca được tác giả tuyển chọn trong Cơn mưa mạ vàng, tuyển tập thơ 1970- 2017 (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2018). 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là chỉ ra được những đặc điểm của thơ Phạm Quốc Ca cả về nội dung và hình thức nghệ thuật, đồng thời khẳng định một phong cách thơ giàu bản sắc, đóng góp xứng đáng vào nền thơ Việt Nam đương đại. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi cần phải đọc kỹ các tập thơ Phạm Quốc Ca, đặc biệt là tập Cơn mưa mạ vàng, tuyển thơ 1970-2017(Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2018).Các con số thống kê, phân loại dựa trên tuyển tập thơ này. Chúng tôi cũng phải đọc hai tập tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học của Phạm Quốc Ca: Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000 (2003), Thơ và mấy vấn đề văn học (2016). Trong đó, ông có nhiều ý kiến, quan niệm về thơ rất sâu sắc, giúp soi sáng nhiều vấn đề liên quan đến đề tài. Chúng tôi cũng cần đọc và khảo sát các công trình nghiên cứu, các bài tiểu luận, các bài báo viết về Phạm Quốc Ca và về thơ ông. 7 Phần việc chính là tìm hiểu đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca trên phương diện nội dung trữ tình, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu…và chỉ ra được đóng góp của thơ Phạm Quốc Ca đối với nền thơ đương đại Việt Nam. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: - Phương pháp nghiên cứu văn hóa - lịch sử Đây là phương pháp lấy trạng thái văn hóa - lịch sử của dân tộc trong một thời đại nhất định để soi sáng những vấn đề văn học cần nghiên cứu. Chúng tôi sẽ vận dụng phương pháp này để phân tích thơ viết về chiến tranh, về cuộc sống hậu chiến, mở cửa, Đổi mới…của Phạm Quốc Ca. - Phương pháp nghiên cứu, phê bình tiểu sử Phương pháp nghiên cứu, phê bình tiểu sử lấy việc tìm hiểu con người tác giả để tìm hiểu tác phẩm. Phương pháp này coi nhà văn, nhà thơ là một cá tính độc đáo, một cái tôi sống động, hấp dẫn, thậm chí là đặc biệt. Chúng tôi sẽ vận dụng phương pháp này để tìm hiểu, phân tích thơ Phạm Quốc Ca theo từng giai đoạn gắn với những sự kiện trong cuộc đời nhà thơ. - Phương pháp loại hình Phương pháp này tập hợp các sự kiện có chung đặc điểm nào đó. Khoa học nghiên cứu về loại hình giúp cho việc phân tích các hiện tượng phức tạp một cách hợp lí. Chúng tôi sẽ vận dụng vào phân loại các tác phẩm theo từng nội dung trữ tình của tác giả. - Phương pháp thi pháp học Thi pháp học là phương pháp nghiên cứu hình thức mang tính quan niệm của văn học. Vận dụng phương pháp này chúng tôi sẽ chỉ ra nét riêng của thơ Phạm Quốc Ca về phương diện nghệ thuật. - Phương pháp nghiên cứu hệ thống 8 Đây là phương pháp tập hợp nhiều yếu tố cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ chặt chẽ với nhau để kết thành hệ thống hoàn chỉnh, nhìn các yếu tố nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác ở một hệ thống để có sự thống nhất thể hiện trên nhiều cấp độ, bình diện. Từ đó thấy được nội dung trữ tình cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, đặc điểm ngôn ngữ, giọng điệu của thơ Phạm Quốc Ca. 5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là tập Cơn mưa mạ vàng, tuyển thơ 1970-2017 của nhà thơ Phạm Quốc Ca. Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi tiến hành khảo sát thống kê, phân loại các sáng tác của Phạm Quốc Ca từ tuyển tập Cơn mưa mạ vàng. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương chính: Chương 1. Thơ Phạm Quốc Ca trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại Chương 2. Nội dung trữ tình thơ Phạm Quốc Ca Chương 3. Thơ Phạm Quốc Ca từ góc nhìn nghệ thuật 7. Đóng góp của luận văn Với đề tài“Đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca”, luận văn của chúng tôi muốn đóng góp một cách nhìn, cách cảm nhận mới và có hệ thống về thơ Phạm Quốc Ca trong suốt chặng đường sáng tác gần 50 năm của nhà thơ. Luận văn tìm hiểu, phân tích làm rõ sự vận động thống nhất của thơ Phạm Quốc Ca trên cả hai phương diện nội dung, nghệ thuật. Từ đó góp tiếng nói khẳng định phong cách và những đóng góp của thơ Phạm Quốc Ca đối với nền thơ đương đại nước nhà. 9 NỘI DUNG Chương 1 THƠ PHẠM QUỐC CA TRONG DÒNG CHẢY THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI Sáng tác của nhà văn, nhà thơ bao giờ cũng chịu sự chi phối của hoàn cảnh văn hoá - lịch sử của thời đại và bối cảnh của giai đoạn văn học ấy. Vì vậy, trước khi tìm hiểu đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca cần phác họa khái quát diện mạo thơ giai đoạn ông tham gia sáng tác để có thể "vừa thấy cây vừa thấy rừng". 1.1. Khái quát thơ Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay Ngày 30.4.1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được toàn thắng. Sau hơn ba mươi năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Việt Nam được sốngtrong niềm vui thống nhất, độc lập, tự do.Đất nước bước sang trang sử mới. Nhưng không bao lâu sau, chúng ta lại phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979). Từ 1986 Việt Nam tiến hành sự nghiệp Đổi mới, hoà nhập với đời sống quốc tế. Trong thời kỳ chiến tranh, mọi vấn đề của cuộc sống lùi lại nhường chỗ cho vấn đề có ý nghĩa trọng đại của dân tộc là độc lập, tự do. Trong thời bình, những quy luật vốn có của nó đã tác động mạnh mẽ đến lối sống, cách nghĩ, mối quan hệ nhân sinh, xã hội của con người. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều đổi mới trong lãnh đạo. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đáp ứng thực tế yêu cầu của cuộc sống và sự vận động khách quan của quy luật kinh tế - xã hội đất nước ta lúc bấy giờ. Đối với lĩnh vực văn nghệ, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Đổi mới và nâng cao sự lãnh đạo về quản lý văn hóa văn nghệ lên một bước cao hơn”. Đổi mới là nhu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước. Nghị quyết chỉ rõ cần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Bên cạnh đó, nhà nước chủ trương mở cửa hội nhập, giao lưu rộng rãi với các nước trên thế giới. Điều đó đã tạo điều kiện cho giới văn nghệ sĩ tự do sáng tạo. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống, 10 nhà văn và bạn đọc, tiếp nhận văn học có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Hơn ba mươi năm qua, văn học Việt Nam đã có nhiều đổi mới trên mọi bình diện, đạt được nhiều thành tựu đáng phấn khởi, bắt kịp với xu thế văn học thế giới. Trong quá trình đổi mới đó,“Thơ bao giờ cũng là một thể loại mạnh, luôn chiếm ngôi vị đầu bảng” (Đỗ Lai Thúy). Trước hết phải nói đến sự đổi mới về tư duy thơ. Đổi mới tư duy thơ là nền tảng, gốc rễ của mọi sự cách tân, đổi mới thơ. Sau 1975, đặc biệt là sau 1986 đã hình thành một hệ hình nhận thức, sáng tạo mới trong thơ. Tinh thần Đổi mới tạo cơ sở cho dân chủ hóa trong đời sống văn học. Cảm hứng thế sự và đời tư trở thành chủ đạo, phổ biến. Văn học không chỉ là tiếng nói chung của thời đại, của cộng đồng mà còn là phát ngôn của mỗi cá nhân. Văn học khám phá thực tại đa chiều, thức tỉnh ý thức về sự thật, có vai trò dự báo, dự cảm. Vì thế thơ trở về cuộc sống bình dị, nhằm tìm kiếm trong cái hằng ngày, cái đời thường một diện mạo mới, chân thực hơn. Cũng do vậy, thơ có khả năng đi sâu vào cuộc sống với những thân phận, số phận đơn lẻ, nhiều ẩn ức, tâm sự. Nhà thơ cũng khao khát tìm kiếm diện mạo cá nhân trong những tương quan và chiều kích của văn hóa, lịch sử, mỹ học… Đây là lý do giải thích vì sao thơ của thế hệ sau 1975 trở nên giàu tính tư tưởng - triết luận hơn so với trước đó. Hiện thực trong thơ ca giai đoạn trước chủ yếu là hiện thực chiến đấu và lao động sản xuất. Đến giai đoạn này, văn học quan niệm hiện thực chủ yếu là đời sống thế sự. Hiện thực phải có tính chất toàn vẹn, nhiều mặt, không chỉ là cái bên ngoài dễ nhìn thấy mà còn là cái bên trong, hiện thực của đời sống tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của con người… Hiện thực được nhìn nhận trong mối quan hệ đa chiều phong phú, phức tạp chằng chịt như chính cuộc sống. Mọi ngõ ngách của cuộc sống được soi rọi và phản ánh trong văn học. Con người được phản ánh với những suy tư, trăn trở đời thường thời hậu chiến với vô vàn khó khăn, thiếu thốn: Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo 11 Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình. (Nhà chật- Lưu Quang Vũ) Hiện thực còn là đời sống cá nhân của con người. Con người trở thành trung tâm phản ánh của văn học. Trong giai đoạn kháng chiến, con người được phản ánh trong thơ là con người sử thi, con người cộng đồng. Văn học sau 1975, nhất là sau 1986 phản ánh con người ở nhiều khía cạnh trong mối quan hệ với cộng đồng, bi kịch cá nhân hậu chiến, cả những uẩn khúc trong đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm linh. Đánh thức tiềm lực (1982) của Nguyễn Duy, Khoảng cách giữa lời (1983) của Bằng Việt, Bài thơ không năm tháng (1983) của Lâm Thị Vĩ Dạ, Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi…. là những tác phẩm tiêu biểu. Nhiều nhà thơ quan niệm thơ là tiếng nói tâm linh bí ẩn, là dòng chảy của tiềm thức. Thế giới tâm linh của con người vốn bí ẩn và đầy phức tạp được chuyển tải qua những ký hiệu ngôn từ đa nghĩa. Nhiều bài thơ thăm dò cõi sâu vô thức, cõi bí ẩn của tâm linh con người. Con người trong thơ giai đoạn này hiện lên trong nhiều vị thế, nhiều mối quan hệ, không là nhất phiến mà là con người đa diện, đan xen tốt, xấu, "rồng phượng và rắn rết, thiên thần và ác quỷ" (chữ dùng của Nguyễn Minh Châu). Từ quan điểm mỹ học đó, Lê Ngọc Trà khẳng định: “Trong cuộc chạy đua ồ ạt của nhân loại về tương lai, nhà văn không được quyền chỉ vỗ tay hoan hô mà còn phải cảnh tỉnh, không có quyền chỉ chào đón những người anh hùng đang có đầy triển vọng mà còn phải nhìn thấy trước và báo động về nguy cơ cái xấu đang về đích trước hay cùng lúc với cái đẹp. Đó là nghĩa vụ xã hội độc đáo của văn học”[60]. Tác giả có giọng thơ sử thi cường tráng nhất là Tố Hữu cũng đã chuyển dòng cảm hứng. Với giọng thơ thế sự, ông than thở tình người đen bạc, thay đổi khôn lường. Ông băn khoăn trước lối sống thực dụng đang tràn ngập mọi hang cùng ngõ hẻm: Đời đâu phải thị trường nhân phẩm Gian ác mang mặt nạ thánh hiền Tình nghĩa cũng theo thời lạnh ấm 12 Bạc vàng đo giá trị, sang hèn? (Chân trời mới) Thơ sau Đổi mới thường mang âm hưởng buồn. Những nỗi buồn của con người rất đa dạng. Chủ thể trữ tình thường tách mình ra khỏi cộng đồng, mang cảm giác cô đơn. Cái tôi trữ tình nhận ra sự nhỏ bé của mình: Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình Nhân danh một chính mình tồn tại (Thạch Quỳ) Trong thơ còn xuất hiện những nỗi buồn rất khó gọi tên, khó diễn tả, phức tạp, bí ẩn như: Nhiều khi nỗi buồn của tôi như sợi len dài Quấn xiết vào trái tim hỗn loạn (Nỗi buồn của chiếc bóng- Phạm Thị Ngọc Liên) Tóm lại, sau 1975 với sự chuyển biến của lịch sử xã hội, văn học nói chung, thơ nói riêng có những đổi mới đáng kể trong tư duy về chủ thể sáng tạo cũng như cách nhìn nhận hiện thực, con người. Điều đó đã đem đến những thành tựu mới. Mỗi nhà thơ giai đoạn này đều khao khát tìm kiếm, thể hiện và khẳng định giọng điệu riêng, phong cách riêng. Người cầm bút có nhu cầu tìm kiếm một lối viết mới phù hợp với quan niệm và nhận thức mới về thơ. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ được đề cao. Ý thức cách tân, đổi mới về hình thức nghệ thuật ở nhiều nhà thơ thật mạnh mẽ, quyết liệt. Trước đây, người ta thường xem thơ như là một phương tiện để chuyển tải tư tưởng tình cảm. Nay, có nhà thơ quan niệm “Thơ là trò chơi chữ nghĩa”. Giá trị của bài thơ nằm ở sự mới lạ về hình thức nghệ thuật. Những người nỗ lực cách tân theo hướng thơ hiện đại là:Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Dương Tường, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn… 13 Họ không còn coi trọng vấn đề văn học phản ánh hiện thực, không quan tâm tới nghĩa đen của câu chữ. Nhiều nhà thơ không bằng lòng với những con chữ có sẵn xưa nay. Họ sáng tạo ra những con chữ mới, mặc cho nó vô nghĩa, lệch chuẩn, bụi bặm… Trong bài Noel 1: Nen ren em quen Em về phố lặng Lòng đổ chuông llềnh lluềnh nước Dương Tường sáng tạo ra một kiểu thơ có thể cảm thụ bằng nhiều giác quan. Có nhiều từ lạ lẫm (trong từ điển tiếng Việt chưa có) để mô phỏng âm thanh của phố xá. Cách sắp xếp độ dài ngắn các câu cũng tạo ra những ấn tượng thị giác, kích thích trí tò mò của người tiếp nhận. Đi đôi với việc đổi mới ngôn ngữ thơ là sự mở rộng quan niệm về thể loại thơ. Thể thơ lục bát vẫn tiếp tục được sáng tác nhưng biến thể rất nhiều. Thể thơ tự do được sử dụng phổ biến. Sự sáng tạo thể thơ tự do chủ yếu thể hiện ở lối vắt dòng, ngắt nhịp và tạo hình cho bài thơ. Thơ Haiku vốn là một thể thơ truyền thống của Nhật Bản nhưng ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã vận động sáng tác một thể loại mới là thơ Haiku Việt. Thơ văn xuôi đã được sáng tác từ Phong trào Thơ mới 1932-1945. Từ Đổi mới, thơ văn xuôi phát triển mạnh mẽ và có nhiều hình thức tồn tại, rất đa dạng: Nhân chứng của một cái chết (Nguyễn Quang Thiều), Ô mai (Đặng Đình Hưng), Bài thơ hai từ (Trần Tiến Dũng), Mười bài tập mùa xuân (Mai Văn Phấn), Phóng đãng của trí nhớ (Nguyễn Quốc Chánh)… Về mặt kết cấu, phổ biến trong thơ thế hệ Đổi mới là kiểu kết cấu mở, câu chữ, hình ảnh được lắp ghép một cách như là ngẫu nhiên, phi logic, tạo nên nhiều “khoảng trắng” trong xúc cảm và liên tưởng. Bài thơ thường được tổ chức theo hướng vận động của vô thức, trực giác... Đấy là một kiểu kết cấu hiện đại, ở đó bài thơ được tổ chức như một cấu trúc vận động, không mang tính hoàn tất, khép kín về nghĩa như trong kết cấu truyền thống. Tiêu biểu như: Hồi tưởng (Nguyễn Quang Thiều), Biến
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan