Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn dấu ấn chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết của nhà văn thuận...

Tài liệu Luận văn dấu ấn chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết của nhà văn thuận

.PDF
98
117
103

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- VÕ THỊ THU DẤU ẤN CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ VĂN THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- VÕ THỊ THU DẤU ẤN CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ VĂN THUẬN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Dục Tú Hà Nội-2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1 1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………….1 2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………… 2 3. Mục đích nghiên cứu………………………………............................ 12 4. Phạm vi nghiên cứu……………………………..……………….…... 12 5. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………………...…... 12 6. Cấu trúc luận văn…………………………………………………..... 13 Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ HẬU HIỆN ĐẠI – DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN CHƢƠNG VIỆT NAM………………………………………...14 1.1 Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại……………………………..…… 14 1.1.1 Lai lịch thuật ngữ hậu hiện đại………………………………..….. 14 1.1.2 Các tƣ tƣởng cơ bản và đặc điểm sáng tác hậu hiện đại trong văn chƣơng……….……………………………..………………………………………...17 1.2 Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam……………….……. 28 1.2.1 Điều kiện hậu hiện đại trong văn hóa – nghệ thuật Việt Nam……..…….. 28 1.2.2 Dấu hiệu hậu hiện đại trong đời sống văn chƣơng Việt Nam đƣơng đại….. 31 Chƣơng 2: TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN – SỰ THAY ĐỔI KHUNG TỰ SỰ TRUYỀN THỐNG…………………………………………………………..… 39 2.1 Cốt truyện phân rã…….…………………………………………….. 39 2.1.1 Cốt truyện mảnh vỡ……….……………………………………….. 39 2.1.2 Cốt truyện “mất tích” ……………………………………………. 46 2.2 Nhân vật – truy tìm bản thể ý nghĩa cá nhân ………………….…...50 2.2.1 Cái tôi cô đơn giữa hiện thực thậm phồn……………………………..50 2.2.2 Nhân vật – phi nhân vật…………………………………………. .56 Chƣơng 3: TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN – NHẠI VĂN VÀ PHỨC HỢP THỂ LOẠI……………………………………………………………………………. 66 3.1 Nhại văn………………………………………………………………..66 3.1.1 Nhại tự truyện của Duras……………………………………….....66 3.1.2 Nhại tiểu thuyết trinh thám……………………………………….. 73 3.2 Phức hợp thể loại……………………………………………………..81 3.2.1 Tiểu thuyết trong tiểu thuyết………………………………………. 81 3.2.2 Báo chí trong tiểu thuyết…………………………………………..86 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Chủ nghĩa hậu hiện đại (post modernism) là khái niệm đang ngày càng phổ biến trên toàn thế giới. Như một sự phản biện chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XX ở châu Âu với tư cách là một trào lưu văn hóa và xác lập một hệ chuẩn tư duy mới trên nhiều lĩnh vực: triết học, văn hóa, giáo dục, văn chương, hội họa, âm nhạc… Được sản sinh và phát triển trên mảnh đất Âu Mĩ, chủ nghĩa hậu hiện đại đã chứng tỏ tính ưu việt của nó khi xâm nhập vào các nước phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… rồi ngày càng lan rộng khắp thế giới. Có thể nói, trong hơn 50 năm qua, chủ nghĩa hậu hiện đại đã trở thành “tài sản chung” của nhân loại. Nó thẩm thấu rất sâu vào nếp nghĩ, nếp cảm, nếp sống của các quốc gia, các dân tộc và vẫn đang được tái tạo liên tục, phản biện liên tục. Trên lĩnh vực văn học, Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một trào lưu phát triển mạnh mẽ với các tên tuổi lớn như Umberto Eco, Louis Borge, Italo Calvino…, nó đem lại hương sắc mới, sự cách tân mới mẻ trên các phương diện nội dung và hình thức. 1.2 Trong bối cảnh hội nhập thế giới trên nhiều mặt, đặc biệt về văn hóa, văn học Việt Nam đã và đang có những chuyển động để hòa nhập với không khí chung này như một vận động tất yếu của sự phát triển. Hành trình này buộc văn học Việt Nam có nhu cầu và phải học hỏi những kinh nghiệm nghệ thuật mới của nhân loại để tồn tại và phát triển. Không khí dân chủ càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi, tìm tòi và tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, trong đó có Chủ nghĩa hậu hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại cũng được coi là một trong những công cụ để góp phần giải mã những quy luật vận động của những hiện tượng văn học Việt Nam đương đại. 1.3 Cùng với những tên tuổi khác, Thuận thuộc vào bộ phận thế hệ nhà văn mới, giàu tiềm năng sáng tạo, dồi dào bút lực và sẵn sàng chịu mạo hiểm để cách tân. Gây “xôn xao” bằng việc cho ra đời liên tiếp 5 cuốn tiểu thuyết: Made in Việt Nam (2003); Chinatown (2005), Paris 11 tháng 8 (2005); T mất tích (2007) và gần đây nhất là VânVy (2009), Thuận đã chứng minh được sức viết dồi dào của một cây bút dũng cảm và quyết liệt trong việc làm mới văn chương cũng như làm mới chính mình. Bằng chính những nỗ lực cách tân về kỹ thuật tự sự, quan niệm nghệ thuật mới mẻ về con người và cuộc đời, Thuận dã dần định hình cho mình một phong cách tiểu thuyết ấn tượng. Cho dù cô chưa bao giờ tuyên ngôn mình viết theo trào lưu hay chủ nghĩa nào, nhưng rõ ràng, với những gì cô thể hiện trong tác phẩm của mình, Thuận đã xuất hiện với tư cách là một nhà văn hậu hiện đại. Xuất phát từ mong muốn bước đầu tìm hiểu về chủ nghĩa hậu hiện đại và những dấu ấn của nó thể hiện qua các sáng tác của Thuận, để nhằm nhận diện một trào lưu lớn đang góp phần làm biến đổi diện mạo Văn học Việt Nam đương đại, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài Dấu ấn chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết của nhà văn Thuận. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Về tình hình dịch thuật và nghiên cứu chủ nghĩa hậu hiện đại Tại Việt Nam, thuật ngữ “hậu hiện đại” lần đầu tiên xuất hiện trong bản dịch của Nguyễn Trung Đức đăng trên Tạp chí Văn học số 5, năm 1991 có tên là Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của Antonio Blach. Sau đó, các tạp chí Văn học, Nhà văn, Văn học nước ngoài, Thông tin Khoa học xã hội đã in một số bài giới thiệu hoặc dịch thuật về Chủ nghĩa hậu hiện đại. Có thể kể đến như Sự suy tàn của phong trào tiền phong nghệ thuật hậu hiện đại (tác giả Luc Ferry, Tạp chí khoa học xã hội, số 2/1995, dịch giả Nguyễn Văn Dân); Về chủ nghĩa hậu hiện đại (John Verhaar, tạp chí Văn học, số 5/1997); Chủ nghĩa hậu hiện đại cuả tác giả Phương Lựu trên tạp chí Nhà văn số 7/2000… Năm 2003, Nhà xuất bản Hội nhà văn và Trung tâm Văn hóa Đông Tây tập hợp và tuyển chọn các bản dịch và bài nghiên cứu của các dịch giả và tác giả trong nước cũng như hải ngoại để in thành cuốn Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết (Lại Nguyên Ân, Đoàn Từ Huyến biên soạn). Cho đến nay, đây vẫn là chuyên luận lý thuyết hậu hiện đại dày dặn nhất ở Việt Nam. Đúng như lời giới thiệu của tác giả: Cuốn sách bước đầu giới thiệu với bạn đọc Việt Nam về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học thế giới, tập hợp những bài viết của các tác giả trong và ngoài nước đề cập đến các khía cạnh lý thuyết của một trào lưu rộng lớn và có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn nghệ thế giới ngày nay” [60;5]. Nhà xuất bản Hội nhà văn và Trung tâm Văn hóa Đông Tây cũng in kèm tuyển tập Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (Lê Huy Bắc tuyển chọn) với mục đích giới thiệu với bạn đọc thực tiễn sáng tác để kiểm chứng lý thuyết. Giáo trình Lý luận văn học – tập 3, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành (2006) của tập thể tác giả Phương Lựu, La Khắc Hòa, Trần Mạnh Tiến cũng dành một chương để nói về chủ nghĩa hậu hiện đại. Bên cạnh việc giới thiệu sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại, các tác giả còn tập trung làm rõ sự khác biệt của chủ nghĩa hậu hiện đại và hiện đại, đồng thời chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của phòng trào sáng tác hấp dẫn và mới mẻ này. Ở hải ngoại, trên Tạp chí Thơ, có một số bản dịch của Phan Tấn Hải như Giới thiệu thơ hậu hiện đại Hoa Kỳ của Paul Hoover (số 11/1997); Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương của Steven Connor (số 12/1998); Giới thiệu tiểu thuyết hậu hiện đại Hoa Kỳ trích từ cuốn Postmodern American Fiction: A Norton Anthology (số 14/1998). Trên tạp chí Việt số 5 (đầu năm 2000), có bài tiểu luận Viết, từ hiện đại đến hậu hiện đại của Hoàng Ngọc Tuấn. Cũng ở Hoa Kỳ, cuốn Văn học Việt Nam, từ điểm nhìn hiện đại (NXB Văn nghệ, 2000) của nhà nghiên cứu Nguyễn Hưng Quốc và cuốn Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sàng tác và góc nhìn lý thuyết (NXB Văn nghệ, 2002) của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn đã đưa ra những ý kiến sắc sảo và những kiến giải độc đáo về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương thế giới cũng như Việt Nam. Theo Nguyễn Hưng Quốc, chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam sẽ gồm ba nội dung chính: một, tiếp nhận chủ nghĩa hiện đại vừa như một khuynh hướng bản địa được hình thành qua các nỗ lực sáng tạo của giới cầm bút trong nước vừa như một di sản văn hóa của thế giới; hai, phản bác những nguyên tắc nhận thức và thẩm mỹ của (những) chủ nghĩa hiện đại ấy; cuối cùng, phản bác của thái độ cực đoan và duy lý trong chính sự phản bác ấy. Nói cách khác, chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, nếu có, chỉ là một kết hợp cùng lúc giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, trong đó, các yếu tố mang tính hậu hiện đại được đẩy lên thành yếu tố chủ đạo” [65]. Còn Hoàng Ngọc Tuấn lại cổ súy việc Tiến tới một nền văn chương Việt Nam hoàn cầu hóa [92]. Nhà nghiên cứu này đã chỉ ra nguyên nhân “tinh thần hậu thuộc địa và chủ nghĩa dân tộc cách ly khiến nhiều người dị ứng với những ý tưởng hiện đại và hậu hiện đại” và nhà văn trong thời đại mới phải là một công dân hoàn cầu “dứt khoát vứt bỏ cung cách tư duy chật hẹp của những người núp sau khung cửa dân tộc, vứt bỏ mặc cảm nhược tiểu, vứt bỏ mặc cảm tự tôn dân tộc theo kiểu cách ly chủ nghĩa, vứt bỏ những lối mòn vô dụng của những đường lối mỹ học hiện đại, và vứt bỏ những hàng rào hay song sắt của những ý thức hệ. Đồng thời, nhà văn phải tự nhận cho mình một nghĩa vụ mới: nghĩa vụ sáng tạo cống hiến cho hoàn cầu” [92]. Những nhận định của hai nhà nghiên cứu rất phù hợp với nhận định trên đây chúng tôi đã đề cập: kêu gọi các nhà văn Việt hãy tìm tòi, đổi mới để đưa nền văn học nước nhà hội nhập chung với không khí thời đại, thế giới. Tạp chí Văn học nước ngoài số 8 + 9/2004 có bài Hậu hiện đại được tác giả Diễm Cơ viết dựa trên Điều kiện hậu hiện đại: Bản tường trình về tri thức của Lyotard. Bên cạnh những công trình được in thành sách, trong những năm gần đây, trên nhiều diễn đàn, tạp chí, báo điện tử… những vấn đề về chủ nghĩa hậu hiện đại nói chung và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn học Việt Nam đương đại được nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm, trở thành những cuộc đối thoại rộng lớn trong đời sống văn học nước nhà. Báo Thể thao & Văn hóa (Thông tấn xã Việt Nam) số ra ngày 6/1/2004 đăng bài phỏng vấn nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn: Lối viết Hậu hiện đại sẽ trở nên phổ biến ở Việt Nam. Sau đó trên trang www.vnexpress.net đã đăng lại bài viết này với nhan đề Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn và văn học hậu hiện đại. Tác giả bài viết đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại từ góc độ khái niệm, cảm quan hậu hiện đại và ảnh hưởng của hậu hiện đại đến nghệ thuật và văn học. Trong bài viết này, tác giả Hoàng Ngọc Tuấn cho rằng: “Văn chương hậu hiện đại, do đó, là một tập hợp của những mảnh vụn. Có thể nói đa tâm điểm là một trong những đặc điểm nổi bật của văn chương hậu hiện đại. Không còn cố tình làm độc giả chìm đắm vào cái thế giới hư cấu của tác phẩm, nhà văn đặt người đọc vào một vị trí khách quan và tỉnh táo để nhìn thấy tác phẩm như một văn bản đúng nghĩa, một tác phẩm nghệ thuật hư cấu, như một trò chơi tự trình bày cách chơi của nó và mời gọi người đọc tham dự vào trò chơi ấy”. Là một người có nhiều năm nghiên cứu về văn học Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn dự đoán: “Tôi tin chắc rằng chẳng bao lâu nữa lối viết hậu hiện đại sẽ trở nên phổ biến ở Việt Nam”. Tác giả đã rất lạc quan khi “thấy có vài nhà văn Việt Nam đã sử dụng một số kỹ thuật viết hậu hiện đại, chẳng hạn kỹ thuật “nhại văn”, lối viết đa tuyến, phi tuyến, hiện thực kỳ ảo, vv và vv…”. Tuy nhiên, theo ông, những truyện ấy chưa thực sự là truyện hậu hiện đại, vì chưa thực sự chuyên chở cái cảm quan hậu hiện đại (…). “Các nhà văn Việt Nam sống ở nước ngoài có cơ hội thuận lợi hơn để tiếp nhận cái cảm quan hậu hiện đại vì họ sống ngay trong xã hội hậu hiện đại. Tuy thế, vẫn còn rất ít trong số họ thực sự có lối viết hậu hiện đại” [58]. Trên trang điện tử www.tienve.org, tác giả Lê Chí Dũng đã viết bài Phải chăng “chẳng bao lâu nữa lối viết hậu hiện đại sẽ trở nên phổ biến ở Việt Nam” như một sự phản biện, đối thoại với ý kiến của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn trên đây. Ông nói: “Chủ nghĩa hậu hiện đại với tư cách là một trào lưu văn học, không có tiền đồ ở Việt Nam” [17]. Ngay sau đó, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn đã trả lời Lê Chí Dũng bằng bài Chủ nghĩa hậu hiện đại có đáng sợ đến thế không?: Tôi chỉ tiên đoán rằng lối viết hậu hiện đại sẽ ngày càng được sử dụng ở Việt Nam dù kết quả sẽ là những tác phẩm không nhất thiết sẽ mang tinh thần hậu hiện đại thực sự (…). Tôi không bao giờ có hàm ý rằng chẳng bao lâu nữa xã hội hậu hiện đại sẽ hiện hữu ở Việt Nam (…). Tôi cũng không cho rằng chỉ đến lúc con người Việt Nam có cảm thức hậu hiện đại, hay đến lúc đất nước Việt Nam đã là một cơ sở xã hội – tâm lý hậu hiện đại, thì lối viết hậu hiện đại mới trở nên phổ biến (…). Nhà văn Việt Nam có thể bắt chước, vay mượn, hay sử dụng những lối viết từ nước ngoài mà không cần phải đợi đến khi đất nước Việt Nam có những điều kiện xã hội như ở nước ngoài” [91]. Trên báo điện tử www.vietnamnet.vn ngày 17/8/2006 có đăng tải bài viết Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta của tác giả Đông La. Tác giả đã đưa ra nhận định: “Tinh thần hậu hiện đại đã và đang phảng phất đâu đó trong văn chương Việt Nam cũng là lẽ thường tình, nhưng không có tài, không hiểu biết dến nơi đến chốn mà mê muội bắt chước thì chỉ làm ra được sản phẩm tồi mà thôi. Cũng như những nhóm cực đoan đúng là đã làm ra được những thứ văn chương hậu hiện đại thứ thiệt nhưng tiếc là chỉ mới ở dạng thấp nhất của nó” [45]. Ngày 3-4/11/2006, Hội thảo “Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế” do Viện Văn học phối hợp cùng Harvard – Yenching Institste (Hoa Kỳ) tổ chức, có một số bài viết ứng dụng lý luận hậu hiện đại để nghiên cứu văn học Việt Nam, như Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam trong tương quan so sánh loại hình với văn xuôi hậu hiện đại Nga (Đào Tuấn Ảnh), Lịch sử trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại (Cao Kim Lan), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (La Khắc Hòa). Trên báo Văn nghệ ngày 8/12/2007 đăng tải bài viết Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986 của tác giả Phùng Gia Thế. Theo tác giả này, dấu ấn đó vừa là sự tiếp thu văn học nước ngoài, vừa là sự khơi dậy những ngọn nguồn, những “mẫu” có từ truyền thống và “việc phát triển văn chương Việt Nam theo khuynh hướng hậu hiện đại là một xu hướng cần cổ vũ. Đấy không phải là sự sao chép, cóp nhặt, lai ghép tùy tiện mà là sự thay đổi cả hệ hình tư duy và trên hết là đòi hỏi tất yếu của lịch sử - xã hội và bản thân văn học. Có thể gọi được chăng, đây là khuynh hướng phát triển văn chương theo hướng hòa nhập với tiền trình văn học thế giới, bên cạnh các khuynh hướng tìm tòi thử nghiệm khác của nên văn học Việt Nam sau 1986 nhiều màu vẽ” [101]. Qua những nguồn tài liệu tham khảo có được, chúng tôi nhận thấy tuy đã xuất hiện các bài dịch hoặc bàn luận về chủ nghĩa hậu hiện đại nhưng phạm trù này với số đông giới nghiên cứu – phê bình văn học Việt Nam vẫn đang ở dạng tiếp nhận thông tin. Hơn nữa, trào lưu hậu hiện đại đến nay vẫn còn đang vận động, không đóng khung vào bất cứ một hệ thống lý thuyết nào nên việc hiểu cặn kẽ và minh bạch về nó là một vấn đề quá phức tạp. Dù phản đối hay đồng tình, họ đều thừa nhận thực tế: Hậu hiện đại là khuynh hướng lớn trên thế giới, các yếu tố hậu hiện đại cũng đã bắt đầu xuất hiện ở văn học Việt Nam trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận… Những tài liệu trên đây đã cung cấp cho chúng tôi những cơ sở lý luận quan trọng khi khái quát các đặc điểm tiểu thuyết mang dấu ấn chủ nghĩa hậu hiện đại của nhà văn Thuận – đối tượng chính của luận văn này. Ở trong luận văn này, chúng tôi không tham vọng soi chiếu tất cả các yếu tố trong chủ nghĩa hậu hiện đại, “ép khung” vào sáng tác của Thuận mà sẽ xác lập một cách hiểu tinh thần cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại và lấy việc khảo sát tác phẩm cụ thể của nhà văn để tìm hiểu điểm giao nhau giữa lý luận và thực tiễn sáng tác. 2.2 Những bài viết đánh giá về tiểu thuyết của Thuận 2.2.1 Về Thuận và các sáng tác của Thuận Nhà văn Thuận (tên thật là Đoàn Ánh Thuận) là một tác giả trẻ, sống định cư tại Pháp. Tâm sự với độc giả gần đây trên báo Tuổi trẻ, ngày 24/10/2012, Thuận nói: “Khi đã 26 tuổi, gần mười năm xa Việt Nam, tôi mới bắt đầu viết. Không để giãi bày hay để tâm sự chuyện đời mà để phục vụ nhu cầu tưởng tượng, nhu cầu đi xa khỏi bản thân. Sau đó là tìm những lối viết khác. Mới đầu tôi viết truyện ngắn. Nhưng thể loại này nhanh chóng tạo cho tôi cảm giác chật chội và dễ dãi. Tuy vậy, phải đợi năm năm sau thì Made in Vietnam mới có thể thành hiện thực. Tiểu thuyết là một cuộc phiêu lưu và như mọi cuộc phiêu lưu, nó cần năng lượng và lòng dũng cảm” [102]. Người đọc biết đến cái tên rất gọn ghẽ - Thuận – qua một loạt các tiểu thuyết được viết bởi một âm hưởng, giọng điệu và cấu trúc lạ. Không phải ngay từ đầu, cái tên này đã được chú ý. Cho đến khi những Chinatown, Paris 11 tháng 8 nối tiếp nhau chào đời, đặc biệt là khi Paris 11 tháng 8 được nhận tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam (2006), thì người đọc mới đổ xô ngược dòng tìm đọc Made in Vietnam với tâm lý háo hức, ngóng chờ. Rồi khi T mất tích, VânVy xuất hiện, cái tên Thuận đã là một danh từ riêng không còn xa lạ với những ai quan tâm đến thời sự văn học Việt Nam đương đại. Và gần đây nhất, tháng 3/2013, Thuận vừa trở về Việt Nam tham dự buổi tọa đàm T. mất tích- tìm T hay tìm tôi tại Trung tâm văn hóa Pháp (24 Tràng Tiền- Hà Nội) để giới thiệu bản dịch tiếng Pháp của tiểu thuyết thứ tư của cô - T. mất tích. Bản dịch do dịch giả Đoàn Cầm Thi thực hiện, Nhà xuất bản Riveneuve, Paris xuất bản, ra mắt độc giả vào tháng 9/2012. Cũng do dịch giả Đoàn Cầm Thi chuyển ngữ, trước đó, Chinatown cũng ra mắt độc giả Pháp. Đoàn Cầm Thi cũng tiết lộ trong bài phỏng vấn do báo Thể thao & Văn hóa (Thông tấn xã Việt Nam) thực hiện Đoàn Cầm Thi và cuộc phiêu lưu mang văn học Việt đến Pháp: Cùng với Blogger của Phong Điệp, Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, Song Song của Vũ Đình Giang, Giữa dòng chảy lạc của Nguyễn Danh Lam, Paris 11 tháng 8 sẽ là tác phẩm tiếp theo của Thuận được dịch ra tiếng Pháp. Cuốn thứ sáu của nhà văn mang tên Thang máy Sài Gòn cũng sẽ được xuất bản vào đầu năm tới (2014) tại Pháp. Thuận đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng bút danh Thuận Ánh, sau đó đổi sang Thuận. Giải thích cho sự ngắn gọn này, nhà văn tâm sự: “Khi bắt tay vào nghề viết, tôi đã chọn cho mình một bí danh ngắn nhất có thể, với hi vọng sau này, nó sẽ được kéo dài bởi nhiều nhan đề tiểu thuyết”. Ở một phương diện nào đó, sự ngắn gọn ấy đã được “kéo dài” như nhà văn mong đợi. Độc giả quan tâm và yêu mến văn học Việt Nam đương đại còn biết đến Thuận, ngoài tư cách là tác giả của năm cuốn tiểu thuyết “có vấn đề”, còn là dịch giả của hai tác phẩm Xạ thủ nằm bắn (Jean Patrick Manchette)- một cuốn tiểu thuyết trinh thám Pháp, được xuất bản ở Việt Nam vào tháng 6/2007 (NXB Văn học) và cuốn Mở rộng phạm vi đấu tranh (Michel Houellebecq- tác giả của Hạt cơ bản), được giới thiệu ở Việt Nam vào tháng 6/2008 (NXB Hội nhà văn). Đến với văn chương với tư cách là một nhà văn thuộc bộ phận văn học hải ngoại, Thuận - tất yếu thể hiện trong sáng tác của mình đặc trưng của dòng văn học này: lực lượng sáng tác không thuộc về “các nhà văn di dân thế hệ thứ nhất” mà thuộc về một thế hệ mới không còn bị “cầm tù” bởi quá khứ. Mỗi nhà văn, bằng cách này hay cách khác, tự lựa chọn cho mình một hướng đi: “hoặc tìm cách thay đổi, thông qua tiếp cận với văn hoá dòng chính của đất nước mà họ định cư để phát huy những giao thoa văn hoá; hoặc chuyển hẳn sang văn hoá dòng chính của nước sở tại, không còn sáng tác bằng ngôn ngữ tiếng Việt; hoặc quay về với môi trường văn hoá trong nước, hoà nhập với những vấn đề của văn học Việt Nam, nhưng vẫn giữ cho mình một cách quan sát “người bên ngoài” cả ưu và nhược điểm của nó” [26;21]. Từ đặc điểm này, nhà văn hải ngoại có thể khách quan nhìn nhận, đánh giá đối tượng qua lăng kính đa chiều, đa diện. Hơn hai thập kỷ sống xa Việt Nam, Thuận đã sống cuộc sống của một “người xa xứ”, một nhà văn xa xứ, như cách nói trong bài viết Dòng chảy trầm của văn học xa xứ trên báo Người lao động, số ra ngày 1/11/2007 là với “cách nhìn nhận cuộc sống già dặn, triết lý và ước vọng kiếm tìm những giá trị nhân sinh tiềm ẩn trong dòng chảy vô biên của cuộc đời”. 2.2.2 Những bài viết nghiên cứu về sáng tác của Thuận Thuận là tác giả đương đại có nhiều tìm tòi đổi mới, tuy nhiên việc nghiên cứu và tìm hiểu về Thuận cũng như các sáng tác của cô chưa nhiều và tính hệ thống chưa cao. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên chính thức ra mắt ở Việt Nam – Chinatown - của Thuận, đã phần nào kích thích thị hiếu thẩm mỹ của bạn đọc. Trong lời giới thiệu in trên bìa cuốn tiểu thuyết, Dương Tường khẳng định có dấu ấn hậu hiện đại trong tác phẩm này: “Ngổn ngang và tung tóe như những mảnh vỡ của một trò chơi ghép hình, không chương hồi liền mạch suốt 200 trang sách, bề bộn những suy ngẫm, hình tượng, chi tiết nhấn đi nhấn lại bất tận thành ám ảnh, như lưỡi dao cùn nhay mãi không dứt, như cái đĩa hát cũ bị vấp rãnh, cuốn sách đậm đặc như một thứ humour xót xa và không thiếu những yếu tố mà giờ đây người ta gọi là hậu hiện đại này nhiều lúc làm tôi như nhập đồng” [106]. Trong bài viết Đôi nét về kết cấu và thi pháp của Chinatown trên evan.com.vn, không như Dương Tường – khẳng định có dấu ấn của hậu hiện đại Hoàng Nguyễn không một lần nhắc đến cụm từ “hậu hiện đại” nhưng tác giả đã tìm hiểu thi pháp hư cấu và kết cấu của tác phẩm dưới cái nhìn hậu hiện đại. Theo đó, Hoàng Nguyễn cho rằng: Thuận đã sử dụng “kỹ thuật collage (cắt ráp) các chi tiết hư cấu và phi hư cấu, thật và không thật của Thuận đầy tinh xảo và kết quả là tạo nên một bức tranh ghép gần như không có đường nối và người đọc phải kiên nhẫn đọc thật kỹ, so sánh với tiểu sử tác giả, những tác phẩm khác của tác giả mới có thể phân biệt được đâu là yếu tố phi hư cấu, đâu là yếu tố hư cấu” [57]. Hoàng Nguyễn cũng đã chỉ ra kiểu cấu trúc “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” và tính “liên văn bản” ở “những đường links giữa Chinatown, I’m yellow, Made in Vietnam” [57]. Trong các bài viết về Chinatown, chúng tôi đánh giá rất cao bài viết trên www.tienve.org I’m yellow: Khoái cảm văn bản – Đọc Chinatown của Thuận của tác giả Đoàn Cầm Thi. Đoàn Cầm Thi nhận ra tác giả Chinatown đã “nháy mắt” với Duras (tác giả Người tình) để “kéo người đọc vào mê lộ của nghệ thuật viết”. Mê lộ ấy được Đoàn Cầm Thi chỉ rõ ở ba luận điểm: Viết không phải để nhớ lại. Cũng không phải để quên đi”, “I’m yellow: Truyện lồng truyện” và “I’m yellow: “I” là ai” [76]. Theo Đoàn Cầm Thi, đó là cách “đi tìm một bình diện mới của thế giới” khi Thuận luôn “đóng lên văn học dấu ấn của thế hệ và thời đại mình. Tác phẩm của cô còn là hành trình của những công dân hoàn cầu tương lai” [76]. Một ví dụ khác, Paris 11 tháng 8 – cuốn tiểu thuyết đưa tên tuổi của Thuận đến gần hơn với độc giả nước nhà khi đạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2006. Đoàn Cầm Thi giới thiệu tác phẩm như “niềm hổ thẹn sâu kín của một cường quốc hậu – tư – bản viên mãn. (…) Hai mươi chương miên man thực giả lẫn lộn, ngồn ngộn Paris và Hà Nội, lôi cuốn chúng ta bằng một vận tốc chóng mặt, một cấu trúc hiện đại, một giọng điệu tinh tế, duyên dáng và chua xót, hài hước. Vừa thẹn thùng vừa khiêu khích, Paris 11 tháng 8 chạm vào nỗi đau của nhân vật, của nhân loại [107]. Trong bài viết Đọc Paris 11 tháng 8 của Thuận, Đoàn Cầm Thi chỉ ra một dạng nhân vật hậu hiện đại trong tiểu thuyết này Liên – nhân vật chính của tiểu thuyết – “trong tư thế chơi vơi, chông chênh, khó nắm bắt. Và chính cái chơi vơi đó là một trong những đóng góp của Thuận trong văn học Việt Nam” – tác giả cũng chỉ ra cấu trúc “báo chí trong tiểu thuyết” của tác phẩm này: “Lồng thông tấn vào văn học, hai thể loại văn bản đối lập nhau, Thuận khiến người đọc bất ngờ như thể xem một bộ phim màu có xen những đoạn tư liệu đen trắng. Động tác lục lưu trữ của Thuận, đọc săm soi nỗi đau giấu kín dưới tầng tầng lớp lớp của thời gian và thông tin, nhưng không một lời bình luận” [81]. Những lời giới thiệu hay bài nghiên cứu trên đây dù chưa trực tiếp bàn đến các yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Thuận nhưng đã cung cấp cho chúng tôi những gợi ý rất quý giá, mang tính định hướng nghiên cứu khi tìm hiểu đề tài. 3. Mục đích nghiên cứu 3.1 Tìm hiểu sơ lược về chủ nghĩa hậu hiện đại làm cơ sở tham chiếu để tiếp cận với văn học Việt Nam đương đại. 3.2 Nhận diện những yếu tố của chủ nghĩa hậu hiện đại trong sáng tác của nhà văn Thuận. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong các tiểu thuyết mà chúng tôi đã có dịp trình bày qua ở trên, ngoài Chinatown, Paris 11 tháng 8, T mất tích, VânVy - những tác phẩm đã được in ấn, xuất bản và giới thiệu tại Việt Nam - còn có Made in Vietnam- đứa con đầu lòng được xuất bản tại Văn Mới, Califonia, Hoa Kỳ (tháng 5/2003). Do điều kiện không cho phép, chúng tôi không có trong tay đầy đủ văn bản tác phẩm này, chỉ có một trích đoạn ngắn trích nguồn từ www.tienve.org. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Thuận ở bốn tác phẩm được nhắc đến ở trên. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn của chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp thống kê phân loại - Phương pháp loại hình - Phương pháp so sánh... 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần MỞ ĐẦU và KẾT LUẬN, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái lược về Hậu hiện đại – dấu ấn hậu hiện đại trong văn chương Việt Nam Chương 2: Tiểu thuyết của Thuận – Sự thay đổi khung tự sự truyền thống Chương 3: Tiểu thuyết của Thuận – Sự phức hợp thể loại Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ HẬU HIỆN ĐẠI – DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN CHƢƠNG VIỆT NAM 1.3 Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại 1.3.1 Lai lịch thuật ngữ hậu hiện đại Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều về chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất về thời điểm ra đời của nó là sau chiến tranh thế giới thứ 2. Về nguồn gốc thuật ngữ hậu hiện đại, theo Hassan, danh từ post modernism được Federico de Onis, nhà phê bình văn học người Tây Ban Nha sử dụng trong công trình của ông, nhan đề Hợp tuyển thơ ca Tây Ban Nha và thơ ca các nước châu Mĩ nói tiếng Tây Ban Nha vào năm 1934 để chỉ sự đối kháng giữa chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa hiện đại. Nhưng trong công trình của Onis, chủ nghĩa hậu hiện đại được dùng để chỉ phong trào cải cách tôn giáo nhằm mục đích hiện đại hóa đạo Thiên chúa cuối thế kỷ 21 – đầu thế kỷ 20, và chỉ trào lưu văn học xuất phát từ châu Mỹ La Tinh năm 1890 của một số nhà thơ, nhà văn viết bằng tiếng Tây Ban Nha nhưng muốn thoát ra khỏi ảnh hưởng Tây Ban Nha và chịu ảnh hưởng của phái Thi Sơn – Pháp; ngoài ra chủ nghĩa hậu hiện đại ở đây còn chỉ phong trào văn chương nghệ thuật chủ trương tìm về thiên nhiên và văn hóa dân tộc ở Brésil, phát sinh từ São Paulo năm 1922. Như vậy, chủ nghĩa hậu hiện đại mà Onis dùng ở đây không phải là chủ nghĩa hậu hiện đại mà ta vẫn thường hiểu, do đó, hậu hiện đại ở đây cũng không mang nội hàm như sau này JF Lyotard dùng, khi ông quan tâm nghiên cứu sâu ít nhất hai điều: một là “hoàn cảnh của tri thức trong các xã hội phát triển nhất” và hai là “sự không tin vào các siêu tự sự”. Năm 1939, thuật ngữ này được sử dụng bởi Arnold Toynbee. Năm 1942, thuật ngữ này lại xuất hiện trong công trình Hợp tuyển thơ ca Mỹ La tinh đương đại của Dudley Fits. Năm 1959, nhà phê bình văn học Irving Howe được coi là một trong những người đầu tiên đưa ra quan niệm về sự chuyển tiếp từ chủ nghĩa hiện đại sang chủ nghĩa hậu hiện đại trong bài tiểu luận Xã hội đại chúng và tiểu thuyết hậu hiện đại. Từ đó, thuật ngữ hậu hiện đại được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khoa học và đời sống xã hội. Trong văn chương, nhiều nghệ sĩ, nhà văn, nhà phê bình như Rauschenberg, Cage, Buroughs, Barthelme, Fielder, Hassan, Sontag dùng thuật ngữ này để chỉ trích sự cạn kiệt của chủ nghĩa hiện đại và mô tả những khuynh hướng nghệ thuật đang hình thành và muốn vượt qua những giới hạn của luận thuyết này. Đến đầu những năm 70 của thế kỷ 20, khuynh hướng hậu hiện đại ảnh hưởng rộng hơn, được giới trí thức đại học như Bell, Kristevia, Lyotard, Derrida, Foucault, Jameson đem ra bàn luận và được thừa nhận như một hiện tượng đặc thù của văn hóa phương Tây. Trong khi trên lĩnh vực lý luận, kể cả triết học, mỹ học và phê bình văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi thì trên phương diện thực tiễn, chủ nghĩa hậu hiện đại đã thẩm thấu rất sâu trong đời sống và trở thành một hiện tượng văn hóa mang tính toàn cầu. Hiện nay, chủ nghĩa hậu hiện đại không chỉ giới hạn trong phạm vi văn học nghệ thuật mà đã trở thành một cách tư duy, một thái độ ứng xử thịnh hành ở các xã hội phát triển và đang phát triển. Với sự khái lược trên đây, có thể thấy, thoạt đầu chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện tại Hoa Kỳ vừa như một hiện tượng văn học nghệ thuật vừa như một ý thức văn hóa trong thời đại hậu kỹ nghệ. Sau đó, giới đại học tại Pháp nâng lên thành lý thuyết và trở lại ảnh hưởng đến đời sống sáng tác và học thuật Hoa Kỳ. Trào lưu này đã kết hợp khá hài hòa với các trào lưu đương đại khác trong văn học Hoa Kỳ như hậu cấu trúc luận, nữ quyền luận, hậu thực dân luận. Cũng từ đó, chủ nghĩa hậu hiện đại lan rộng sang các nước châu Âu, Úc, Mỹ La tinh và các quốc gia châu Á (chủ yếu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc). Hiểu theo nghĩa rộng, chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện sau chủ nghĩa hiện đại, cụ thể là sau thế chiến thứ 2, gắn liền với một giai đoạn phát triển cao của kinh tế, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật cao. Hiều theo nghĩa hẹp, trong văn chương, nó bao gồm nhiều khuynh hướng sáng tác như kịch phi lý, tiểu thuyết mới, hiện thực huyền ảo và trào lưu hậu hiện đại. Đây là khuynh hướng chủ đạo trong sáng tác văn học nghệ thuật thời đại ngày nay chứ không phải là khuynh hướng độc tôn bởi các trào lưu hiện thực, lãng mạn, tượng trưng hay siêu thực vẫn tồn tại song hành với nó và vẫn có những nhóm công chúng hưởng ứng. Dù là một khái niệm đang phổ biến trên toàn thế giới nhưng hậu hiện đại không có một lý thuyết thống nhất hoặc một chuỗi quan điểm mạch lạc, không có tổ chức, không tuyên ngôn. Hậu hiện đại là một hiện tượng không đơn nhất, một hệ thống mở và không ngừng vận hành trong đời sống xã hội và văn học nghệ thuật. Dẫn theo Dana Gicia [31] thì hậu hiện đại là một khái niệm trừu tượng mà “không có hai người viết nào có thể đồng ý với nhau một cách chính xác”, còn theo nhà nghiên cứu người Hoa Kỳ Marry Klages trong tiểu luận Chủ nghĩa hậu hiện đại thì: “Chủ nghĩa hậu hiện đại rất khó định nghĩa, vì nó là một quan niệm xuất hiện trong nhiều bộ môn hay khu vực nghiên cứu bao gồm nghệ thuật, kiến trúc, âm hạc, phim ảnh, văn học, xã hội học, truyền thống, thời trang và công nghệ” [60; tr.197]. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa Hậu hiện đại, hay còn gọi là điều kiện hậu hiện đại, (tiếng Anh: postmodernity, tiếng Pháp: post-modernité), là thuật ngữ do các nhà triết học, xã hội học, phê bình nghệ thuật và xã hội sử dụng để nói về các khía cạnh của điều kiện nghệ thuật, văn hóa, kinh tế và xã hội hiện đại, hình thành nên đời sống con người cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 với những đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng này bao gồm sự toàn cầu hóa, chủ nghĩa tiêu thụ, sự phân tán quyền lực, việc phổ biến kiến thức ngày càng trở nên dễ dàng hơn. Còn với khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa là một xu hướng trong nền văn hóa đương đại được đặc trưng bởi sự chối bỏ sự thật khách quan và siêu tự sự. Chủ nghĩa hậu hiện đại nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ, những quan hệ quyền lực, động cơ thúc đẩy; đặc biệt nó tấn công việc sử dụng những sự phân loại rõ ràng như nam với nữ, bình thường với đồng tính, trắng với đen, đế quốc với thực dân. Chủ nghĩa hậu hiện đại đã ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực văn hóa, bao gồm cả phê bình văn học, xã hội học, ngôn ngữ học, kiến trúc, nghệ thuật thị giác, và âm nhạc. Tư tưởng hậu hiện đại là sự giải thoát có chủ ý từ những cách tiếp cận của chủ nghĩa hiện đại đã thống trị trước đó. Thuật ngữ “hậu hiện đại” bắt nguồn từ sự phê phán tư tưởng khoa học về tính khách quan và tiến bộ gắn liền với sự khai sáng của chủ nghĩa hiện đại. 1.1.2 Các tư tưởng cơ bản và đặc điểm sáng tác hậu hiện đại trong văn chương Để tìm hiểu về chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng tôi lấy chủ nghĩa hiện đại làm mốc quy chiếu để “soi rõ”. 1.1.2.1 Sơ lược về chủ nghĩa hiện đại Ib.Hassan coi chủ nghĩa hiện đại là một thứ chủ nghĩa hiện đại muộn, hay còn gọi là chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ. Jean Francois Lyotard coi nó là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại, là “cơn kịch phát của cái hiện đại”. Dù còn nhiều ý kiến tranh cãi về mối quan hệ giữa hai khái niệm này nhưng các nhà phê bình, nghiên cứu trên thế giới đều khẳng định giữa chúng có nhiều điểm tương đồng nhưng không ít khác biệt. Thời hiện đại gắn liền với các tên tuổi lớn của triết học phương Tây như Kant, Hegel, Jean Jacques Rousseau, Sigmun Freud, Karl Max,… Chủ nghĩa hiện đại nhấn mạnh tính duy lý và quá trình hợp lý hóa để tạo nên trật tự từ sự hỗn độn. Chủ nghĩa hiện đại tin vào sự tiến bộ của con người nhờ tri thức, do vậy, luôn cố gắng phá vỡ những hệ giá trị cũ, xây dựng nên những giá trị mới với hi vọng sẽ tạo nên một nền văn hóa cao cấp, hoàn chỉnh cho nhân loại. Nền văn hóa đó đối lập với văn hóa bình dân vốn giản đơn và dung tục. Với niềm tin vào chân lý, vào sự thật như là cái đúng, cái tốt đẹp, chủ nghĩa hiện đại luôn tìm sự thống nhất trong mọi yếu tố, sắp xếp các yếu tố thành một cấu trúc vững bền và quy nó vào một trung tâm. Đó cũng là thời kỳ mà người ta luôn hướng tới tương lai, cổ vũ cho các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan