z
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====***====
NGUYỄN THỊ HƢƠNG
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA ĐỖ PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội - 2014
1
z
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====***====
NGUYỄN THỊ HƢƠNG
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA ĐỖ PHẤN
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Thị Bích Thu
Hà Nội - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: luận văn Đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn
là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Bích Thu.
Các số liệu, kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung
thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Những tài liệu tham khảo, ý kiến được trích dẫn nhằm làm sáng tỏ thêm
vấn đề đều được ghi chú nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Người thực hiện luận văn
Nguyễn Thị Hƣơng
3
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ, động viên từ thầy cô, người thân, bạn bè.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thị
Bích Thu - người đã tận tình hướng dẫn, tin tưởng và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Văn học, bộ
phận đào tạo Sau đại học - trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
khích lệ để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2014
Người thực hiện luận văn
Nguyễn Thị Hƣơng
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 8
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 9
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI VÀ TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN………………… .…...……..10
1.1. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến văn hóa xã hội Việt Nam ...................... 10
1.1.1 Đô thị hóa ở Việt Nam ......................................................................... 10
1.1.2 Tác động của đô thị hóa tới văn hóa xã hội Việt Nam ........................ 12
1.2 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam hiện đại ...................................... 14
1.2.1 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam những năm 1930 – 1945 .......... 14
1.2.2 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 ............................. 15
1.2.3 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam sau 1975 đến nay ..................... 17
1.3 Đề tài đô thị trong sáng tác của Đỗ Phấn ................................................ 20
1.3.1 Tiểu sử nhà văn .................................................................................... 20
1.3.2 Sự nghiệp sáng tác của Đỗ Phấn ......................................................... 23
1.3.3 Những tiểu thuyết về đề tài đô thị của Đỗ Phấn .................................. 25
CHƢƠNG 2: BỨC TRANH CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN .............................................. 30
2.1 Không gian đô thị .................................................................................... 30
2.1.1 Không gian đô thị cũ ............................................................................ 30
2.1.2 Không gian đô thị mới.......................................................................... 33
2.1.3 Không gian giáp ranh .......................................................................... 36
5
2.2 Thời gian đô thị ....................................................................................... 41
2.2.1 Thời gian uể oải, dùng dằng, bất định ................................................ 41
2.2.2 Thời gian đậm chất tạo hình ................................................................ 44
2.3 Con người đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn .................................... 46
2.3.1 Lối sống và thói quen sinh hoạt của người dân đô thị ........................ 46
2.3.2 Mối quan hệ gia đình trong môi trường đô thị .................................... 53
2.3.3 Đời sống nội tâm của con người đô thị ................................................ 56
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN………………………… ...... 64
3.1 Kết cấu..................................................................................................... 64
3.1.1 Sự phân rã của cốt truyện .................................................................... 64
3.1.2 Kết cấu đa tầng .................................................................................... 68
3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 72
3.2.1 Tiết chế đối thoại .................................................................................. 72
3.2.2 Độc thoại – Phân thân ......................................................................... 74
3.2.3 Miêu tả nhân vật qua hành động ......................................................... 79
3.3 Nghệ thuật trần thuật .............................................................................. 85
3.3.1 Ngôi kể và điểm nhìn ............................................................................ 85
3.3.2 Giọng điệu ............................................................................................ 90
3.3.3 Ngôn ngữ .............................................................................................. 93
KẾT LUẬN .................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đô thị đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử nước ta (thời phong
kiến) và phát triển mạnh mẽ sau cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Sau 1986,
đất nước bước vào thời kỳ đổi mới với chính sách mở cửa, chú trọng phát
triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần nhằm tạo tiền đề cho sự phát
triển của chính trị - xã hội. Chính sự phát triển kinh tế nhanh, mạnh và phức
tạp này đã dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực khác nhau
của xã hội – đặc biệt là quá trình đô thị hóa diễn ra ồ ạt, mạnh mẽ.
Không thể phủ nhận rằng quá trình đô thị hóa cùng với nền kinh tế thị
trường giàu tính cạnh tranh đã góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người, xây dựng cơ sở vật chất cho đất nước. Tuy nhiên, sự phát
triển nhanh, có phần ồ ạt của các đô thị cũng gây ra nhiều hệ lụy đáng suy
ngẫm.
Sự biến đổi về đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của con người
(đặc biệt là người dân đô thị) trong cơ chế kinh tế thị trường nhanh chóng trở
thành vấn đề nóng của văn học nghệ thuật nói chung và thể loại tiểu thuyết
nói riêng. Ngày càng có nhiều tác giả lựa chọn đề tài đô thị để triển khai tác
phẩm của mình. Họ lột tả con người đời thường với những cô đơn, băn khoăn,
vấp ngã, xót xa, đứt gãy, quay cuồng trong cơn lốc khủng hoảng giá trị của xã
hội hiện đại. Những giá trị cũ đã bị mai một, những giá trị mới đang hình
thành còn nhiều bất ổn, chông chênh.
Đỗ Phấn chính là một trong số đó. Với vốn sống, vốn văn hóa của một
thị dân lâu đời, ông trút hết băn khoăn, trăn trở của mình về sự biến đổi của
con người vào trang viết. Những vấn đề nổi cộm của đô thị nói riêng và cả đất
nước trong cuộc thay da đổi thịt nói chung được đưa vào hầu hết các tiểu
thuyết của ông như Vắng mặt, Rừng người, Chảy qua bóng tối, Gần như là
7
sống, Con mắt rỗng, Ruồi là Ruồi... cũng như nhiều tập tản văn, truyện ngắn,
và truyện dài.
Cuộc sống đô thị trong tiểu thuyết của ông được tái hiện qua bối cảnh
thủ đô nghìn năm tuổi, một đô thị tiêu biểu, đang trở thành kiểu mẫu cho hàng
ngàn đô thị khác mọc lên khắp cả nước. Những vấn đề ông nêu lên cũng
chính là băn khoăn của nhiều người Việt: Làm sao để gìn giữ văn hóa truyền
thống, hạnh phúc, niềm tin và văn minh ứng xử trước làn sóng thực dụng
nghiệt ngã của tiền bạc, danh vọng?
Những sáng tác của Đỗ Phấn ra mắt ồ ạt, nhanh chóng nhận được phản
hồi tích cực của bạn đọc. Đề tài đô thị xuyên suốt các tiểu thuyết của ông như
một mạch nguồn khơi mở cảm hứng sáng tạo. Niềm trăn trở của ông qua ngòi
bút bắt đầu được bạn đọc và giới phê bình ghi nhận qua từng tác phẩm. Tiểu
thuyết Vắng mặt đã lọt vào vòng chung khảo của Giải thưởng Bách Việt
(2010). Gần đây, truyện dài Dằng dặc triền sông mưa giành được giải văn
xuôi 2014 của Hội Nhà văn Hà Nội.
Nói về cách viết của ông, nhà văn, nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến cho
rằng Đỗ Phấn viết “rất hay”, đến mức người khác phải ghen tị. Nhà báo Đỗ
Quang Hạnh nhận ra đằng sau những tiểu thuyết về đô thị của Đỗ Phấn là “lời
độc thoại ân tình và độ lượng, thiết tha thương nhớ những cái đẹp, cái lẽ phải
của đời sống cứ đang tuột khỏi tay mỗi người. Bao nhiêu thứ tốt đẹp cứ vội vã
trở thành quá vãng và chỉ còn hiu hắt nhắc khẽ trong tâm tưởng hoài niệm của
tác giả” [33, tr.393].
Phải nói, Đỗ Phấn là một trong rất ít tác giả dành toàn bộ tâm huyết của
mình để thể hiện được những nhức nhối, âu lo cho đời sống của cư dân thị
thành. Ông viết khỏe, không ngừng sáng tạo, tìm một lối viết để truyền tải
tâm tư của mình, nhằm thức tỉnh ở bạn đọc một thái độ văn hóa. Chính từ
những băn khoăn, trăn trở, trải nghiệm và phản ứng của tác giả về vấn đề con
8
người đô thị trong xã hội hiện đại, chúng tôi quyết định nghiên cứu: Đề tài đô
thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
2. Lịch sử vấn đề
Là người thực hiện cuộc chơi “tay ngang” sang văn học, sau bao rụt rè
và đắn đo mới cho xuất bản hàng loạt tiểu thuyết, tản văn, truyện ngắn, truyện
dài, Đỗ Phấn bỗng dưng trở thành một gương mặt “trẻ” của làng văn ở độ tuổi
năm mươi. Dù mới xuất hiện nhưng những tác phẩm của ông nhanh chóng
được bạn đọc đón nhận, giới phê bình chú ý, quan tâm.
Năm 2010, Vắng mặt – cuốn tiểu thuyết đầu tay của Đỗ Phấn ra đời.
Tiếp đó, năm 2011, ông ra mắt cuốn Rừng người và Chảy qua bóng tối. Năm
2013, Đỗ Phấn chào bạn đọc bằng hai cuốn tiểu thuyết Gần như là sống và
Con mắt rỗng. Độc giả chưa kịp ngơi nghỉ, năm 2014, ông xuất bản Ruồi là
ruồi. Các tác phẩm của ông nhanh chóng được bạn đọc và giới phê bình chú
ý. Như đã nêu ở phần trên, Vắng mặt của Đỗ Phấn lọt vào chung khảo Giải
thưởng Bách Việt, đáng tiếc giải thưởng này bị ngưng lại, không rõ kết quả
cuối cùng. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay, người đọc đã thấy đề tài đô thị
được tác giả dụng tâm thể hiện tinh tế, công phu. Trần Nhã Thụy trong Vừa
nhớ vừa bịa nhận xét: “Và, về thành phố. Tiểu thuyết là tập hợp những bức
tranh thành phố, ở những giai đoạn khác nhau, ráp nối lại, để nhìn ngắm, soi
rọi, nhớ thương hay phẫn nộ. Thành phố. Giữa những ồn tạp tưởng chừng như
bất tận, giữa những “hội hè miên man”… thì chừng như vẫn muôn thuở buồn,
vẫn không thể cứu vãn những mất mát. Thành phố không còn kí ức” [29,
tr.361].
Tiếp theo đó, Đoàn Ánh Dương trong bài Đỗ Phấn giữa chúng ta, nêu
lên những cảm nhận và đánh giá của mình về tiểu thuyết Rừng người, cũng là
một cái nhìn chung về những tiểu thuyết về đô thị của tác giả. Đoàn Ánh
Dương phát hiện ra lối diễn đạt của Đỗ Phấn ít ẩn dụ, màu mè song tinh tế,
9
nhẹ nhàng như cách người ta thưởng trà: “Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm
bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không cao đàm khoát
luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc
sống một cách có nghệ thuật” [31, tr. 365]. Anh cũng nhận xét rằng: “Trong
văn học Việt Nam đương đại, có hai tác giả chuyên chú về điều này (thái độ
thị dân – người viết chú thích), là Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn, đều từ các
lĩnh vực khác muộn mằn đến với văn chương, mỗi người một kiểu, mỗi cách
và đều rất độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà, nó đọng ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ
và ở Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy. Cái
giống nhau, có chăng, cũng là một thói thường thị dân, ở sự quan tâm đến
thưởng ngoạn, lại là đàn bà và rượu” [31, tr.367].
Nguyễn Việt Hà cũng dành sự quan tâm của mình đối với các tiểu
thuyết của Đỗ Phấn: “Bao trùm lên trên của tất cả những đô thị, những đàn
bà, những công chức là một tâm cảm xót xa được viết điêu luyện bằng chất
văn cố dìm đi day dứt” [35, tr.2].
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội nhìn
nhận, những trang viết của Đỗ Phấn ăm ắp chi tiết và phảng phất một nỗi
buồn: “Chúng vẽ nên một Hà Nội chênh vênh, “ẩm ương” giữa những nét
thanh lịch của quá khứ và vẻ xù xì, gồ ghề của một đô thị đang chuyển mình
liên tục hiện nay. Ở đó, tác giả trằn trọc, day dứt với ước vọng gợi lên, làm
sống dậy những giá trị truyền thống” [24].
Ngoài ra, có nhiều nhà nghiên cứu đã viết bài giới thiệu về tiểu thuyết
của tác giả Đỗ Phấn như Hoài Nam (Cao bồi già ở phố không còn cổ),
Nguyễn Xuân Thủy (Sống trong đô thị, viết về đô thị), Nguyễn Trương Quý,
Phạm Ngọc Tiến, Đỗ Chu, Nguyễn Chí Hoan, Lê Anh Hoài...
Hoài Nam đã phát hiện ra, Đỗ Phấn là một “tay chơi” ham “xê dịch”,
khao khát đi tới nhiều vùng đất để trải nghiệm và khám phá: “Máu giang hồ
10
nổi lên là đi. Đi ở trong nước đã đành, nhưng châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ ông
cũng đi đủ cả. Đi cốt để nhìn ngắm cho no mắt cái đẹp của thiên nhiên và con
người nơi xứ lạ, và nhất là cái đẹp nghệ thuật đang được trưng bày trong các
bảo tàng danh tiếng trên thế giới”. Quan trọng hơn, Hoài Nam thấy được câu
chuyện “kể đi kể lại, miệt mài, đầy hứng thú” của Đỗ Phấn “là chuyện của
một dân phố lâu đời ở Hà Nội, người đã sống cùng Hà Nội trong những năm
tháng bom đạn giặc giã, sống cùng Hà Nội qua những ngày dài bao cấp khốn
khó…, và sống cùng Hà Nội ở chính cái thời này, cái thời xôi đỗ giữa cũ và
mới, chắc và xổi, trật tự và nhốn nháo, nền nếp và xô bồ, tử tế và mất dạy”.
Ông kể bằng một “kiểu hành văn tinh tế kỹ càng đến mức trau chuốt, mà thờ
ơ buông thả cũng đến mức trau chuốt”. Hoài Nam đã kết luận rằng: “Đỗ Phấn
quả đúng là đứa con dứt ruột của Hà Nội, là cao bồi già phố cổ” [18].
Ở bài Sống trong đô thị, viết về đô thị, nhà văn Nguyễn Xuân Thủy
nhận xét: “Có thể nói ít người theo đuổi, tha thiết với đô thị, nhìn nhận các
vấn đề của đô thị một cách thấu triệt, mổ xẻ, tiên đoán, bắt bệnh cho nó nhiệt
thành và tận cùng như Đỗ Phấn”. Ông còn thấy được hình ảnh “đô thị đang vỡ
ra, đang bị cày xới, sục sạo trong cuộc chiến giữa phát triển và hệ lụy, giữa
bản thể và những lai tạp nhố nhăng” trong văn chương của Đỗ Phấn. Ông ví
Đỗ Phấn như một kẻ “rỗi việc”, “ngồi nhặt nhạnh, ngẫm nghĩ, và xa xót trước
những lỗ hổng của văn minh đô thị” [47].
Nói chung, các nhà nghiên cứu, phê bình đã chú ý đến đề tài đô thị
trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, cũng như cách viết nhẹ nhàng, nhẩn nha mà
sâu sắc của ông. Tuy nhiên, những bài viết này mới ở mức độ giới thiệu, tìm
hiểu chung, hoặc chỉ đề cập đến một khía cạnh trong tiểu thuyết của ông. Vẫn
chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về đề tài đô thị trong tiểu
thuyết của Đỗ Phấn, từ đó, chúng tôi mạnh dạn thực hiện hướng nghiên cứu
này.
11
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đề tài đô thị trong tiểu thuyết của
tác giả Đỗ Phấn cùng những biểu hiện cụ thể của nó.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát kĩ càng đề tài đô thị cùng các biểu hiện của nó trong
sáu tiểu thuyết của Đỗ Phấn: Vắng mặt, Rừng người, Chảy qua bóng tối, Con
mắt rỗng, Ruồi là ruồi.
Người viết có tham khảo các tác phẩm khác cùng tác giả như: Tản văn
Hà Nội thì không có tuyết, Truyện dài Dằng dặc triền sông mưa…
Ngoài ra, luận văn tham khảo một số tác phẩm của các tác giả khác viết
về cuộc sống của con người đô thị trong xã hội hiện đại (như Hồ Anh Thái,
Nguyễn Việt Hà, Đỗ Bích Thúy...)
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: qua việc phân tích hình thức nghệ
thuật tác phẩm để làm rõ đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn bởi nội
dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang
tính nội dung”.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: xem xét sự phát triển của đô thị Việt
Nam qua các giai đoạn, từ đó nhận ra đề tài đô thị trong mỗi thời kỳ. Từ đó,
thấy được dòng chảy của đề tài này và phát hiện ra những nét riêng của Đỗ
Phấn.
- Phương pháp hệ thống: Người viết xâu chuỗi các hiện tượng văn học
đơn lẻ, đặt chúng trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau để làm rõ đề tài
đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
- Kết hợp các thao tác: so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp
12
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đưa ra những nhận định về mảng đề tài đô thị trong tiểu
thuyết của Đỗ Phấn
- Góp phần làm sáng tỏ mảng đề tài được quan tâm trong văn học Việt
Nam đương đại nói chung và đề tài mang tính chất xuyên suốt của tiểu thuyết
Đỗ Phấn nói riêng trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đồng thời ghi
nhận đóng góp của Đỗ Phấn với mảng viết về đề tài đô thị trong thể loại tiểu
thuyết nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.
- Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên
cứu tiếp theo về Đỗ Phấn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm ba
chương:
Chương 1: Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam hiện đại và tiểu thuyết
của Đỗ Phấn
Chương 2: Bức tranh cuộc sống và con người đô thị trong tiểu thuyết
của Đỗ Phấn
Chương 3: Một số phương thức thể hiện đề tài đô thị trong tiểu thuyết
của Đỗ Phấn
13
CHƢƠNG 1
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ
TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN
1.1. Ảnh hƣởng của đô thị hóa đến văn hóa xã hội Việt Nam
1.1.1 Đô thị hóa ở Việt Nam
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, “Đô thị là một không gian cư trú
của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong khu vực kinh tế phi
nông nghiệp” [36, tr.12]. Đô thị được hình thành khi nhu cầu sống của con
người ngày càng cao, những lao động nông nghiệp trước đây chuyển sang làm
tiểu thủ công nghiệp, thương mai, dịch vụ. Đô thị bao gồm thành phố, thị xã,
thị trấn… Cũng có thể hình dung đô thị là trung tâm kinh tế - chính trị - văn
hóa của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, là khu vực hành chính với cơ sở hạ
tầng, kinh tế, văn hóa, phát triển, tập trung mật độ dân cư lớn.
Đô thị được hình thành trên thế giới cách đây hàng ngàn năm, bắt đầu
từ những thành phố cổ Jerusalem (Isarel) hay Athens (Hy Lạp)…
Ở Việt Nam, đô thị được hình thành sớm cùng với sự hình thành của
các quốc gia cổ đại như Văn Lang, Âu Lạc. Đến thời phong kiến, cùng với
Thăng Long, những Phố Hiến, Hội An lần lượt ra đời, không ngừng mở rộng
từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, các đô thị thời phong kiến chủ yếu là các trung
tâm chính trị, văn hóa hơn là trung tâm kinh tế.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, do chương trình khai thác
thuộc địa và chính sách chia để trị, mạng lưới đô thị tăng lên nhanh chóng.
Cùng với đó, lối sống thị dân phương Tây du nhập vào Việt Nam, tác động
mạnh mẽ đến đời sống vật chất, văn hóa của thị dân. Bộ mặt đô thị thời kỳ
này có nhiều khác biệt so với thời phong kiến.
14
Đến khi thống nhất đất nước, đặc biệt sau 1986, nhờ chính sách mở
cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần của Nhà nước, hệ
thống đô thị ở Việt Nam phát triển một cách toàn diện. Nhiều trung tâm chính
trị, văn hóa, kinh tế lớn mọc lên ở cả ba miền. Đặc biệt, do chủ trương phát
triển kinh tế làm trọng tâm, tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh và có
chiều hướng phức tạp. Dù vậy, đô thị ở Việt Nam với xuất phát điểm từ nền
kinh tế nông nghiệp lâu đời, vẫn còn mang nhiều đặc tính của vùng nông
thôn, với tính chất của “phố làng”, “phố huyện”.
Quá trình đô thị hóa có thể hiểu là một quá trình phát triển về dân số đô
thị, số lượng và quy mô đô thị cũng như về các điều kiện sống ở đô thị hoặc
theo kiểu đô thị. Trong quá trình đô thị hóa đều có sự phát triển về lượng và
chất ở các đô thị cũng như các điểm dân cư nông thôn (về cơ cấu kinh tế, cơ
cấu dân cư, cơ cấu tổ chức xã hội và không gian quy hoạch – kiến trúc, hình
thái xây dựng,...).
Bản chất của quá trình đô thị hóa là quá trình chuyển dịch lao động từ
hoạt động sơ khai nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên như nông, lâm
nghiệp, khai khoáng trên diện tích rộng khắp toàn quốc sang những hoạt động
tập trung hơn như công nghiệp chế biến, sản xuất, xây dựng cơ bản, vận tải,
sửa chữa, dịch vụ thương mại, tài chính, văn hóa – xã hội, khoa học – kỹ
thuật,... Hay nói cách khác là chuyển dịch từ hoạt động nông nghiệp phân tán
sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên một số địa bàn thích hợp gọi là
đô thị.
Các nước phát triển (như tại châu Âu, Mĩ hay Úc) thường có mức độ đô
thị hóa cao (trên 80%) hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như Việt
Nam hay Trung Quốc) (khoảng 35%). Tỷ lệ dân số đô thị ở nước ta gia tăng
dần theo thời gian. Năm 1990 cả nước mới có khoảng 500 đô thị, năm 2000
con số này là 649, năm 2003: 656, năm 2010: 755, trong đó có 02 đô thị đặc
15
biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Theo dự báo của Liên hợp quốc
đến năm 2050 Việt Nam sẽ có hơn 65,8 triệu dân sống ở các đô thị, với tỷ lệ
đô thị hoá là 59% [43].
Dù các đô thị được hình thành khắp đất nước nhưng nói chung quá
trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra không đồng đều. Các vùng phía Bắc có tỷ
lệ dân số đô thị ít hơn so với vùng phía Nam. Theo dự báo của Liên Hợp
Quốc, quá trình đô thị hoá ở nước ta sẽ tiếp tục phát triển nhanh. Trong đó,
các loại hình đô thị vừa và nhỏ sẽ vẫn chiếm ưu thế. Điều đó đồng nghĩa với
việc các vùng nông thôn sẽ bị xé vụn bởi sự xuất hiện của những đô thị vừa
và nhỏ, tạo nên sự giao thoa giữa văn hóa nông thôn và thành thị, tạo nên
những “phố làng”, “phố huyện”.
1.1.2 Tác động của đô thị hóa tới văn hóa xã hội Việt Nam
Có thể nói, đô thị hóa là quá trình tất yếu đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị
hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, đời
sống nhân dân.
Tuy nhiên, sự phát triển dân số đô thị quá nhanh ở nước ta đã gây ra vô
vàn vấn đề nan giải trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị - văn hóa và
môi trường như cung cấp nhà ở, cung cấp nước, vệ sinh môi trường, tạo công
ăn việc làm, giải quyết giao thông đô thị, ảnh hưởng đến sinh thái - kinh tế,
tác động xấu đến sự phân hóa xã hội, gây ra nhiều vấn đề như suy đồi giá trị
đạo đức, mai một truyền thống tốt đẹp.
Là một phần tạo nên văn hóa xã hội, văn học nghệ thuật cũng phản ánh
sâu sắc cuộc sống thực tại của con người. Các tác giả luôn theo sát những nhu
cầu của thời đại, phản ánh hiện thực theo góc nhìn riêng để khám phá được
16
mọi giá trị, cảm xúc, khao khát của con người trong mỗi thời kì lịch sử khác
nhau.
Đứng trước quá trình đô thị hóa của đất nước, mỗi người có một cảm
xúc, thái độ, tư thế khác nhau. Người hồ hởi lao vào lòng đô thị để tìm kiếm
những cơ hội đang rộng mở. Người nhẹ nhàng lánh xa đô thị vì sợ cái xô bồ,
đông đúc, bụi bặm, bon chen. Đô thị là một lòng chảo dung chứa cả những
điều tốt đẹp và cả những thứ tù đọng, xấu xa…
Đề tài đô thị ở đây, được hiểu là một phạm vi hiện thực được các tác
giả “nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm” [5, tr.116]. Họ trăn trở
với mái ngói, tường nâu, cao ốc chung cư, siêu thị, nhà máy, và cung cách
ứng xử của con người phố thị. Qua đề tài này, các nhà văn Việt Nam đã thể
hiện được năng lực quan sát, phân tích và cách tiếp nhận hiện thực của mình.
Đây là những trải nghiệm không kém phần sâu sắc so với các đề tài khác
trong văn học. Nó khác với đề tài nông thôn được phản ánh trong văn học
những năm trước 1975 với sự lưỡng phân tốt – xấu khá rõ ràng, con người và
không gian đều bình lặng, giản dị, chất phác. Có chăng một vài bon chen,
toan tính, cũng chỉ là toan tính của người nông dân vương lại chút tư tưởng
phong kiến.
Trong những năm gần đây, kinh tế xã hội của đất nước có nhiều bước
phát triển mạnh mẽ, cuộc sống ở các đô thị trở nên sôi động và phức tạp hơn.
Lối sống, văn hóa đô thị theo nhà máy, xí nghiệp, khu vui chơi giải trí tràn
vào các miền quê. Những vấn đề xã hội của con người nảy sinh ngày một
nhiều. Sự biến đổi tâm lý của cư dân đô thị cũng ngày một lớn. Văn học dành
khá nhiều trang viết để phản ánh hiện thực ở đô thị. Không ít nhà văn quan
ngại về sự tha hóa của con người trong vòng xoáy bạc tiền đô thị, hay làm sao
để gìn giữ văn hóa truyền thống của thị thành. Đề tài đô thị hẳn sẽ là một đề
tài được khai thác nhiều hơn nữa trong những năm tiếp theo của thế kỷ XXI.
17
1.2 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam hiện đại
1.2.1 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam những năm 1930 - 1945
Từ những năm đầu thế kỷ, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách
đã đề cập đến cuộc sống nơi đô thị của Tố Tâm và Đạm Thủy. Trong giai
đoạn khuôn khổ của lễ giáo đã ngấm sâu vào văn hóa Việt, những tư tưởng,
ảnh hưởng của lối sống phương Tây cũng bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Nó
tạo nên những tư tưởng mới về quyền tự do, tình yêu và hạnh phúc của con
người.
Hồ Biểu Chánh cũng có nhiều tác phẩm: Cay đắng mùi đời, Tiền bạc bạc tiền, Thầy thông ngôn, Kẻ làm người chịu tái hiện lại bức tranh đô thị với
nhiều tầng lớp người khác nhau, từ giới giang hồ ở nhà ga, bến xe tới những
trí thức tân học.
Sang những năm ba mươi, Nguyễn Bính - một nhà thơ lãng mạn đã
dành không ít giấy mực để nói về cảnh quan, nếp sống đô thị:
Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang
Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng
Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị (Sao chẳng về đây - Nguyễn Bính)
Phần nhiều nghệ sĩ vừa thích thú với đô thị lung linh, hào hoa, vừa sầu
cái cô đơn, giả dối ở nơi bon chen ồn ào:
Ghét những cảnh sửa sang tầm thường giả dối
Hoa chăm cỏ xén, lối phẳng cây trồng
Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng…. (Nhớ rừng - Thế Lữ)
Hai trào lưu văn học lãng mạn và hiện thực trong giai đoạn này đều
quan tâm tới cuộc sống thị dân ở những phương diện tích cực và tiêu cực của
nó.
Khi nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập, các tác giả tiếp nhận mạnh
mẽ nền văn minh đến từ phương Tây. Không chỉ viết về cuộc sống yên ả chốn
18
thôn quê, họ còn hướng ngòi bút đến các đô thị lớn. Nhân vật ở chốn phồn
hoa này phong phú, tiến bộ, mạnh mẽ và có cá tính hơn. Họ mạnh bạo thể
hiện cái “tôi” cá nhân cùng các quan điểm của mình. Các nhà văn Nhất Linh,
Khái Hưng, Hoàng Đạo đều đề cao những cô gái tân thời, những chàng trai
tiến bộ dám vượt qua mọi rào cản để xây dựng tình yêu. Tuy nhiên, trong tác
phẩm của họ cũng không bỏ qua mặt trái của đô thị hoa lệ. Đó là cuộc sống
trụy lạc với rượu cồn và thuốc phiện…. Thạch Lam cũng viết về đô thị, nhưng
thường là những phố huyện nhỏ bé, còn tối tăm, nghèo nàn, làm con người
quẩn quanh, bế tắc.
Các nhà văn hiện thực lại nhìn đô thị bằng những cảm quan riêng. Với
Vũ Trọng Phụng, “tiểu thuyết là sự thực ở đời”, đô thị hiện lên hỗn tạp như
chính nó đang tồn tại. Thậm chí, ông có phần nhạy cảm hơn với sự giả tạo,
học đòi, lố lăng của những thị dân mới. Thêm vào đó là các tệ nạn nghiện hút,
cờ bạc, mại dâm… Các tác phẩm tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng đề cập đến đề
tài này như Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô
(phóng sự), Số đỏ…
Gần với góc nhìn của Vũ Trọng Phụng là Nguyễn Công Hoan. Đô thị
hiện lên trong tác phẩm của ông có phần nhố nhăng, bỉ ổi, như những tấn bi
hài kịch đầy bất công. Ở đó kẻ giàu phè phỡn ức hiếp người nghèo. Nam Cao
lại tập trung khai thác cuộc sống bế tắc của người trí thức nơi đô hội. Họ
quanh năm đối mặt với cơm áo gạo tiền, “giấc mơ con đè nát cuộc đời con”.
Các tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc sống đô thị như: Sống mòn, Đời thừa,
Giăng sáng…
1.2.2 Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam 1945 – 1975
Con người trong văn học thời kì này thường xuất hiện với tư cách con
người cộng đồng, con người dân tộc. Đề tài đô thị cũng tập trung phản ánh
chân dung những công dân – chiến sĩ, những nhân vật thị dân hiện lên có
19
phần ít thiện cảm. Đôi mắt của Nam Cao khắc họa nhân vật trí thức tiểu tư
sản – nhà văn Hoàng, về nông thôn tản cư vẫn giữ những tư tưởng, nếp sống
của người thành thị. Vào thời điểm đó, lối sống đô thị trở nên lạc lõng và
không phù hợp với đời sống của quần chúng lao động.
Khác với Nam Cao, Tô Hoài viết Những ngõ phố phản ánh sự đổi đời
của những người dân nghèo nơi đô thị. Họ thoát khỏi cuộc sống đói khổ để
đến với cuộc sống mới vui vẻ, tự do, ấm áp tình người. Họ hăng hái xây dựng
lại cuộc sống, làm lại từ đầu, trở về với chính mình.
Hà Minh Tuân đề cập đến cuộc sống đô thị ở Trong lòng Hà Nội và
Hai trận tuyến. Hai tiểu thuyết này viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Hà Nội. Đến tiểu thuyết Vào đời, tác giả này tiếp tục khai thác đề tài
xây dựng xã hội mới, không né tránh hay bóp méo hiện thực mà phản ánh
trung thực cuộc sống thực tại.
Tác giả Nguyễn Huy Tưởng viết Sống mãi với thủ đô, trong đó thủ đô
Hà Nội được chọn làm bối cảnh cho các nhân vật với một hình ảnh anh dũng,
kiên cường. Không khí kháng chiến len lỏi vào từng ngõ phố.
Nguyễn Tuân viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Hà Nội hiện lên trong tập
ký của ông với hình ảnh hiên ngang và hào hoa, đi qua công cuộc kháng chiến
chống Mỹ anh hùng. Mảnh đất thủ đô được khắc họa như hương đất, hồn
người của dân Việt qua những đêm trăng, những nhành hoa, vườn quất.
Ngoài ra, có một bộ phận các nhà văn sáng tác trong miền Nam những
năm 1954 - 1975. “Lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống và chủ yếu hướng tới
hiện thực cuộc sống, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã đáp ứng được khá
linh hoạt nhu cầu của người đọc tại các vùng đô thị” [49]. Các tác phẩm văn
xuôi giai đoạn sau 1954 “không chỉ giới hạn trong những đề tài “cổ điển” như
nói về cuộc sống của người thành thị, trí thức, tình cảm lãng mạn, phiêu lưu
hay nỗi nhọc nhằn, đói khổ của những người nghèo. Văn xuôi hướng đến tất
20
- Xem thêm -