ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HUỆ
ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI, Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HUỆ
ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI, Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS - TS Lƣu Khánh Thơ
HÀ NỘI – 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân và sâu sắc nhất của mình tới PGS – TS
Lƣu Khánh Thơ, ngƣời đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận
văn trong suốt thời gian vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Văn học Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Hà Nội, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn
Lê Thị Huệ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình ............................................................... 3
2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả ........................................... 4
2.2.1. Trần Thùy Mai ................................................................................ 4
2.2.2. Y Ban ................................................................................................ 5
2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ ...................................................................... 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 7
3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả ......................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 7
5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI, Y
BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ) TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN
NGẮN THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .......................................... 9
1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ
Đổi mới ......................................................................................................... 9
1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới .......................................... 9
1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị
Thu Huệ .................................................................................................. 12
1.2. Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại .... 20
1.2.1.Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội ................................... 20
1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam....................................... 25
CHƢƠNG 2: GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN MANG MÀU SẮC
NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ ............................ 36
2.1. Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần Thùy
Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ ....................................................... 36
2.1.1. Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền ........................................ 36
2.1.2. Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai,
Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ .............................................................. 41
2.2. Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần
Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................. 48
2.2.1. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả ................ 48
2.2.2. Nhân vật nam trong truyện ngắn ba tác giả ................................ 73
2.2.3. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn ba tác giả ............................. 78
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN................................ 85
3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý .................................................................. 85
3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 88
3.2.1. Ngôn ngữ đời sống ........................................................................ 88
3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại ....................................................................... 91
3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại........................................................................ 96
3.3. Giọng điệu............................................................................................ 99
3.3.1. Giọng trữ tình sâu lắng ............................................................... 100
3.3.2. Giọng xót xa, ngậm ngùi............................................................. 104
3.3.3. Giọng mỉa mai, châm biếm ......................................................... 106
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, là
mốc son đánh dấu những bƣớc chuyển mình sâu sắc của nền văn học Việt
Nam. Với vai trò là tấm gƣơng phản ánh cuộc sống, là ngƣời thƣ ký trung
thành của thời đại, từ đây, văn học không ngừng vận động và phát triển trong
mối liên hệ tƣơng tác vô cùng phức tạp với muôn vàn hiện tƣợng xã hội khác.
Đặc điểm nổi bật trong văn học Việt Nam sau 1975 là sự đổi mới về tƣ duy.
Nếu trong 5 năm đầu tiên (thời kỳ từ 1975 đến đầu những năm 1980) cảm
hứng sử thi vẫn giữ một vai trò quan trọng thì từ những năm 1980 tƣ duy tiểu
thuyết lại chiếm ƣu thế với khuynh hƣớng thế sự, đời tƣ. Bên cạnh đề tài
chiến tranh, văn học đi sâu phản ánh đời sống của cái tôi cá nhân. Con ngƣời
đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức
và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát
vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng, con ngƣời cụ thể, cá biệt và con ngƣời
trong tính nhân loại phổ quát. Con ngƣời đƣợc nhìn nhận ở góc độ có tính
cách, có cá tính và có số phận riêng tƣ. Trong làn gió chung ấy, đời sống, cảm
xúc và những khát vọng của ngƣời phụ nữ cũng đƣợc văn học đề cập một
cách đa dạng và phong phú.
Hơn nữa, trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nhất là sau năm 1986,
truyện ngắn có sự bùng nổ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Bên cạnh những
gƣơng mặt kỳ cựu nhƣ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng...
phải kể đến sự góp mặt của các nhà văn trẻ, đặc biệt là các nữ nhà văn nhƣ:
Trần Thùy Mai, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Phan Thị Vàng Anh... Chƣa bao giờ ngƣời ta thấy sự xuất hiện của nhiều nhà
văn nữ đến vậy. Những sáng tác của họ đã góp phần đem lại diện mạo tƣơi
mới cho nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Các nhà văn nữ, với sự tinh tế,
1
nhạy cảm của mình, đã nhận ra những biến đổi của bản thân mình cũng nhƣ
của gia đình trƣớc tác động từ xã hội. Họ đã nói lên đƣợc những tâm tƣ tình
cảm của chính mình đồng thời thể hiện niềm thƣơng cảm sâu sắc với những
khát vọng rất thực của những ngƣời đồng giới.
Chọn hƣớng nghiên cứu tiếp cận truyện ngắn của ba tác giả nữ tiêu biểu
của văn học đƣơng đại, ngƣời viết hy vọng có thể hiểu hơn về phong cách của
các nhà văn nữ, đánh giá những đóng góp của họ để từ đó có cái nhìn đa diện
hơn về văn học đƣơng đại Việt Nam.
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong cảm thức của mỗi ngƣời
dân đất Việt. Bởi vậy, nó trở thành mảnh đất màu mỡ để các nhà văn gửi gắm
những quan niệm nhân sinh. Ngay từ những năm ba mƣơi của thế kỉ XX các
nhà văn của Tự lực Văn đoàn đã chú ý đến đề tài này. Gia đình đƣợc nhìn
nhận ở khía cạnh là cuộc đấu tranh giải phóng cái tôi cá nhân, đấu tranh cho
tự do hôn nhân để giành quyền sống cho ngƣời phụ nữ, chống lại sự ràng
buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Sang đến giai đoạn 1945 -1975 vận
mệnh dân tộc trở thành mối quan tâm đặc biệt nên những vấn đề về gia đình
lại lắng xuống. Sau năm 1986, bên cạnh đề tài lịch sử, gia đình lại trở thành
mối quan tâm của các văn nghệ sĩ. Đằng sau câu chữ lạnh lùng dửng dƣng,
ngƣời đọc cảm nhận sâu sắc sự xót xa ngậm ngùi của các nhà văn trƣớc
những biến đổi của gia đình. Đặc biệt trong những năm gần đây, gia đình và
những đổi thay của nó trƣớc làn gió của thời đại trở thành vấn đề đƣợc quan
tâm hơn hết trong xã hội.
Xây dựng luận văn với nhan đề : Đề tài gia đình trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ; ngƣời viết hy vọng đi sâu tìm hiểu
những biến đổi trong gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền
trong truyện ngắn ba tác giả. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tƣơng đồng
cũng nhƣ riêng biệt trong việc phản ánh về cùng một đề tài của ba nữ nhà văn.
2
Những tƣơng đồng chính là sự gặp gỡ của những tƣ tƣởng gần gũi nhau, nét
khác biệt chính là sự đóng góp làm nên cái tôi rất riêng trong phong cách của
họ. Đặc biệt trong luận văn này, ngƣời viết muốn tập trung vào những tâm tƣ,
cảm xúc, khát vọng... của ngƣời phụ nữ để thấy đƣợc đóng góp của các nhà
văn trong việc bảo vệ nữ quyền. Đây cũng là vấn đề bức thiết trong xã hội
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Thập niên 90 của thế kỷ trƣớc ghi nhận sự đóng góp quan trọng của
những gƣơng mặt nữ trong làng văn Việt Nam. Họ đã đem đến cho văn học
“một sinh khí mới rất cần thiết để thể hiện chiều sâu, bề sau của cuộc sống
con ngƣời hôm nay” [33]. Trong những bộn bề của cuộc sống hiện đại, với
ngƣời phụ nữ, gia đình và những biến đổi của nó trƣớc cuộc sống kinh tế
thị trƣờng luôn là vấn đề mà họ quan tâm và dành nhiều suy tƣ nhất. Điểm
nổi bật đó đã nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều bạn đọc, nhà phê bình và
các học giả...
2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình
Đối với mỗi con ngƣời, mỗi xã hội, nhất là xã hội phƣơng Đông, gia
đình có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên ngƣời ta cũng xót xa
khi chứng kiến những đổi thay không mong muốn của nó trong cuộc sống
kinh tế thị trƣờng. Đã có không ít những bài báo, tạp chí, các bài nghiên cứu
đề cập về vấn đề này. Trong số đó có thể kể đến những bài: Gia đình việt
Nam hiện nay: Truyền thống hay hiện đại (Tamvocviet.vn), Gia đình Việt
Nam trong cơn bão của thời đại (Nguyễn Hồng Mai – Tạp chí nghiên cứu văn
hóa Đại học Văn Hóa Hà Nội), Cấu trúc gia đình Việt Nam: Thay đổi chưa
từng có (Tuổi trẻ online), Sự biến động của cuộc sống trong gia đình hiện
đại, Điều đáng lo ngại trong nhiều gia đình hiện nay ở thành thị (Trƣờng
Giang – Khoa học và phát triển), Mái nhà giữa cơn giông thời hiện đại
3
(Nguyễn Hoàng Đức – Vietnamnet)… Mùa lá rụng trong vườn và những vấn
đề
của
đời
sống
gia
đình
hôm
nay
(Nguyễn
Bảo
Hƣng
–
Vietnamthuquan.net)…
2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả
Xuất hiện ở những giai đoạn khác nhau và mỗi ngƣời một phong cách
nhƣng Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ là ba tác giả có những
đóng góp đáng kể cho nền văn học đƣơng đại. Trong số các sáng tác của họ
có nhiều truyện ngắn đƣợc chuyển thành phim và tạo đƣợc dấu ấn sâu đậm
trong lòng độc giả không chỉ Việt Nam mà cả ở thế giới. Đã có nhiều bài viết,
luận văn tìm hiểu về truyện ngắn của ba tác giả, tuy nhiên mới chỉ khai thác
trên các phƣơng diện: thế giới nhân vật nữ, thế giới nghệ thuật… Cho đến nay
chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu về đề tài gia đình trong truyện
ngắn cả ba tác giả. Cụ thể:
2.2.1. Trần Thùy Mai
Vƣợt qua ranh giới của thời gian, không gian, truyện Trần Thùy Mai đi
vào lòng ngƣời nhẹ nhàng mà sâu sắc. Trên các tạp chí, các báo có nhiều cảm
nhận và kiến giải về các vấn đề đƣợc đặt ra trong sáng tác của chị.
Bùi Việt Thắng trong Truyện ngắn hôm nay đã đánh giá Trần Thùy Mai
là “cây bút có sức bền với thể loại truyện ngắn”. Lê Mỹ Ý trong một bài báo
đăng trên Người đương thời số tháng 5-2007 khẳng định: “Từ tập truyện đầu
tiên cho tới bây giờ, chị Mai bao giờ cũng giữ đƣợc cho mình một giọng văn,
ngôn ngữ, phong cách trong sáng. Trong sáng đến mức luôn có cảm giác nhƣ
chị là ngƣời luôn đam mê, đắm đuối và đuổi theo một thứ ánh sáng kỳ ảo giữa
cuộc đời”. Đi tìm sức hấp dẫn của truyện Trần Thùy Mai, Hoàng Nguyên Vũ
cho rằng: “Những trang viết của Trần Thùy Mai chứa đựng những cuộc đời
nhỏ, có cuộc đời thoáng qua, có cuộc đời gặp một lần rồi hun hút, có cuộc đời
trong những giấc mơ miên viễn”. Tác giả Lý Hạnh trong bài đăng trên báo
4
Công an nhân dân số tháng 3-2008 lại quan tâm đến tình yêu trong truyện
Trần Thùy Mai. Theo Lý Hạnh: Trần Thùy Mai viết về tình yêu không phải
để câu khách. Ngoài ra còn nhiều bài viết trên các báo điện tử. Có thể kể đến
nhƣ: Trần Thùy Mai nối dài cuộc sống từ các nhân vật (Vnexpress), Trần
Thùy Mai lặng lẽ với văn chương (Vnexpress), Trần Thùy Mai viết văn là một
cách thương yêu (Tuổi trẻ online), Trần Thùy Mai viết về tình yêu (Lý Hạnh –
Công an nhân dân), Truyện ngắn Trần Thùy Mai – hành trình đi tìm hạnh
phúc ảo (Lê Thị Hƣờng – Văn nghệ Đà Nẵng), Nhà văn Trần Thùy Mai: Lánh
cuộc đua “hàng hót” (Mai Hoàng – An ninh Thủ đô), Nhà văn Trần Thùy
Mai: “Tôi chẳng làm được gì nếu không được yêu”, (Tạp chí Ngƣời đẹp Việt
Nam, 2004), Trần Thùy Mai và những bi kịch của người phụ nữ (Tạp chí
Kiến thức gia đình, 2002).
Các nhận xét đã ít nhiều đề cập đến thế giới nội dung và nghệ thuật
của truyện Trần Thùy Mai nhƣng chƣa chú ý đến những biểu hiện của đề
tài gia đình.
2.2.2. Y Ban
Y Ban đƣợc bạn đọc và giới phê bình chú ý từ khi Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
đoạt giải cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989 – 1990).
Đã có nhiều bài viết về văn của chị, thậm chí có những ý kiến trái chiều nhau.
Đáng lƣu ý là nhận xét của tác giả Hoàng Tố Mai trong Y Ban – Hành trình
đến tận cùng thế tục: “Tác phẩm của Y Ban tràn ngập những chi tiết cực kì ấn
tƣợng thể hiện một số vốn sống vô cùng phong phú và đặc biệt”, “Gu thẩm mĩ
của Y Ban cũng khác lạ. Có lẽ với tác giả này cái Đẹp không chỉ là cái mĩ
miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến con ngƣời ta hƣng phấn, lặng
im sững sờ thậm chí là sốc nữa”. Trên diễn đàn văn hóa học
(www.vanhoahoc.edu.vn) tác giả Mỹ Linh có viết: “Yếu tố tình dục, những
câu chuyện tình dục nhƣ Y Ban miêu tả cũng có thể hiện hữu trong mỗi
5
ngƣời, chỉ có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt đạo đức giả nên cho rằng nó
xấu, hoặc lâu nay không quen nói ra”. Ngoài ra còn nhiều bài báo và tạp chí
viết về Y Ban. Có thể kể đến: Khi người ta trẻ (Bùi Việt Thắng), Báo cáo kết
quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội (Hoàng Ngọc Hà), Một giọng nữ trầm
trong văn chương (Bùi Việt Thắng), Y Ban và những thân phận đàn bà (Xuân
Cang), Đọc truyện ngắn Y Ban. Y Ban - hành trình đến tận cùng thế tục
(Hoàng Tố Mai - www. vietimes. vietnamnet.vn), Y Ban: Bốp chát và nữ tính
(Hòa Bình – tienphong.vn), Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức ( Tú
Cầu – Giadinh.net.vn), Y Ban “Cũng có lúc khóc rú lên một mình” (Hà
Linh – Vnexpress.net), Nhà văn Y Ban: “Chỉ cầu mong hai chữ bình an”
(Vân Quế - Phapluattp.vn)… Ngoài ra tại hội thảo khoa học Mười truyện
ngắn hay báo Văn nghệ 1998 do Trƣờng đại học Hồng Đức tổ chức,
truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đƣợc nhiều nhà giáo và sinh
viên quan tâm đƣa ra ý kiến đánh giá.
Có những ý kiến trái chiều về truyện của Y Ban song chiếm ƣu thế vẫn
là xu hƣớng nhìn nhận về tác phẩm của Y Ban một cách khách quan, tìm thấy
ở đó nhiều tầng giá trị tốt đẹp. Phần ít còn lại là những phê phán nhiều khi
mang tính phiến diện, chủ quan .
2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ
Tạo ấn tƣợng và có sức hấp dẫn với ngƣời đọc ở giọng văn lạnh lùng
nhƣng chất chứa bao niềm cảm thƣơng cho những thân phận ngƣời, Nguyễn
Thị Thu Huệ trở thành hiện tƣợng văn học đƣợc yêu mến. Đã có nhiều ý kiến
về truyện ngắn của chị. Bùi Việt Thắng trong Năm truyện ngắn dự thi của một
cây bút trẻ thật tinh tế khi đƣa ra cảm nhận: “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn
rộng rãi ngƣời đọc trƣớc hết vì giàu chất đời” và “Những truyện hay của Thu
Huệ là nhờ ngƣời viết bứt lên đƣợc trên cái có thực đến tận cùng, để tìm tới
cái gì đó cao hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ
6
ràng, mạch lạc, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lí trí”. Đặc biệt, tác giả
đã nhận ra “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội hiện đại đang tồn tại
và tan rã nhƣ thế nào, bởi những nguyên nhân nào”. Ngoài ra còn nhiều bài
viết về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên các báo, tạp chí: Nguyễn Thị
Thu Huệ - Người tốt đang co ro (Nguyễn Xuân Thủy – Vnexpress), Nguyễn
Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tình yêu ( Nguyên Hƣơng – Quân đội
nhân dân), Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh lùng câu chữ, xa xót tâm can
(Dƣơng Thị Thùy Chi)…Nhìn chung, các bài viết đều đánh giá cao Nguyễn
Thị Thu Huệ, đặc biệt ở khả năng nắm bắt và phản ánh hiện thực nhạy bén,
sâu sắc, có giọng điệu riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngƣời viết tập trung khai thác các truyện ngắn thể hiện nổi bật, độc đáo
đề tài gia đình (qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền) trong các tập truyện
ngắn của ba tác giả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu: lịch sử - xã hội, so
sánh đối chiếu, thống kê phân loại, phân tích tổng hợp.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung phần kết luận và tài
liệu tham khảo.
Phần nội dung đƣợc triển khai trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Truyện ngắn ba tác giả (Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn
Thị Thu Huệ) trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ đổi mới và sự thể hiện đề
tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại.
7
Chƣơng 2: Gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền trong
truyện ngắn ba tác giả
Chƣơng 3: Một số phƣơng thức biểu hiện đặc sắc
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI,
Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ) TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA
ĐÌNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ
đổi mới
1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới
1.1.1.1. Những vấn đề chung của văn học thời kỳ Đổi mới
Đại hội Đảng VI năm 1986 đã chỉ ra đƣờng lối đổi mới cả về chính trị
lẫn văn hóa xã hội. Nhờ thực hiện chủ trƣơng đó, xã hội ta có những chuyển
biến sâu sắc trên mọi phƣơng diện: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã và đang đƣơc đẩy nhanh tốc độ phát triển, việc giao lƣu mở rộng hội nhập
với các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ trên thế giới đƣợc đặc biệt chú ý. Xã
hội đổi thay có nhiều tác động đến văn học. Đó là sự thay đổi về nhu cầu, thị
hiếu của ngƣời đọc cũng nhƣ ngƣời sáng tác.
Có thể nói từ sau năm 1986, văn học đã thật sự bƣớc vào công cuộc “cởi
trói”, “lột xác” để phù hợp hoàn cảnh mới. Đó là sự mở rộng về đề tài. Bên
cạnh cảm hứng sử thi, văn học đã xuất hiện và chứng kiến sự lên ngôi của
cảm hứng đời tƣ – thế sự. Cuộc sống đƣợc nhìn nhận ở nhiều chiều, nhiều
phƣơng diện khác nhau. Cuộc sống không giản đơn mầu hồng nhƣ cách nhìn
trƣớc đây nữa. Những góc khuất trong tâm hồn con ngƣời đƣợc soi chiếu ở
nhiều góc độ. Con ngƣời đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện
và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và đời sống
tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng. Nếu trƣớc đây
cách nhìn của các nhà văn trƣớc các vấn đề thƣờng là đơn chiều rạch ròi:
9
thiện - ác, địch - ta, cao cả - thấp hèn... thì bây giờ cái nhìn đa chiều, đa diện,
phức tạp hơn.
1.1.1.2. Đội ngũ các cây bút nữ thời kỳ Đổi mới
Giai đoạn này có khá nhiều bài phỏng vấn, những bài đánh giá, bình luận
về các cây bút nữ (Văn xuôi phái đẹp - Bích Thu; Khi ngƣời ta trẻ I, khi ngƣời
ta trẻ II - Bùi Việt Thắng; Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ - Phƣơng Lựu;
Điểm qua sự vận động của truyện ngắn các cây bút nữ - Lê Thị Hƣơng Thủy;
Văn chƣơng nữ giới- một cách thể hiện ở đời - Huỳnh Nhƣ Phƣơng…) và còn
rất nhiều những bài báo nhận định riêng về mỗi tác giả.
Sự thay đổi trong quan niệm xã hội khiến ngƣời phụ nữ ngày càng có vị
thế. Có thể nhận thấy một điều trong văn học Việt Nam, sự xuất hiện và
những đóng góp của các nữ văn sĩ đã khiến cho bức tranh văn học phong phú
sắc mầu. Nếu trong văn học trung đại và văn học hiện đại những năm 19301945 chỉ có vài gƣơng mặt thì đến giai đoạn 1945-1975 số lƣợng các nữ văn
sĩ tăng lên đáng kể. Đặc biệt, những năm sau đổi mới (1986) đến nay có 75%
ngƣời viết truyện ngắn là nữ (nhƣ thống kê của tác giả Bùi Việt Thắng) với sự
góp mặt của những tên tuổi quen thuộc: Trần Thùy Mai, Y Ban, Phạm Thị
Hoài, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn
Thị Diệp Mai, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tƣ… Bởi vậy nhà nghiên cứu
Bùi Việt Thắng đã rất có lý khi gọi văn học đƣơng đại là nền văn học “mang
gƣơng mặt nữ”. Hầu hết trong số họ dù xuất hiện trên văn đàn từ những năm
80, 90 của thế kỷ trƣớc hay mới xuất hiện đầu thế kỷ này thì điểm chung dễ
nhận thấy đều là sự bền bỉ, dẻo dai, nhiệt huyết say mê khám phá cuộc sống.
Chính vì vậy, đời sống và những cung bậc cảm xúc, những góc khuất trong
tâm hồn con ngƣời, nhất là của ngƣời phụ nữ hiện lên đa sắc và gợi lên cho
ngƣời đọc nhiều suy ngẫm. Với lợi thế về giới của mình, các nhà văn nữ đã
10
mạnh dạn viết về những vấn đề nhạy cảm của riêng mình, đi sâu vào thế giới
tâm hồn đầy bí ẩn của ngƣời phụ nữ, nhƣ nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn
viết: “Hình nhƣ do sự nhạy cảm của riêng mình, ngƣời phụ nữ bắt mạch với
thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời
sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lƣợng thì không
ai bằng, mà nhỏ nhen chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng – từng cây bút nữ
tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [34].
Họ viết nhiều. Nổi lên trong sáng tác của các nhà văn nữ thời kỳ này là
những vang hƣởng của cuộc sống thời đại. Những chuyện tƣởng chừng vặt vãnh
của cuộc sống đi vào văn chƣơng tự nhiên mà không kém phần sâu sắc. Đó là
những vật lộn mƣu sinh của con ngƣời, sự tráo trở của lòng ngƣời, sức mạnh
của đồng tiền, guồng quay chóng mặt của cuộc sống thời kinh tế thị trƣờng
khiến cha mẹ không còn thời gian quan tâm đến con cái… Ngồn ngộn chất
liệu của hiện thực không thiếu những cái chao chát, nhƣng dƣờng nhƣ cái bản
chất nữ tính đa cảm khiến những trang viết về tình yêu đằm sâu, nhƣ làn nƣớc tƣới
mát tâm hồn kéo con ngƣời khỏi sa mạc của sự cằn cỗi. Trong thế giới nhân vật
phong phú, dƣờng nhƣ nữ nhân vật nhận đƣợc sự ƣu ái đặc biệt của các nhà
văn. Họ với những hoàn cảnh, những thân phận và tính cách cá biệt nhƣng hầu
hết đều là những ngƣời đàn bà bất hạnh. Có khi họ là những ngƣời phụ nữ
quyết liệt đầy bản lĩnh dám sống thật với những rung cảm của lòng mình, là
những ngƣời muốn trốn chạy khỏi cô đơn của hiện tại bằng những hoài niệm
và tiếc nuối quá khứ… Một tình yêu trọn vẹn, một hạnh phúc gia đình luôn là
niềm khát vọng và mong mỏi cháy bỏng trong lòng. Mặc dù vậy, trong sáng
tác của các nữ nhà văn hôm nay vẫn còn những hạn chế nhất định về nội dung
lẫn hình thức: họ quan tâm chuyện nhiều hơn văn, có nguy cơ lặp lại chính
mình… Tuy nhiên, không thể không ghi nhận những nỗ lực, những thành
công và vị trí của họ trên văn đàn.
11
1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn
Thị Thu Huệ
1.1.2.1. Trần Thùy Mai
Khi nghĩ đến Trần Thùy Mai, nhìn những bức ảnh và đọc những truyện
ngắn của chị, bên tai tôi nhƣ văng vẳng câu thơ “ngƣời thơ phong vận nhƣ thơ
ấy”, dù chị là cây bút chuyên về truyện ngắn. Có lẽ nụ cƣời hồn hậu, gƣơng
mặt thanh tú với lúm đồng tiền duyên duyên là điều tạo nên ấn tƣợng đẹp của
bất cứ ai gặp hay thậm chí chỉ nhìn qua ảnh của chị. Sự nhẹ nhàng, tinh tế
thấm đƣợm trong những trang văn ấy có lẽ phần nào chịu ảnh hƣởng của
mảnh đất mà chị sinh ra và lớn lên.
Trần Thùy Mai tuổi Giáp Ngọ (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1954), quê ở
Huế, nhƣng sinh ra ở Hội An, về Huế khi tròn một tuổi. Chị học Trung học
Đồng Khánh, tốt ngiệp Khoa Văn Đại học Sƣ phạm Huế và đựợc giữ lại
trƣờng làm giảng viên, sau đó làm biên tập viên Nhà Xuất bản Thuận Hóa tại
Huế. Với lối rẽ này, chị đã chọn nghiệp viết làm con đƣờng đi cho riêng
mình. Dù chỉ gắn bó trong khoảng thời gian ngắn hay sống gần hết cuộc đời,
mảnh đất cố đô và phố cổ Hội An đã lƣu dấu ấn trong những trang văn của
chị. Có lần Trần Thùy Mai chia sẻ: “Dù đã rời xa Hội An khi còn quá nhỏ
nhƣng tôi luôn gửi về đấy nhiều mộng tƣởng huyễn hoặc lung linh, đẹp nhƣ
cổ tích. Còn Huế là nơi để lại dấu ấn đậm nét nhất trong tác phẩm của tôi, bởi
đó là nơi tôi sống hầu hết cuộc đời mình”. Hội An và Huế trở thành vùng đất
thơ ƣơm mầm cho những trang viết của chị.
Ngoài ra, những điệu hò mái nhì Huế u uẩn thầm kín; những điệu hò
Quảng Nam mãnh liệt, nồng nàn… tự bao giờ đã đi vào lòng ngƣời và góp
phần làm nên vẻ đẹp dịu dàng tinh tế song cũng không kém phần mãnh liệt
quyết đoán trong những trang văn của chị.
12
Trần Thùy Mai có làm thơ, thỉnh thoảng viết phê bình giới thiệu sách
nhƣng độc giả biết đến chị là nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc và tiêu biểu
cho bản sắc văn xuôi xứ Huế. Xem chuyện viết nhƣ là lẽ sống, là khí trời, là
tình yêu đích thực; trong gần ba mƣơi năm cầm bút, Trần Thùy Mai đã cho ra
đời gần chục tập truyện ngắn: Bài thơ về biển khơi (1983), Cỏ hát (1983),
Thị trấn hoa quỳ vàng (1994), Trò chơi cấm (1998), Quỷ trong trăng (2001),
Thập tự hoa (2003), Mưa đời sau (2005), Mưa ở Strasbourg (2007), Trăng
nơi đáy giếng (2008), Một mình ở Tokyo (2008), Onkel yêu dấu (2010) …
Nhiều tác phẩm đã chuyển thể thành kịch bản phim, trong đó có Thập tự hoa,
Gió thiên đường, Trăng nơi đáy giếng.
Chị nhận đƣợc nhiều giải thƣởng của Trung ƣơng và địa phƣơng, cả
trong nƣớc và quốc tế: Giải B giải thƣởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ
hai (1998) cho Tập truyện ngắn Thị trấn hoa quỳ vàng, Giải C giải thƣởng
Văn học thiếu nhi "Vì tƣơng lai đất nƣớc" của Nhà xuất bản Trẻ (2002) cho
truyện dài thiếu nhi Người khổng lồ núi Bạc, Giải B Hội Nhà văn Việt Nam
(2002, không có giải A), Giải A giải thƣởng Văn học Cố đô lần thứ ba (2005)
cho tập truyện ngắn Quỷ trong trăng, Giải thƣởng Ủy ban Toàn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2003), Giải A giải thƣởng Văn
học Nghệ thuật Cố đô lần thứ tƣ (2008) cho tập truyện ngắn Thập tự hoa, Giải
thƣởng của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế (2008) cho
tập truyện ngắn Một mình ở Tokyo, Giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011 do
Ủy ban kết nghĩa thành phố San Francisco - TP Hồ Chí Minh trao tặng.
Là ngƣời có thái độ làm việc nghiêm túc, say mê, Trần Thùy Mai có
những quan niệm khá rõ ràng về nghề văn, về con ngƣời, cuộc sống. Điều này
đƣợc thể hiện qua các tác phẩm, qua những bài trả lời phỏng vấn của chị.
Nhà văn của xứ Huế cho rằng: “Tôi nhƣ một mảnh nam châm hút về mình
những đau khổ”. Dƣờng nhƣ trái tim đa cảm và sự dịu dàng tinh tế của chị
13
luôn nhạy cảm trƣớc những khổ đau của con ngƣời, nhất là của ngƣời phụ nữ.
Những mảnh đời, những tình cảnh trong truyện của chị phảng phất cuộc đời
đa đoan của nhà văn và của biết bao phụ nữ Việt Nam. Những trang văn của
chị thấm đẫm niềm cảm thƣơng với những thân phận quanh mình; những góc
khuất trong tâm hồn, những khát khao thầm kín, chân thành của con ngƣời
đƣợc chị diễn tả thật sâu sắc. Có lẽ điều này xuất phát từ quan niệm: “viết văn
là một cách thƣơng yêu chính mình và những ngƣời xung quanh”, “viết phải
có lợi cho nhân loại”.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng nhƣ mong muốn, trái tim nhỏ bé
nhƣng khát vọng thì mênh mông, chị tìm đến với văn chƣơng nhƣ một thứ
tiên dƣợc cho nỗi cô đơn của mình. Mƣời tập truyện ngắn với những hoàn
cảnh khác nhau chính là sự chiêm nghiệm cuộc sống, là sự đồng cảm và
thƣơng yêu những con ngƣời bất hạnh. Bởi nhƣ chị nói: “Tôi thích viết để
đƣợc tồn tại trong nhiều cảnh đời khác nhau, đƣợc sống những gì tôi mơ ƣớc,
đƣợc nói những điều không nói giữa đời thƣờng. Viết, nhƣ vậy là một cách để
vƣợt thoát ra ngoài những giới hạn của một đời ngƣời nhỏ bé”.
Coi văn chƣơng là một công việc nghiêm túc vất vả, thậm chí cực nhọc
nhƣng “đây không phải là công việc khiến tôi mệt mỏi vì đó là niềm yêu thích
của tôi. Hạnh phúc của ngƣời phụ nữ viết văn giống nhƣ niềm vui của cái cây
đƣợc mọc lên trong đất và khí trời để sống. Niềm hạnh phúc ấy giúp tôi sống
và vƣợt qua những năm tháng khó khăn nhất trong cuộc đời”.
1.1.2.2. Y Ban
Nếu ở Trần Thùy Mai ngƣời tiếp xúc ấn tƣợng với vẻ dịu dàng, nhẹ
nhàng toát ra từ gƣơng mặt đến giọng nói thì Y Ban lại là sự cá tính, sắc sảo
và “bốp chát”. Đúng nhƣ nhà báo Hòa Bình đã từng nhận xét “Ai mới gặp Y
Ban cũng rất choáng bởi vẻ ngoài hầm hố và phản ứng cực nhanh. Càng bị
dồn đến những tình huống khó khăn, chị lại càng đốp chát sắc sảo. Kể cả bình
14
thƣờng thì cái giọng thỏ thẻ nhƣng thƣa bẩm đến điều cũng khiến ngƣời ta
ớn” [43]. Tuy nhiên ẩn đằng sau vẻ bề ngoài ấy lại là một trái tim giàu lòng
thƣơng yêu và nhân hậu.
Y Ban tên đầy đủ là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961
tại Nam Định. Chị từng trải qua một tuổi thơ nhọc nhằn, bố đi bộ đội, mẹ quá
vất vả với công việc tại bệnh viện, một mình chị chăm lo cho ba đứa em nhỏ.
Lớn lên, đi học và tốt nghiệp Khoa Sinh Đại học Tổng hợp năm 1982, chị về
làm giáo viên Cao đẳng Y Nam Định và rất hài lòng với công việc của mình.
Vốn mê sách từ nhỏ, những quyển sách hay ở thƣ viện trƣờng đã tiếp thêm
niềm say mê văn học của chị. Chị bắt tay vào viết một vài truyện ngắn và gửi
đăng ở tạp chí địa phƣơng. Những Người đàn bà có ma lực, Thư gửi mẹ Âu
Cơ... ra đời với bút danh Y Ban ( Ban ở trƣờng Y). Rồi vì đam mê văn
chƣơng, vì tiếng gọi tình yêu với một nhà điêu khắc trẻ, chị bỏ dạy về Hà
Nội học Trƣờng viết văn Nguyễn Du. Từ 1989 – 1992 học Trƣờng viết
văn Nguyễn Du, từ 1994 đến nay là phóng viên, biên tập viên tại báo Giáo
dục và Thời đại.
Với sự từng trải, sâu sắc và sức sáng tạo dồi dào, Y Ban đã cho ra
đời hàng chục tập từ truyện ngắn, truyện vừa đến tiểu thuyết. Có thể kể
tên các tác phẩm của chị: Người đàn bà có ma lực (1993), Đàn bà sinh ra
từ bóng đêm (1995), Vùng sáng kí ức (1996), Truyện ngắn Y Ban (1998),
Miếu hoang (2000), Cẩm cù (2001), Người đàn bà dưới gốc dâu cổ thụ
(2003), Cưới chợ (2004), Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (2000), Đàn
bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết 2004), Thần cây đa và tôi (tập truyện
vừa), I am đàn bà (2006), Xuân từ chiều (tiểu thuyết 2008), Trò chơi hủy
diệt cảm xúc (tiểu thuyết 2012).
Thành công của Y Ban không chỉ đƣợc ghi nhận ở sự yêu mến của độc
giả mà còn qua các giải thƣởng văn học. Đó là Giải nhất cuộc thi Truyện và
15
- Xem thêm -