Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn đề tài lịch sử trong sáng tác của võ thị hảo (qua tiểu thuyết giàn thiê...

Tài liệu Luận văn đề tài lịch sử trong sáng tác của võ thị hảo (qua tiểu thuyết giàn thiêu)

.PDF
99
143
53

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM  NGUYỄN THỊ THU HÀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO (QUA TIỂU THUYẾT GIÀN THIÊU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Bá Đĩnh Thái Nguyên - Năm 2014 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ LỜI CẢM ƠN! Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình truyền đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo: PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng thời đã hƣớng dẫn, đóng góp những ý kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trƣờng Đại học sƣ phạm Thái nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, ngƣời thân đã động viên, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN! MỤC LỤC ........................................................................................................... i MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2 3. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................. 5 4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ............................................................. 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 5 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 6 7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 6 CHƢƠNG 1. ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC SAU 1986 VÀ SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO ....................................................................... 7 1.1 Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 ...................................................... 7 1.2 . Sáng tác của Võ Thị Hảo ...................................................................... 12 CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG GIÀN THIÊU ........................ 20 2.1 Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử ................................................................................................................... 20 2.1.1 Nhân vật văn học ................................................................................. 20 2.1.2 Nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử ............................................ 22 2.2 Hệ thống nhân vật trong Giàn thiêu ....................................................... 30 2.2.1 Nhân vật lịch sử có thật ....................................................................... 33 2.2.2 Nhân vật hƣ cấu ................................................................................... 46 2.3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật lịch sử ...................................................... 56 2.3.1. Miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình ,đối thoại .............................. 56 2.3.2. Miêu tả nhân vật thông qua tâm lý, hành động của nhân vật ............. 60 CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG GIÀN THIÊU ............ 65 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 3.1 Sự thể hiện thời gian trong Giàn thiêu ................................................... 65 3.1.1 Khái niệm thời gian lịch sử và thời gian nghệ thuật............................ 65 3.1.2. Thời gian biên niên sử trong Giàn thiêu ............................................. 66 3.2 Các yếu tố huyễn hoặc, hoang đƣờng trong Giàn thiêu ......................... 79 3.3 Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong Giàn thiêu ......... 82 3.3.1 Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện ................................................................. 82 3.3.2 Ngôn ngữ nhân vật trong Giàn thiêu ................................................... 85 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Năm 1986 là điểm mốc đánh dấu những biến đổi lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Công cuộc Đổi mới có tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có văn học nghệ thuật. Từ sau 1986 nghệ thuật nói chung và văn chƣơng nói riêng có một diện mạo mới, sắc nét, khu biệt với văn xuôi các giai đoạn trƣớc đó. Đặc biệt sau năm 1986, các tác phẩm văn xuôi viết về đề tài lịch sử không chỉ xuất phát từ cảm hứng lịch sử mà còn thể hiện cảm hứng đời tƣ, thế sự và triết lý nhân sinh. Các nhân vật, sự kiện là cái cớ để nhà văn thể hiện những quan điểm của mình trƣớc cuộc sống hiện đại. Điều này thể hiện rõ qua một loạt tác phẩm viết về đề tài lịch sử mấy năm trở lại đây nhƣ : Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Bão táp Triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…Việc tìm hiểu các tác phẩm viết về lịch sử rất có ý nghĩa bởi qua đó ta thấy đƣợc thái độ, đánh giá của tác giả trƣớc một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử hay một triều đại lịch sử đã qua nhƣ thế nào đồng thời tìm hiểu tác phẩm này cũng giúp ta có cái nhìn mới về tiểu thuyết sau 1986 khi xử lý về đề tài lịch sử. 1.2. Giàn thiêu là tác phẩm đã khẳng định đƣợc tài năng của Võ Thị Hảo, giúp nhà văn để lại những dấu ấn nhất định trong văn học Việt Nam sau 1986. Tiểu thuyết này đã khiến Võ Thị Hảo vƣợt qua đƣợc định kiến rằng: tiểu thuyết lịch sử là thể loại thƣờng khiến các nhà văn nữ phải ngoảnh mặt làm ngơ và không mấy nhà văn nữ nào ghi điểm với nó. Tìm hiểu Giàn thiêu là góp thêm tiếng nói khẳng định bản lĩnh của nhà văn, tìm hiểu những quan điểm của bà về lịch sử, về cuộc đời, giúp ngƣời đọc có cái nhìn chính xác hơn về những sáng tác của Võ Thị Hảo, đồng thời góp thêm tƣ liệu vào việc nghiên cứu đặc điểm văn xuôi Việt Nam sau 1975. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 1.3. Trƣớc đại hội Đổi mới năm 1986, các tác phẩm viết về lịch sử thƣờng có kiểu kết cấu là theo lối ghi chép biên niên, chủ yếu là ghi chép, minh họa lại các sự kiện, biến cố lịch sử. Sau 1986,văn học đƣợc đổi mới, nhà văn tự do hơn sáng tạo để phản ánh phù hợp với xu thế của hiện tại. Tiểu thuyết mang đề tài lịch sử đã có diện mạo mới bằng việc các nhà văn thay thế cảm hứng minh họa bằng cảm hứng nhận thức trong các sáng tác tạo ra tính chân thực và hấp dẫn cho mỗi tác phẩm. Tìm hiểu tiểu thuyết Giàn thiêu góp phần làm sáng tỏ ít nhiều những sáng tạo, những đổi mới về thể loại tiểu thuyết lịch sử trong xu hƣớng đổi mới tiểu thuyết lịch sử sau 1986. Nghiên cứu về tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo đã có rất nhiều công trình nhƣng đi sâu tìm hiểu tiểu thuyết Giàn thiêu để thấy đƣợc nét riêng phong cách tiểu thuyết lịch sử của bà trong bức tranh chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại thì vẫn còn là một điểm mới mẻ.Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn góp thêm một góc nhìn mới về tiểu thuyết Giàn thiêu trong xu hƣớng đổi mới tiểu thuyết lịch sử sau 1986. Qua đó thấy đƣợc đóng góp của bà đối với tiến trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Võ Thị Hảo là một trong những gƣơng mặt tiêu biểu của thế hệ nhà văn thứ hai tiên phong trong công cuộc Đổi mới văn học. Bà đƣợc đánh giá là “cây bút sắc sảo và giàu nữ tính”. Khi tiểu thuyết Giàn thiêu ra đời “Võ Thị Hảo đã bứt phá khỏi lối đi đã quen chân” tiến tới những thành công. Tác phẩm là một bƣớc tiến trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn và đƣợc trao giải thƣởng của Hội nhà văn Hà Nội năm 2004. Giàn thiêu đã chinh phục bạn đọc cũng nhƣ giới phê bình nghiên cứu bằng ngòi bút tinh tế, sắc sảo, mạnh mẽ và tài hoa. Có lẽ vì vậy mà nghiên cứu về Giàn thiêu có nhiều bài viết, bài báo, và một số công trình nghiên cứu sau : Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 2.1. Về nghệ thuật Theo Các nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến cùng chung một nhận xét “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trƣớc hết là một tiểu thuyết, nghĩa là Giàn thiêu trƣớc hết không phải là một “ truyện lịch sử”, không phải là minh họa lịch sử, mà là một tiểu thuyết tƣ duy lại lịch sử bằng phƣơng pháp tiểu thuyết”. Hai nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng “ tác giả Võ Thị Hảo đã khá thành công trong cấu trúc của cuốn tiểu thuyết” [78] 2.1.1. Cũng theo Phạm Xuân Nguyên đã viết trong lời giới thiệu về tiểu thuyết Giàn thiêu: “ văn Võ Thị Hảo không chỉ là những dòng chữ, không chỉ là những truyện ngắn hay tiểu thuyết mà văn Võ Thị Hảo còn có nhiều hình tƣợng…đó là lối văn đƣợc tác giả thổi linh hồn vào, tạo những câu văn huyền ảo, mê hoặc thậm chí ma quái…” 2.1.2 . Trong bài Tôi biết mình không được phép quay đầu tác giả Thu Hà thực hiện đã viết: kiệt sức hơn hai năm trời cho cuốn tiểu thuyết đầu tay và Giàn thiêu đã không phụ công chị. Mới đây, tác phẩm đã dành đƣợc giải thƣởng cao của hội nhà văn Hà Nội, đƣợc đánh giá là sự kết hợp tuyệt vời giữa chính sử và huyền tích, một sự bứt phá của nữ nhà văn tài năng này. Và nhấn mạnh “Võ Thị Hảo đã bứt phá khỏi lối đi đã quen chân”.[27] 2.1.3. Bàn về ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử những năm gần đây, bài Vấn đề ngôn ngữ trong lịch sử Việt Nam đương đại, tác giả Đỗ Hải Ninh nhận xét:“ Sự thành công nổi bật trong sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử đƣơng đại là kết hợp đƣợc các yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo trong một hệ ngôn ngữ tiểu thuyết thống nhất và đa dạng. Có thể tìm thấy trong nhiều tiểu thuyết dấu ấn của ngôn ngữ nhà Phật, ngôn ngữ của tầng lớp Nho học. Và chỉ ra Giàn thiêu là cuốn tiểu thuyết chồng xếp nhiều lớp trầm tích : lịch sử, tôn giáo, huyền thoại…Bởi vậy ngôn ngữ có cái ảo diệu, mê hoặc mang màu sắc tôn giáo, gần gũi với tín ngƣỡng dân gian. Viết về lịch sử thời Lý với nhân vật trung tâm là Từ Lộ ( Từ Đạo Hạnh ) trải qua hai kiếp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ trầm luân, ngôn ngữ của trong tiểu thuyết Giàn thiêu mang đậm nét nhân sinh quan Phật giáo. [68] 2.1.4. Lại Nguyên Ân trong bài Tiểu thuyết và lịch sử đã nhận xét về nghệ thuật của Giàn thiêu nhƣ sau : “Đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo một điều tôi dần dần nhận thấy rõ là tác giả hiểu và dồn sức vào những nhiệm vụ thực sự của tiểu thuyết khi tiếp cận một đề tài trong quá khứ. Trong Giàn thiêu, tác giả đã tận dụng những sử liệu của Đại Việt sử kí toàn thư, đặc biệt là những sự kiện trong thời đoạn 1088 – 1138, dƣới hai triều Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông, đồng thời tác giả cũng đã tận dụng các truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh trong Thiền uyển tập anh, lại dày công hƣ cấu, “thiết kế lại quá khứ”, từ núi sông cây cối đến thác nƣớc sông Gâm…tạo nên da thịt liền mạch cho đời sống quá khứ đƣợc dựng lại trong tác phẩm”. Đồng thời nhận định “tác giả khó có thể thành công nếu nhƣ không đƣa ra một kiến giải mới mẻ và khả chấp về nhân vật lịch sử đồng thời là nhân vật truyền thuyết Từ Đạo Hạnh”.[3] 2.2. Về nội dung 2.2.1. Phạm Xuân Thạch trong Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử viết : “ Lạc lối trong những câu hỏi về “sự thực lịch sử” và “tính chân thực của lịch sử”, băn khoăn về một nền chính trị công chính và chỗ đứng của ngƣời tri thức trong cơn bão lịch sử. Vấn đề đặt ra trong tiểu thuyết Giàn thiêu là: sẽ nhận thức đƣợc điều gì đấy về triều đại trị vì của những vị vua Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông và những nhân vật lịch sử nhƣ Từ Đạo Hạnh hay Nguyên phi Ỷ Lan ? Có lẽ không nhiều, vấn đề là từ một hƣ cấu tiểu thuyết buộc ngƣời đọc phải suy tƣ về sự giải thoát, về niềm tin tôn giáo và những tham vọng về hạnh phúc, về thân phận và quyền lực của con ngƣời” [75] 2.2.2. Trần Khánh Thành trong Những thông điệp từ lửa và nước nhận xét : “…Mở trang đầu đã gặp hai chữ Giàn thiêu - ấn tƣợng chói và bỏng rát, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ngột và xót xa xâm chiếm lòng ngƣời…Viết với Võ Thị Hảo là truyền lửa từ trái tim đến bạn đọc…”[71] 2.2.3 . Báo Người đại biểu nhân dân nhận xét: “Giàn thiêu – mặc dù rất hấp dẫn nhƣng là một cuốn tiểu thuyết không dễ đọc. Cũng nhƣ truyện ngắn của Võ Thị Hảo cuốn tiểu thuyết này đang đi theo con đƣờng riêng của nó, ngấm dần vào trái tim ngƣời ta và những tầng lớp ngữ nghĩa cũng nhƣ những hình tƣợng nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này thƣờng trở đi trở lại và ám ảnh ngƣời đọc”[64]. Tóm lại, dù về phƣơng diện nghệ thuật hay nội dung thì Giàn thiêu vẫn luôn là một tác phẩm đƣợc bạn đọc yêu thích, quan tâm, là đối tƣợng của nhiều luận văn nghiên cứu khoa học. Đây vừa là thuận lợi vừa là thách thức của chúng tôi khi đi vào tìm hiểu và nghiên cứu tiểu thuyết này. 3. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: Đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo (Qua tiểu thuyết Giàn thiêu) 4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 4.1. Đề tài này hướng tới các nhiệm vụ sau : - Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 và sáng tác của Võ Thị Hảo - Nhân vật lịch sử trong Giàn thiêu - Nghệ thuật kể chuyện trong Giàn thiêu 4.2. Mục đích Từ việc tìm hiểu đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo ( Qua tiểu thuyết Giàn thiêu ) sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về phong cách nghệ thuật của Võ Thị Hảo đồng thời thấy đƣợc sự đóng góp của bà với nền văn học nƣớc nhà. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nhƣ : phân tích , tổng hợp, thống kê – phân loại, nghiên cứu văn hóa, lịch sử liên ngành, so sánh đối chiếu… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 6. Đóng góp của luận văn Chúng tôi chọn đề tài Đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo (Qua tiểu thuyết Giàn thiêu) nhằm nghiên cứu sự sáng tạo về tiểu thuyết lịch sử của Võ Thị Hảo trong tiểu thuyết Giàn thiêu trong xu hƣớng đổi mới tiểu thuyết lịch sử 1986 để thấy đƣợc tài năng, sự đóng góp của nhà văn vào nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử đƣơng đại của Võ Thị Hảo và góp phần lý giải sức hấp dẫn mê hoặc của tác phẩm 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng : Chƣơng 1 : Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 và sáng tác của Võ Thị Hảo Chƣơng 2 : Nhân vật lịch sử trong Giàn thiêu Chƣơng 3 : Nghệ thuật kể chuyện trong Giàn thiêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ CHƢƠNG 1 ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC SAU 1986 VÀ SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO 1.1 Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 Nhìn nhận một cách khách quan chúng ta có thể thấy: Văn học Việt Nam trƣớc 1986 luôn có sự nhất quán trong tƣ duy – đó là tƣ duy sử thi, với cảm hứng khẳng định, ngợi ca. Tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn này cũng nằm trong mạch cảm hứng đó nên thƣờng đƣợc viết đúng nhƣ những gì sử liệu ghi lại do đó tâm thức văn hóa của thời đại và tâm thức sáng tạo của nhà văn cùng gặp gỡ ở quan điểm:“phải tôn trọng, kính cẩn trƣớc lịch sử”[76]. Sau khi đất nƣớc thống nhất, đặc biệt là sau 1986 văn học đổi mới, nhà văn tự do sáng tạo để phản ánh phù hợp với xu thế của hiện tại nên các nhà văn cũng có những cảm nhận mới về đề tài lịch sử. Văn học Việt Nam sau năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá cả về nội dung lẫn hình thức trên xu thế và nền tảng của sự đổi mới trong nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hóa xã hội. Công cuộc Đổi mới đã từng bƣớc đƣa đất nƣớc và con ngƣời ra khỏi tình trạng trì trệ kéo dài. Cùng với những chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nƣớc, từ nhu cầu nhận thức lại đã trở thành một trong những nét căn bản của ý thức con ngƣời sau một thời gian trong tình trạng tƣ duy bao cấp. Đây là một trong những nguyên nhân khiến việc trở lại đề tài lịch sử để suy ngẫm, lý giải hiện tại. Một nguyên nhân nữa khiến đề tài lịch sử là đề tài đƣợc nhiều nhà văn tìm đến có thể đƣợc giải thích bằng nguyên nhân từ chính lịch sử. Việt Nam là một đất nƣớc có lịch sử đầy biến động, đất nƣớc luôn trong tình trạng bị chia cắt hoặc ngoại xâm, hoặc sự nổi dậy của các lực lƣợng lao động đối lập với chính quyền mà các sử gia gọi là quân tạo phản hoặc gọi là khởi nghĩa nông dân. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, có lẽ những nỗi đau vẫn âm thầm chảy suốt trong kí ức cộng đồng và khi có điều kiện sẽ phát tiết ở những ngƣời nhạy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ cảm và có trách nhiệm, là các nhà văn, trong đó có: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Lƣu Sơn Minh, Hoàng Công Khanh… Còn một nguyên nhân nữa đã đƣợc nhắc đến rất nhiều là sự trỗi dậy của cảm hứng đời tƣ, thế sự với vị trí là nguồn cảm hứng quan trọng bậc nhất, mà sự chi phối của nó biểu hiện gần nhƣ ở tất cả các thể loại, các suy tƣ của văn học. Chính những trăn trở, suy ngẫm về thân phận con ngƣời, số phận dân tộc, các giá trị của cuộc sống đã chi phối mạnh mẽ đến những tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Nhƣ vậy viết về đề tài lịch sử trong văn học sau năm 1986 là kết quả của những suy nghĩ, trăn trở của con ngƣời về chính lịch sử, về hiện tại, về cộng đồng và về số phận cá nhân.Vì thế truyện và tiểu thuyết về đề tài lịch sử trong thời kì này không chỉ là những câu chuyện lịch sử mà còn là câu chuyện của đời sống hiện tại với bao trăn trở trong những mối liên hệ chằng chịt, sự đối thoại nhiều khi đến gay gắt của ý thức và các vấn đề tƣởng nhƣ rất bình thƣờng của đời sống đƣợc soi rọi từ nhiều góc nhìn, nhiều thái độ đánh giá khác nhau. Đề tài lịch sử cũng đƣợc các nhà văn nhìn dƣới góc nhìn đa chiều hơn. Lịch sử không còn là những tƣ liệu cố định, chất liệu quá quen thuộc nữa. Mà nó trở thành chất liệu hấp dẫn để các nhà văn tự do thể hiện tài năng sáng tạo và ý đồ nghệ thuật của mình. Về lối viết sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có một mùa nở rộ và bội thu với các tác phẩm viết về đề tài lịch sử với những cách thể hiện hoàn toàn mới lạ. Ngoài cảm hứng lịch sử, thì cảm hứng đời tƣ, cảm hứng thế sự và những triết lý nhân sinh đã làm nên bộ mặt mới của những tiểu thuyết lịch sử. Nhân vật, sự kiện lịch sử dƣờng nhƣ chỉ là cái cớ để “tạo nên những điểm tƣơng đồng giữa quá khứ và hiện tại và qua đó làm sáng tỏ hiện tại”[18]. Lịch sử không còn chỉ là “ngôi đền thiêng” bất khả xâm phạm, là đối tƣợng đƣợc sùng bái, ngợi ca một cách tuyệt đối nữa mà trở thành một đề tài nhà văn có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ thể đi sâu tìm hiểu, khai thác, sáng tạo, thổi vào đó tinh thần thời đại khiến lịch sử trở nên sống động và gần gũi, hấp dẫn hơn. Hầu hết những sáng tác thuộc viết về đề tài lịch sử thƣờng tập trung ở hai thể loại là : thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Ở thể loại truyện ngắn viết về đề tài lịch sử thời kì này có số lƣợng khiêm tốn hơn tiểu thuyết nhƣng chất lƣợng không kém phần đặc sắc. Đặc biệt nó còn mang tính chất mở đƣờng cho một hƣớng đi mới của văn xuôi viết về lịch sử mà những tác giả sau này ít nhiều đều chịu ảnh hƣởng. Tác giả tiêu biểu nhất phải kể đến là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với bộ truyện ngắn “giả lịch sử”: Phẩm tiết, Kiếm sắc, Vàng lửa, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam… Những tác phẩm này khi đăng báo đều gây nên những cơn sốt và tốn không ít giấy mực của giới phê bình. Dƣ luận trong nƣớc xôn xao trƣớc một hiện tƣợng văn học lạ. Lạ ở cách cảm, cách nhìn của nhà văn về nhân vật lịch sử khiến trong giới văn học rộn lên bởi những đánh giá trái chiều về tác phẩm và tác giả này. Sau Nguyễn Huy Thiệp nhiều nhà văn cũng đã có những cách nhìn nhận, tƣ duy mới mẻ về lịch sử đƣợc vận dụng vào các sáng tác nhƣ: Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của chúa, Lƣu Minh Sơn với Nước mắt trúc, Trần Vũ với Mùa mưa gai sắc… Với thể loại tiểu thuyết về đề tài lịch sử thời kì này có số lƣợng lớn và đạt nhiều thành tựu. Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ XX chúng ta chứng kiến sự xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết lịch sử với lối viết khác lạ và khi các tác phẩm trình làng đã chinh phục đƣợc những bạn đọc khó tính, thu hút nhiều sự chú ý của giới phê bình. Trong đó có những tác phẩm đạt giải thƣởng cao nhƣ : Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Vằng Vặc sao khuê của Hoàng Công Khanh, Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo cũng nằm trong số đó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Tác giả Nguyễn Xuân Khánh, trong vòng sáu năm đã cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết với dung lƣợng và chất lƣợng cao là Mẫu thượng ngàn và Hồ Quý Ly. Trong đó tác phẩm Hồ Quý Ly đã đạt giải cuộc thi tiểu thuyết 1998 – 2000 do Hội nhà văn tổ chức và giải năm 2000 – 2001 của Hội nhà văn Hà Nội. Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn đạt giải thƣởng của Hội nhà văn Hà Nội năm 2006. Qua các cuộc hội thảo, các tác phẩm đã đƣợc nhìn nhận ở nhiều phƣơng diện, nhất là phƣơng diện thể loại. Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã nhận xét : “Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử. Văn chƣơng mƣợt mà, có sức cuốn hút, đọc hết 800 trang mà vẫn muốn đọc lại” [61]. Lại Nguyên Ân trong bài “ Hồ Quý Ly” đăng trên Tạp chí nhà văn số 6 năm 2000, đã nhận định: “Tác giả Đinh Xuân Khánh, vừa khai thác tối đa các nguồn sử liệu, văn liệu vẫn còn, vừa phóng khoáng trong những hƣ cấu tạo ra một thực tại tiểu thuyết vừa tƣơng đồng với những thông tin còn lại về một thời đại đã lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác giả” [5]. Trong bài viết “Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà” nhà văn Trung Trung Đỉnh viết : sức hấp dẫn của tác phẩm “không chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã lựa chọn cho mình một thế đứng với tƣ thế của một nhà tiểu thuyết trên vấn đề hôm qua và hôm nay” [22]. Nhà văn Hoàng Quốc Hải khi cho ra đời bộ tiểu thuyết lịch sử có quy mô đồ sộ Bão táp triều Trần gồm 4 cuốn : Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân công chúa và Vương triều sụp đổ. Với bộ tiểu thuyết này, nhà văn đã tái dựng lại cả một bức tranh lịch sử lớn vừa hào hùng vừa đau khổ để lại cho hậu thế nhiều bài học quý giá. Bộ tiểu thuyết này không chỉ “phục diện lại diện mạo đích thực của nhà Trần, mà còn lấp đƣợc những lỗ hổng, những kiến giải thiếu khách quan với những nhân vật chính trong lịch sử nhƣ : Hồ Quý Ly, Trần Thủ Độ. Đồng thời biểu dƣơng công trạng , trí tuệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ của nhiều nhân tài trong sử kí chỉ lƣợc qua nhƣ: Trần Nhân Tông, Chu Văn An, lại còn chỉ ra đƣợc nguyên nhân và hậu quả tai hại của những kẻ bán nƣớc và làm sụp đổ cả vƣơng triều nhƣ: Trần Dụ Tông, Trần Ích Tắc, Trần Kiện”[62;tr 9]. Thông qua những bộ tiểu thuyết lịch sử này, chúng ta nhận thấy nhà văn không chỉ có sự hiểu biết về lịch sử mà còn thể hiện đƣợc tài năng hƣ cấu nghệ thuật độc đáo, sáng tạo đã bổ sung nhiều chi tiết lịch sử còn để trống, bỏ ngỏ làm tăng thêm sức sống cho lịch sử. Với tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh khi xuất hiện dƣ luận đã có nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau. Nhƣng nhìn chung đa số đều tán đồng, xem đây là một đóng góp quan trọng của nhà văn. Nhà văn Hoàng Minh Tƣờng trong lời mở đầu cuốn tiểu thuyết cho đây là “ cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và bổ ích” cùng với lời giới thiệu nhƣ sau “phàm là ngƣời đam mê lịch sử và văn chƣơng cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra đƣợc. Rất giống nhƣ cảm giác thủa học trò đọc Tam Quốc Diễn nghĩa hay Thủy Hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi đang ăn hay trƣớc khi đi ngủ”và “cách kể chuyện nhƣ lùa ngƣời đọc vào hết mê hồn trận này đến những bí sử kia”[77]. Ngoài ra còn có bộ ba tiểu thuyết : Gió lửa, Đất trời, Bể dâu của Nam Dao, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác. Và đặc biệt, tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo – một nữ nhà văn , khi xuất hiện cũng thu hút đƣợc sự quan tâm, chú ý của dƣ luận. Tác phẩm đã dành đƣợc giải thƣởng cao của Hội nhà văn Hà Nội năm 2003. Thậm chí, đạo diễn Đỗ Minh Tuấn có ý định xây dựng Giàn thiêu thành phim. Ông đã nhận thấy “đây là cuốn tiểu thuyết về triều Lý hấp dẫn về tƣ tƣởng, về không gian văn hóa. Đặc biệt, Giàn thiêu có tính điện ảnh cao và Giàn thiêu có cách nhìn lịch sử gai góc, đa diện”[74]. Nhƣ vậy, qua các tác phẩm viết về đề tài lịch sử sau Đổi mới chúng ta nhận thấy: quan niệm của các nhà văn về lịch sử đã có nhiều đổi mới. Lịch sử Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ đã trở thành chất liệu hấp dẫn để các nhà văn thỏa mãn ý đồ sáng tạo nghệ thuật của mình làm cho “tiểu thuyết lịch sử trở thành ấn tƣợng và suy tƣ cá nhân, cá nhân trở thành trung tâm của tự sự”[76]. Nghĩa là, mỗi nhà văn có thể đề xuất một cách nhìn mới về những sự kiện lịch sử đã qua, họ cũng có thể mƣợn lịch sử để trình bày những vấn đề của hiện tại, hoặc có thể tìm hiểu để xóa đi những “điểm trắng” mà sử liệu đã không ghi, hay những điều trong quá khứ còn ít ngƣời biết đến…Từ đó tạo ra sức sống mới cho lịch sử. Nói chung văn xuôi viết về lịch sử từ sau Đổi mới đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể và chắc chắn sẽ tiếp tục là nguồn chất liệu hấp dẫn, còn nhiều hứa hẹn ở phía trƣớc. 1.2 . Sáng tác của Võ Thị Hảo Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại mảnh đất Diễn Châu – Nghệ An – mảnh đất chịu nhiều thiệt thòi bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, với những dấu vết văn hóa có tính đặc thù rõ rệt. Có lẽ chính nhờ những điều này đã tạo nên một Võ Thị Hảo luôn bền bỉ, kiên cƣờng, không bao giờ tắt niềm đam mê, đồng thời nó cũng là ngọn lửa ngầm đã hun đúc lên con ngƣời, phong cách nhà văn. Khi nhớ và nghĩ về quê hƣơng mình, nhà văn nói: “nơi có tiếng cót két rợn ngƣời của những bụi tre và những câu chuyện về ma quỷ mà các ngƣời già và đám ngƣời lớn thì thầm kể cho nhau nghe trong đêm, cùng không khí khốc liệt của chiến tranh và bom đạn”[21tr 558]. Quê hƣơng góp một vai trò không nhỏ để hình thành nên giọng văn Võ Thị Hảo “ Tôi cảm ơn những kỉ niệm, mà đau khổ là nhiều hơn hạnh phúc, vì chính chúng đã tạo ra tôi…làm nên Võ Thị Hảo – ngƣời viết nên những câu văn vừa bạo liệt vừa huyễn hoặc” [21;tr558]. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học tổng hợp Hà Nội, Võ Thị Hảo đã công tác ở Nhà xuất bản văn hóa dân tộc trong vai trò ngƣời biên tập. Với 17 năm kinh nghiệm, Võ Thị Hảo là ngƣời có công rất lớn trong việc cho ra đời nhiều “đứa con tinh thần” của các nhà văn khác. Đây cũng là cái duyên đƣa Võ Thị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Hảo đến với văn chƣơng. Giống nhƣ Võ Thị Hảo đã từng chia sẻ “đã từng nghĩ và sẽ trở thành nhà thơ, nhƣng rồi chị lại viết văn và thành danh với văn xuôi”. “Cái thứ văn chƣơng đã trót dấn thân thì nó là “nghiệp” mất rồi. Nó đeo bám và dƣờng nhƣ là máu thịt của mình. Ngay cả khi ngƣời chồng yêu quý của chị, ngƣời đàn ông mà chị đã tự nguyện kí thác, gửi gắm cả đời mình cũng không thể chịu nổi không khí văn chƣơng len lỏi vào đời sống của gia đình, song chị vẫn lặng lẽ, bƣớng bỉnh để thu vén cho mình một góc riêng, để tôn thờ rồi “sống”và “chết” vì nó. Một gia đình với hai đứa con gái bé nhỏ, một ngƣời chồng mặc dù cùng học văn chƣơng ra nhƣng không dễ mấy khi thông cảm cho niềm đam mê của vợ, thêm vào đó là cuộc sống chật vật, khó khăn của những năm tháng đất nƣớc chƣa thoát khỏi bao cấp”[64;tr553]. Bắt đầu xuất hiện chính tức và đều đặn vào thập niên 90 với cái tên Võ Thị Hảo trên văn đàn. Bên cạnh nhiều nhà văn nổi tiếng khác nhƣ Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan… Võ Thị Hảo đã khẳng định đƣợc mình qua một số tác phẩm. Bằng những truyện ngắn gây ấn tƣợng mạnh mẽ trên văn đàn nhƣ : Người sót lại của rừng cười, Biển cứu rỗi, Vườn yêu, Góa phụ đen …”chị đƣợc xếp vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ tính”[39;tr238]. Khi nhận xét về Võ Thị Hảo, nhiều ý kiến cho rằng “Võ Thị Hảo là ngƣời kể chuyện cổ tích giữa đời thƣờng”. Đọc truyện ngắn của chị “ ta thấy không khí của truyện cổ tích dân gian bàng bạc. Điều đó đƣợc tạo nên bởi ý nghĩa ngợi ca cái đẹp, cái thiện với cái triết lý ở hiền gặp lành, với giọng kể nhỏ nhẹ tâm tình xen vào đó là sự tham gia của các yếu tố kì ảo đã làm cho truyện ngắn của chị có sức hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc một cách kỳ lạ[44;tr22-30]. Nhƣng Võ Thị Hảo không kể chuyện cổ tích giữa đời thƣờng “ngƣời phụ nữ nhỏ bé và khiêm nhƣờng ấy” chỉ mƣợn không khí cổ tích, tái hiện yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích xƣa để nói chuyện hôm nay – những chuyện mà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ cuộc sống hàng ngày con ngƣời đang đối diện. Bởi vậy, truyện của Võ Thị Hảo bao giờ cũng mang một triết lý, một chiều sâu tƣ tƣởng mới bên cạnh cái vẻ bề ngoài của nó.Với 4 tập truyện ngắn đã xuất bản là : Hồn trinh nữ, Người sót lại của rừng cười, Những chuyện không nên đọc lúc nửa đêm Võ Thị Hảo đã khiến ngƣời đọc bị lôi cuốn bởi cách viết, cách nhìn nhận vấn đề rất riêng của chị. Những hiện thực nghiệt ngã, những phức tạp bộn bề của cuộc sống đã đƣợc truyền tải bởi văn phong ảo và thực, câu chữ ngọt ngào, dịu nhẹ. Một sự nhẹ nhàng, nữ tính nhƣng thực chất là để bao bọc cái nhìn mạnh mẽ, quyết liệt với cuộc sống. Qua việc tìm hiểu truyện ngắn của chị ta có thể thấy “dù ngợi ca những điều tốt đẹp con ngƣời, của cuộc đời hay phê phán những hiện tƣợng tiêu cực của xã hội thì Võ Thị Hảo vẫn luôn giữ đƣợc cái nhìn khá điềm tĩnh – sự điềm tĩnh của một ngƣời dám nhìn thẳng vào sự thật ở đời. Đồng thời cũng thể hiện thái độ bao dung độ lƣợng và niềm tin bất diệt vào bản tính tốt đẹp của con ngƣời”[47]. Năm 2002 khi cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu ra mắt bạn đọc, chị lại làm sửng sốt độc giả, những ngƣời yêu văn chƣơng bởi cuốn tiểu thuyết dã sử đậm chất huyền bí.Tác phẩm đã dành đƣợc giải thƣởng cao nhất của Hội nhà văn Hà Nội. Đặc biệt nó đƣợc coi là tác phẩm đánh dấu “ cuộc bứt phá khi rẽ ra khỏi lối đi quen chân với chính mình, tạo ra những tầng suy tƣ không bằng phẳng, một giọng điệu tự nhiên và bình dị hơn” của nữ nhà văn tài năng này. Chuyển từ thể loại quen thuộc là truyện ngắn sang thể loại tiểu thuyết – tiểu thuyết lịch sử - một thể loại thƣờng khiến các nhà văn nữ ở nƣớc ta phải “ngoảnh mặt làm ngơ”. Lúc đƣợc hỏi: “ rẽ lối sang tiểu thuyết, lại là tiểu thuyết lịch sử, liệu chị có cho rằng đó là một thái độ cầm bút dũng cảm? Chị đã tự tin trả lời “không hẳn là lối rẽ mà là bƣớc tiếp. Khi cảm thấy truyện ngắn dƣờng nhƣ quá chật chội thì tiểu thuyết chính là thảo nguyên rộng lớn để cho phép mình đƣợc làm những cú nhảy của mèo hoang”[40]. Thật vậy, tiểu thuyết Giàn thiêu đã nhận đƣợc vô số những lời khen “sự kết hợp tuyệt vời giữa chính sử Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ với huyền tích”[25]. Chính những kiến thức chính sử với dã sử, những giai thoại, huyền tích dân gian cùng với trí tƣởng tƣợng phong phú, sự tìm tòi sáng tạo của nhà văn đã dựng lên đƣợc bức tranh sinh động về một giai đoạn lịch sử trong vƣơng triều thời Lý không chỉ có những màu vàng son chói lọi mà còn cả những màu trầm bi thƣơng. Giàn thiêu còn khiến cho những nhà làm phim phải dành rất nhiều những lời tán thƣởng. Nghệ sĩ nhân dân – đạo diễn Huy Thành – chủ tịch Hội điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh nhận xét: “Đây là lần đầu tiên tôi đƣợc đọc kịch bản phim của một nhà văn Việt Nam viết rất có nghề, độc đáo cả về chủ đề, câu chuyện, bối cảnh, cấu trúc và nhân vật. Ngôn ngữ điện ảnh nhuần nhuyễn với những chi tiết hiển thị đắt giá. Đặc biệt cả ba kịch bản đều mênh mang không khí tâm linh, huyền bí rất quyến rũ rất văn chƣơng… những nét riêng biệt trong các tác phẩm văn học của nữ nhà văn tài năng này”[43]. Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn có ý định xây dựng Giàn thiêu thành phim. Bởi ông nhận thấy “đây là cuốn tiểu thuyết về triều Lý hấp dẫn về tƣ tƣởng, về không gian văn hóa. Đặc biệt, Giàn thiêu có tính điện ảnh cao” và “Giàn thiêu có cách nhìn lịch sử gai góc đa diện”[74] ghi đƣợc những dấu ấn sâu sắc trong lòng ngƣời đọc. Ẩn sau những câu chữ trau chuốt và mỏng manh đến điệu đà, nhạy cảm đến mức khắt khe là những tâm sự day dứt khôn nguôi về số phận con ngƣời, về cuộc đời, nhân tình, thế thái. Đọc truyện của Võ Thị Hảo khiến con ngƣời phải nhìn nhận lại cuộc sống của mình để chọn cho mình cách sống đúng. Thực tế cho thấy số các nhà văn viết về tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít, nhất là các nhà văn nữ trải nghiệm ngòi bút của mình ở thể loại này càng hiếm. Bởi ngƣời viết về thể loại này cần phải có kiến thức uyên thâm, am hiểu lịch sử sâu sắc đồng thời khi lấy lịch sử làm chất liệu sáng tác, các nhà văn cần có sự tìm tòi, sáng tạo, hƣ cấu sao cho lịch sử phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan