Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn động từ hai diễn tố trong tiếng việt (có so sánh với tiếng trung)...

Tài liệu Luận văn động từ hai diễn tố trong tiếng việt (có so sánh với tiếng trung)

.PDF
93
136
134

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LI YAN RONG ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT (có so sánh với tiếng Trung) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LI YAN RONG ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT (có so sánh với tiếng Trung) Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 8220102 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN LỘC THÁI NGUYÊN - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019 Tác giả Li Yan Rong i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy giáo ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019 Tác giả Li Yan Rong ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỤC LỤC............................................................................................................iii MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2 5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 3 6. Bố cục luận văn ............................................................................................... 3 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN........... 4 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về động từ trong tiếng Việt ............................ 4 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về kết trị động từ ............................................ 5 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về động từ hai diễn tố............................................. 8 1.2. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 8 1.2.1. Động từ ...................................................................................................... 9 1.2.2. Vài nét về lí thuyết kết trị, khái niệm diễn tố, chu tố .............................. 12 1.2.3. Về cách phân loại động từ - khái niệm động từ hai diễn tố .................... 15 1.2.4. Nguyên tắc, thủ pháp và qui trình nghiên cứu động từ theo lí thuyết kết trị ........................................................................................................ 19 1.3. Vài nét về tiếng Trung, động từ và động từ hai diễn tố trong tiếng Trung ......... 24 1.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT (CÓ SO SÁNH - ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG TRUNG) ................. 28 2.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 28 2.2. Đặc điểm chung của động từ hai diễn tố .................................................... 28 iii 2.2.1. Về nguồn gốc ........................................................................................... 28 2.2.2. Về cấu tạo ................................................................................................ 28 2.3. Về ý nghĩa ................................................................................................... 29 2.4. Về thuộc tính kết trị .................................................................................... 31 2.4.1. Diễn tố thứ nhất (N1): diễn tố chủ thể (chủ ngữ) ..................................... 32 2.4.2. Diễn tố thứ 2: diễn tố đối thể (bổ ngữ) .................................................... 38 2.5. Về các diện đối lập cơ bản trong phạm trù động từ hai diễn tố ................. 44 2.5.1. Nguyên tắc phân loại ............................................................................... 44 2.5.2. Kết quả phân loại ..................................................................................... 44 2.6. Bước đầu so sánh - đối chiếu động từ hai diễn tố trong tiếng Việt và tiếng Trung .............................................................................................. 50 2.6.1. Những nét tương đồng ............................................................................. 50 2.6.2. Những điểm khác biệt.............................................................................. 53 2.7. Tiểu kết ....................................................................................................... 55 Chương 3: MIÊU TẢ MỘT SỐ NHÓM ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT (CÓ SO SÁNH - ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG TRUNG) ..................... 57 3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 57 3.2. Nhóm động từ hai diễn tố chỉ hoạt động tạo tác ........................................ 57 3.2.1. Đặc điểm ý nghĩa của động từ hạt nhân .................................................. 58 3.2.2 Về thuộc tính kết trị .................................................................................. 59 3.2.3. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ nhất (diễn tố chủ thể) ..................... 60 3.2.4. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ hai (diễn tố đối thể) ........................ 63 3.2.5. So sánh - đối chiếu nhóm động từ tạo tác trong tiếng Việt và tiếng Trung ..... 64 3.3. Động từ hai diễn tố chỉ quan hệ đồng nhất “là” ......................................... 67 3.3.1. Về bản chất từ loại của “là” ..................................................................... 67 3.3.2. Đặc điểm của động từ “là” ...................................................................... 68 3.3.3. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ nhất (diễn tố chủ thể) bên động từ “là” ...................................................................................................... 72 iv 3.3.4. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ hai (diễn tố đối thể) bên động từ “là” ........................................................................................... 74 3.4. So sánh - đối chiếu “là” trong tiếng Việt với 是 trong tiếng Trung .......... 75 3.5. Tiểu kết ....................................................................................................... 78 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 82 v MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghiên cứu hệ thống từ loại tiếng Việt, các nhà ngữ pháp đều khẳng định vị trí và vai trò hết sức quan trọng của động từ. Động từ là từ loại có số lượng rất lớn và có đặc tính hết sức phức tạp. Về vai trò ngữ pháp, động từ là trung tâm tổ chức của tuyệt đại đa số câu tiếng Việt. Do có địa vị quan trọng trong hệ thống từ loại nên động từ luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Việc nghiên cứu động từ đã được tiến hành ở nhiều góc độ với những công trình khác nhau như: Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn Phú Phong, Động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản, Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ của Vũ Thế Thạch, Vị từ hành động và các tham tố của nó của Nguyễn Thị Quy, Kết trị của động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc... Qua những công trình nghiên cứu này, ta thấy rằng động từ là một từ loại lớn, có đặc điểm hết sức phức tạp, vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu sâu rộng hơn. Một trong những vấn đề đó là việc nghiên cứu, xác lập, phân tích, miêu tả làm rõ đặc điểm của các tiểu loại, các nhóm động từ. Động từ hai diễn tố trong tiếng Việt là một nhóm động từ có số lượng lớn, có đặc điểm ý nghĩa và kết trị phức tạp, có vai trò ngữ pháp rất quan trọng. Tuy nhiên, đến nay, tiểu loại động từ này trong tiếng Việt chưa được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống, đặc biệt là hướng nghiên cứu có so sánh với tiếng nước ngoài. Việc nghiên cứu về động từ hai diễn tố theo lí thuyết kết trị có so sánh với một ngoại ngữ có ý nghĩa không nhỏ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Về lý luận, việc nghiên cứu tiểu loại động từ này theo lý thuyết kết trị và có so sánh với tiếng nước ngoài sẽ góp phần soi sáng thêm một số vấn đề lý thuyết về động từ nói chung, lý thuyết kết trị động từ nói riêng trên cứ liệu của ngôn ngữ đơn lập. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu kết trị của động từ hai diễn tố có thể được sử dụng để biên soạn các tài liệu phục vụ cho việc dạy học bản ngữ cũng như ngoại ngữ. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Động từ hai diễn tố trong tiếng Việt (có so sánh với tiếng Trung)”. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài này là miêu tả làm rõ đặc điểm ý nghĩa và thuộc tính kết trị của tiểu loại động từ hai diễn tố trong tiếng Việt, có so sánh với tiếng Trung; qua đó, góp phần soi sáng thêm một số vấn đề về lý thuyết kết trị và kết trị của động từ trên cứ liệu một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, góp phần nâng cao chất lượng của việc dạy học tiếng. 2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu -Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung (về động từ, lý thuyết kết trị và kết trị của động từ, phân loại động từ theo kết trị, khái niệm động từ hai diễn tố) -Xác lập nguyên tắc, thủ pháp và quy trình phân tích, miêu tả động từ hai diễn tố theo lý thuyết kết trị. -Phân loại, miêu tả một số nhóm động từ hai diễn tố trong tiếng Việt theo đặc điểm ý nghĩa và thuộc tính kết trị (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là động từ hai diễn tố trong tiếng Việt hiện đại (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung) Phạm vi nghiên cứu của luận văn là động từ hai diễn tố trong tiếng Việt hiện đại về ý nghĩa và thuộc tính kết trị (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung). Phạm vi tư liệu khảo sát là những tác phẩm văn học của các tác giả nổi tiếng như Nam Cao, Tô Hoài, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Thi... và những tư liệu đời sống như 3500 câu danh ngôn, Báo Quân đội, Thế giới mới, Báo Phát luật... 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp miêu tả Phương pháp này được sử dụng với tư cách là phương pháp chủ yếu để miêu tả đặc điểm ý nghĩa và đặc điểm hoạt động ngữ pháp (thuộc tính kết trị) của động từ hai diễn tố; từ đó, tìm ra đặc trưng của nhóm từ này trong tiếng Việt và tiếng Trung. 4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu Phương pháp này được sử dụng với tư cách là phương pháp bổ trợ nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt về ý nghĩa và thuộc tính kết trị của động từ hai diễn tố trong tiếng Việt và tiếng Trung. 2 4.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp Nội dung của phương pháp này là chọn nghiên cứu sâu một số nhóm động từ hai diễn tố tiêu biểu, qua đó, làm rõ đặc điểm chung của tiểu loại động từ hai diễn tố. 4.4. Thủ pháp thống kê, phân loại Các thủ pháp này được sử dụng để khảo sát, thống kê việc sử dụng động từ hai diễn tố trong các văn bản và tiến hành phân loại chúng theo các nhóm nhỏ. 4.5. Một số thủ pháp khác Chúng tôi kết hợp sử dụng các thủ pháp hình thức như: lược bỏ, bổ sung, thay thế, cải biến, mô hình hóa. Các thủ pháp này giúp cho việc phân tích ngữ pháp hạn chế được sự chủ quan, cảm tính cá nhân nhằm đạt được mục tiêu mà luận văn đã đề ra. 5. Đóng góp của luận văn - Góp phần bổ sung làm phong phú lý thuyết kết trị động từ trên cứ liệu tiếng Việt và tiếng Trung. - Giúp người đọc, người học thấy được tính phức tạp, sự phong phú và đa dạng của động từ trong tiếng Việt và tiếng Trung nói chung cũng như sự đa dạng và độc đáo của động từ hai diễn tố nói riêng trong hai ngôn ngữ này nhìn từ góc độ lý thuyết kết trị. - Giúp độc giả thấy được một số nét tương đồng và khác biệt của động từ hai diễn tố trong tiếng Việt và tiếng Trung - cùng là loại hình ngôn ngữ đơn lập, khi nghiên cứu theo lý thuyết kết trị. - Là tài liệu tham khảo cho giáo viên các trường phổ thông cũng như sinh viên ngành ngôn ngữ, văn học trong dạy học ngữ văn. 6. Bố cục luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2. Đặc điểm chung của động từ hai diễn tố trong tiếng Việt (có so sánh đối chiếu với tiếng Trung) Chương 3. Miêu tả một số nhóm động từ hai diễn tố trong tiếng Việt (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung) 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về động từ trong tiếng Việt Về sự tồn tại của động từ tiếng Việt, từ trước đến nay có rất nhiều ý kiến nhưng có hai ý kiến chính trái ngược nhau. Ý kiến thứ nhất phủ nhận sự tồn tại của động từ; còn ý kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ. Trong hai loại ý kiến trên, ý kiến thứ hai đã dần chiếm ưu thế và được công nhận rộng rãi. Bởi thế, động từ bắt đầu được nghiên cứu một cách nghiêm túc và có hệ thống. Quá trình ấy có thể được tóm tắt như sau: Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những năm sáu mươi của thế kỉ XX, việc nghiên cứu về động từ chưa đạt được những thành tựu đáng kể, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách đầy đủ về động từ. Chỉ từ giữa những năm sáu mươi đến nay, việc nghiên cứu về động từ mới thực sự được chú ý và đi vào chiều sâu. Bên cạnh những công trình chung về ngữ pháp thường có đề cập đến động từ, có thể kể đến một số chuyên luận tiêu biểu trong và ngoài nước như: Ở nước ngoài có: - Phân loại động từ tiếng Việt của I.S. Bystov (1966) Ở trong nước có: - Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn Phú Phong (1973) - Các động từ chỉ hướng trong tiếng Việt của Nguyễn Lai (1976) - Động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản (1977) - Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ của Vũ Thế Thạch (1984) - Vị từ hành động và các tham tố của nó của Nguyễn Thị Qui (1995) - Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc (1995) Trong các công trình trên đây, một số nghiên cứu tương đối toàn diện về động từ nói chung. Đó là những công trình của Nguyễn Phú Phong và Nguyễn Kim Thản… Ở những công trình này, diện mạo chung của động từ đã hiện lên khá rõ rệt. Bên cạnh đó, có những công trình đi sâu vào một khía cạnh nào đó của động từ như: I.S. Bystov đi vào phân loại động từ, Nguyễn Lai tìm hiểu về nhóm động từ chỉ hướng, Vũ Thế Thạch 4 tìm hiểu về mặt ngữ nghĩa, Nguyễn Thị Qui tìm hiểu về vị từ hành động và các tham tố của nó, Nguyễn Văn Lộc đi sâu vào mặt kết trị. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về kết trị động từ 1. 1.2.1 Ở nước ngoài Người khởi xướng lí thuyết kết trị là L. Tesnière, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Pháp. Những tư tưởng về lí thuyết kết trị được L.Tesnière trình bày trong cuốn “Các yếu tố của cú pháp cấu trúc” (Elements de syntaxe structurale, 1959). Trong cuốn sách trên đây của L.Tesnière, lí thuyết kết trị đã được trình bày gắn liền với tư tưởng về ngữ pháp phụ thuộc của ông. L.Tesnière viết: “Quan hệ cú pháp xác lập giữa các từ mối quan hệ phụ thuộc. Mỗi quan hệ thống nhất một yếu tố đứng trên với một vài yếu tố đứng dưới. Yếu tố đứng trên chúng tôi sẽ gọi là yếu tố chi phối hoặc yếu tố chính, còn yếu tố đứng dưới là yếu tố phụ thuộc. Chẳng hạn, trong câu “Alfred parle.”(Anphret nói), parle (nói) là yếu tố chính, còn Anfred (Anphred) là yếu tố phụ” [ 49, tr.64]. Mối quan hệ cú pháp ở câu trên được trình bày bằng sơ đồ sau: Parle (nói) Alfred Cùng với nguyên tắc phụ thuộc và tính tôn ti của quan hệ cú pháp như đã nêu, L. Tesnière cũng lưu ý đến tính chất một chức năng của yếu tố phụ thuộc: “Về nguyên tắc, không một yếu tố phụ thuộc nào có thể phụ thuộc vào hơn một yếu tố chính. Ngược lại, yếu tố chính có thể chi phối một vài yếu tố phụ thuộc” [ 49, tr.25]. Theo quan niệm của L. Tesnière, mỗi yếu tố chính mà ở nó có một hoặc một vài yếu tố phụ lập thành cái ông gọi là nút (tiếng Pháp: noeut, tiếng Nga: uzel). Nút được L. Tesnière định nghĩa là “tập hợp bao gồm từ chính và tất cả các từ trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào nó” [ 49, tr.25]. Nút được tạo thành bởi từ thu hút vào mình, trực tiếp hoặc gián tiếp, tất cả các từ của câu được gọi là nút trung tâm. Nút này đảm bảo sự thống nhất cấu trúc của câu bởi nó gắn tất cả các yếu tố của câu thành một chuỗi thống nhất. Trong ý nghĩa nhất định, nó đồng nhất với cả câu [ 49, tr.26]. Nút trung tâm thường được cấu tạo bởi động từ (như các ví dụ trên đây) nhưng cũng có thể là danh từ, tính từ, trạng từ. 5 Nút động từ theo quan niệm của L.Tesnière là trung tâm của câu trong phần lớn các ngôn ngữ châu Âu và biểu thị cái tương tự như một vở kịch nhỏ với các vai diễn (gắn với hành động) và hoàn cảnh. Nếu đi từ mặt thực tế của vở kịch sang bình diện cú pháp cấu trúc thì hành động, các vai diễn và hoàn cảnh sẽ trở thành các yếu tố tương ứng với động từ, diễn tố (actants), chu tố (circonstants). Động từ biểu thị quá trình (frappe - đánh trong Alfred frappe Bernard-Alfred đánh Bernard). Các diễn tố chỉ người hay vật tham gia vào quá trình với tư cách bất kì (chủ động hay bị động). Chẳng hạn, trong câu trên, các diễn tố là Alfred và Bernard [49, tr.117]. Các diễn tố có đặc điểm chung là đều phụ thuộc vào động từ (kể cả diễn tố chủ thể hay chủ ngữ), đều có tính bắt buộc và về hình thức, được biểu hiện bằng danh từ hoặc các yếu tố tương đương (bằng vị từ hoặc mệnh đề phụ có chức năng tương đương với danh từ). Dựa vào chức năng mà các diễn tố thực hiện theo mối quan hệ với động từ, L. Tesnière phân loại các diễn tố (actants) thành: diễn tố thứ nhất, diễn tố thứ hai và diễn tố thứ ba. Diễn tố thứ nhất được ông gọi là chủ thể (suject), tức là chủ ngữ truyền thống. Chẳng hạn, trong câu “Alfred parle.” (Anphret nói.), Anphret là diễn tố thứ nhất. Diễn tố thứ hai là diễn tố đối thể (object). Diễn tố này, về cơ bản, phù hợp với bổ ngữ chỉ đối thể trong ngữ pháp truyền thống. Chẳng hạn, trong câu “Alfred frappe Bernard.” (Anphret đánh Bécna.), Bécna về cấu trúc là diễn tố thứ hai (diễn tố đối thể). L. Tesnière lưu ý rằng diễn tố chủ thể (chủ ngữ) và diễn tố đối thể (bổ ngữ) chỉ đối lập nhau về mặt nghĩa, còn mặt cấu trúc (cú pháp) giữa chúng không có sự đối lập [49, tr.124]. Diễn tố thứ ba, là diễn tố chỉ sự vật mà hành động được thực hiện có lợi hay gây hại cho nó. Về cơ bản, diễn tố thứ ba tương ứng với bổ ngữ gián tiếp trong ngữ pháp học truyền thống. Chẳng hạn, trong câu: “Alfred donne le liver à Charle. ” (Anphret đưa cuốn sách cho Sáclơ.), à Charle (Sác lơ) là diễn tố thứ ba. Câu trên được sơ đồ hóa như sau: 6 Donne (đưa) Alfred le liver à Charle (Anphret) (cuốn sách) (Sáclơ) (actant 1) (actant 2) (actant 3) Cùng nằm trong thành phần cấu trúc của câu động từ, bên cạnh các diễn tố còn có các chu tố (circonstant). Về nghĩa, các chu tố biểu thị hoàn cảnh (thời gian, vị trí, phương thức…) trong đó quá trình được mở rộng. Chẳng hạn, trong câu “Alfred parl bien.” (Anphret nói hay), từ bien (hay) là chu tố. Lược đồ của câu này như sau: Parl Alfred bien Lí thuyết kết trị của L.Tesnière như nêu tóm tắt trên đây, sau khi ra đời, đã được phổ biến rộng rãi và được ứng dụng ở nhiều nước vào việc nghiên cứu từ loại, cú pháp và đây cũng là một chỗ dựa lí thuyết cho tác giả luận văn khi nghiên cứu và động từ hai diễn tố. Ở Trung Quốc, trong số các công trình nghiên cứu về động từ và kết trị của động từ, phải nhắc đến các công trình sau: cuốn “现代汉语配价语法研究”[Nghiên cứu về ngữ pháp kết trị Hán ngữ hiện đại] của 袁毓林,郭锐(1998), [Viên Dục Lâm, Quách Nhuệ], cuốn “汉语配价语法研究”[Nghiên cứu về ngữ pháp kết trị Hán ngữ] của 袁 毓林(2010)[Viên Dục Lâm]và cuốn “现代汉语配价语法研究” [Nghiên cứu về ngữ pháp kết trị Hán ngữ hiện đại] của 周国光(2011), [Chu Quốc Quang]. Những tác phẩm này đi sâu vào nghiên cứu lí thuyết kết trị và kết trị động từ trong tiếng Trung. 1.1.2.2. Ở Việt Nam Nguyễn Văn Lộc là người đầu tiến tiến hành nghiên cứu động từ tiếng Việt theo lí thuyết kết trị một cách có hệ thống và chuyên sâu. Trong công trình Kết trị của động từ tiếng Việt (1995), trên cơ sở cách hiểu kết trị của động từ là khả năng của động từ 7 tạo ra xung quanh mình các vị trí mở (các ô trống) cần hoặc có thể làm đầy bởi các thành tố cú pháp (các thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định [10, tr.34], tác giả đã tiến hành phân tích, miêu tả kết trị bắt buộc của động từ tiếng Việt qua đó, làm rõ đặc điểm của hai loại diễn tố: diễn tố chủ thể và diễn tố đối thể. Công trình này thật sự đặt dấu mốc quan trọng cho một hướng nghiên cứu mới về từ loại và cú pháp: hướng nghiên cứu động từ và tổ chức cú pháp của câu dựa vào thuộc tính kết trị của động từ trong vai trò hạt nhân cú pháp (đỉnh cú pháp) của cụm động từ và câu. Tiếp theo công trình của Nguyễn Văn Lộc, gần đây, đã có một số công trình vận dụng lý thuyết kết trị vào việc nghiên cứu động từ ở các góc độ, bình diện khác nhau. Chẳng hạn, có thể kể đến một số công trình như: Động từ chủ động trong tiếng Việt của Gia Thị Đậm (2010); Phân tích, phân loại câu theo lý thuyết kết trị của Nguyễn Mạnh Tiến (2010); Kết trị tự do của động từ tiếng Việt của Nguyễn Thùy Dương (2011); Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt của Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012);Các diễn tố được biểu hiện bằng vị từ và cụm chủ vị trong tiếng Việt của Nguyễn Thị Thu Hoà (2014); Sự hiện thực hóa kết trị bắt buộc của động từ Tiếng Việt của Trần Minh Tuất (2014); Sự chi phối của động từ trong tiếng Việt của Phùng Thị Huyền (2015). Các động từ ba diễn tố (trên cứ liệu tiếng Việt có so sánh với tiếng Anh) của Nguyễn Thị Hương (2018). 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về động từ hai diễn tố Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu về động từ hai diễn tố trong tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy tiểu loại động từ này, trên thực tế, đều đã được đề cập đến ở các mức độ khác nhau trong các công trình nghiên cứu về từ loại và ngữ pháp tiếng Việt của các tác giả như: Nguyễn Kim Thản (1964, 1977), Diệp Quang Ban (1989), Nguyễn Thị Quy (1995), Đinh Văn Đức (2010)… Tuy nhiên, đến nay, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về tiểu loại động từ hai diễn tố, đặc biệt là hướng nghiên cứu động từ hai diễn tố trong tiếng Việt theo lí thuyết kết trị có so sánh với tiếng nước ngoài. Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về động từ hai diễn tố trong tiếng Việt theo lí thuyết kết trị có so sánh với tiếng nước ngoài là vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, ở luận văn này, chúng tôi sẽ đi sâu vào việc tìm hiểu về động từ hai diễn tố trong tiếng Việt theo lý thuyết kết trị (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung). 1.2. Cơ sở lí luận 8 1.2.1. Động từ 1.2.1.1. Khái niệm Động từ là từ loại có số lượng lớn và là một trong hai từ loại cơ bản của tiếng Việt. Với số lượng lớn và đặc điểm ý nghĩa, đặc điểm hoạt động ngữ pháp phức tạp nhất, động từ giữ vai trò ngữ pháp quan trọng trong việc tổ chức câu tiếng Việt. Phạm vi hoạt động của động từ khá rộng và đa dạng. Do đó, động từ đã thu hút sự chú ý, quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu. Vai trò của động từ đã được Nguyễn Kim Thản khẳng định: “Trong câu, động từ gần như là trung tâm của các mối quan hệ giữa các từ, nó không những có mối quan hệ tường thuật với từ chỉ chủ thể mà còn có quan hệ chính phụ với những từ chỉ đối tượng, chỉ hoàn cảnh, trạng thái... đặt sau đó” [24, tr.97]. Trong việc xác định khái niệm động từ, đến nay đã có nhiều ý kiến khác nhau. Theo “Từ điển tiếng Việt”, động từ là “từ chuyên biểu thị hành động trạng thái hay quá trình, thường làm vị ngữ trong câu.” [19, tr.346]. Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (tập 1), Diệp Quang Ban cho rằng: “Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình: - Ý nghĩa quá trình thể hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thực thể. Đó là ý nghĩa hành động, ý nghĩa trạng thái được khái quát hoá từ mối liên hệ với vận động của thực thể trong thời gian và không gian” [1, tr.90]. Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” của Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, các tác giả của cuốn sách cho rằng: “Động từ là từ có ý nghĩa khái quát về hoạt động, trạng thái” [39, tr.88]. Tác giả Nguyễn Lân trong cuốn “Ngữ pháp Việt Nam” cho rằng: “Động từ là thứ từ dùng để biểu diễn một tác động, một hành vi, một ý nghĩ hoặc một cảm xúc, một trạng thái hoặc sự phát triển, sự biến hoá của một trạng thái” [26, tr.32]. Trong luận văn này, khi xác định khái niệm động từ, trên cơ sở tham khảo các ý kiến của các nhà nghiên cứu và dựa vào ý kiến của Nguyễn Văn Lộc [12, tr.100-103], chúng tôi hiểu khái niệm động từ như sau: 1) Về mặt ý nghĩa: Động từ chỉ hoạt động (hành động hay trạng thái) của sự vật, có khả năng được bổ sung ý nghĩa thời thể (thời gian, mệnh lệnh, kết quả...). 2) Về mặt hình thức: 9 a)Về khả năng kết hợp: - Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với: + Các phó từ thời thể như: đã, đang, sẽ, hãy, đừng... Ví dụ: đã học, đang đi, hãy đọc, đừng làm... + Từ chỉ chủ thể hoạt động (chủ ngữ) Ví dụ: Nam đọc, Nam chạy… - Động từ có khả năng kết hợp về phía sau với các thành tố phụ khác để tạo thành cụm động từ. Cụ thể: + Các thành tố phụ chỉ phương hướng: ra, vào, lên, xuống... Ví dụ: chạy ra, bước vào, leo lên, đi xuống... + Các thành tố phụ chỉ kết quả: xong, rồi.... Ví dụ: làm xong, ăn rồi... + Các thực từ ở phía sau để phản ánh các quan hệ trong nội dung vận động của quá trình. Ví dụ: Đọc sách ở thư viện, liên lạc bằng điện thoại b)Về chức năng cú pháp: Động từ có khả năng giữ nhiều chức năng ngữ pháp khác nhau nhưng chức năng ngữ pháp quan trọng nhất của động từ là làm vị ngữ của câu. Theo thống kê của Nguyễn Kim Thản, những câu có động từ làm vị ngữ chiếm khoảng 88%. Ngoài ra, động từ còn tham gia đảm nhiệm nhiều chức năng khác trong câu như: bổ ngữ, chủ ngữ, định ngữ, trạng ngữ... - Động từ làm bổ ngữ: Tôi muốn đi Hà Nội. - Động từ làm chủ ngữ: Lao động là vinh quang. - Động từ làm định ngữ: Bút này là bút kí. - Động từ là trạng ngữ: Nói xong, nó bỏ đi ngay. Tóm lại, động từ là một từ loại thực từ cơ bản trong kho từ vựng của bất kì ngôn ngữ nào. Ý nghĩa khái quát của động từ là chỉ hoạt động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan cũng như trong đời sống tinh thần của con người. Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với các phó từ thời thể, về phía sau với các phụ từ 10 và các thực từ tạo thành cụm động từ. Chức năng ngữ pháp cơ bản của động từ là làm vị ngữ trong câu. 1.2.1.2. Một số vấn đề cần chú ý khi xác định động từ Khi xếp loại các từ, có thể gặp khá phổ biến hiện tượng thường gọi là “chuyển loại”, nghĩa là hiện tượng một từ vốn thuộc từ này lại phát triển thêm ý nghĩa và có thêm những dấu hiệu hình thức đặc trưng cho từ loại khác. So sánh: Tôi về1 quê. Chúng tôi tìm hiểu về2 vấn đề này. Bố tôi mua cưa1. Bố tôi cưa2 gỗ. Đối với trường hợp trên đây, mỗi trường hợp dùng của từ sẽ được xếp vào một từ loại: chẳng hạn, trong các ví dụ dẫn ra ở trên, “về1 ” là động từ, còn “về2” là quan hệ từ, “cưa1” là danh từ, “cưa2” là động từ. Khi phân định động từ, trước hết, ta xác định được một nhóm lớn bao gồm những từ có đầy đủ đặc điểm nêu trên đây của động từ. Thuộc nhóm này là những từ kiểu như: đi, chạy, ăn, đọc, viết, trao... Có thể gọi những từ thuộc nhóm này là những động từ điển hình hay những động từ - thực từ. Chúng tạo nên khu vực trung tâm của từ loại động từ. Bên cạnh các động từ - thực từ còn có một nhóm không lớn bao gồm những từ có không đầy đủ các đặc điểm nêu trên đây của động từ. Thuộc nhóm này là những từ kiểu như: trở thành, trở nên, phải, bị, được, khiến... Khác với các động từ - thực từ hay động từ điển hình, các động từ này không chỉ hoạt động cụ thể mà chỉ hoạt động trừu tượng, khái quát (hoạt động hiểu theo nghĩa ngữ pháp). Chính do sự trống vắng, nghèo nàn về ý nghĩa từ vựng mà về hình thức, các từ thuộc nhóm này chỉ có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn một cách hạn chế, có điều kiện. Khi trả lời các câu hỏi “làm gì”, “làm sao” đặc trưng cho động từ, chúng thường phải kết hợp vào mình một thực từ khác. Với những đặc điểm chỉ ra trên đây, các từ thuộc nhóm thứ hai rõ ràng mang tính trung gian giữa động từ và hư từ. Trong luận văn này, chúng tôi xếp chúng vào động 11 từ - bán thực từ hay động từ - ngữ pháp. Động từ ngữ pháp chính là nhóm động từ không điển hình tạo thành khu vực biên của từ loại động từ. 1.2.2. Vài nét về lí thuyết kết trị, khái niệm diễn tố, chu tố 1.2.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị a) Khái niệm kết trị Thuật ngữ kết trị [hoá trị, ngữ trị, tiếng Pháp: valence, tiếng Nga: valentnost, tiếng Trung: 配价 (phối trị, ngữ trị)] vốn được dùng trong hoá học để chỉ thuộc tính kết hợp của các nguyên tử với một số lượng xác định các nguyên tử khác. Thuật ngữ này mới chỉ được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ học từ cuối những năm bốn mươi của thế kỉ XX để chỉ khả năng kết hợp của các lớp từ hoặc các lớp hạng đơn vị ngôn ngữ nói chung. Theo L. Tesniere: “Có thể hình dung động từ ở dạng như nguyên tử với những cái móc có thể hút vào mình một số lượng nhất định diễn tố phù hợp với số lượng móc mà nó có để giữ bên mình các diễn tố này- số lượng các móc có ở động từ và số lượng diễn tố mà nó có khả năng chi phối lập thành bẩn chất của cái mà chúng tôi sẽ gọi là kết trị của động từ (valence verbe)” [ 49, tr. 250]. Cách hiểu trên đây của L.Tesnière có thể coi là cách hiểu hẹp về kết trị. Với cách hiểu này, kết trị của động từ được hiểu là khả năng của động từ kết hợp vào mình các thành tố bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) và các thành tố tự do (trạng ngữ). Theo cách hiểu rộng, kết trị được coi là thuộc tính kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ. (Dẫn theo [10, tr.29]).Với cách hiểu này, kết trị của từ theo nghĩa rộng được hiểu không chỉ là khả năng của các từ loại thực từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi các thành tố cú pháp (các thực từ) nhất định mà còn là khả năng của các thực từ làm đầy các vị trí mở bên các từ loại khác. Theo cách hiểu này, kết trị của động từ được hiểu là khả năng của động từ tham gia vào các mối quan hệ cú pháp nói chung, tức là thuộc tính kết hợp cú pháp của động từ với tư cách là đại diện cho từ loại, tiểu loại. Trong luận văn này, chúng tôi hiểu sẽ hiểu kết trị của động từ theo nghĩa rộng như vừa trình bày trên đây. 12 b) Các kiểu kết trị của động từ - Kết trị nội dung và kết trị hình thức + Kết trị nội dung Kết trị nội dung là sự kết hợp về mặt ngữ nghĩa giữa từ mang kết trị và các thành tố phụ (các diễn tố, chu tố). Kết trị nội dung thường được xác định theo đặc điểm về ý nghĩa cú pháp (các kiểu nghĩa như chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân...) của các diễn tố, chu tố và phụ thuộc chặt chẽ vào ý nghĩa của từ mang kết trị. Vì kết trị nội dung phụ thuộc chặt chẽ vào nghĩa của từ nên sự thay đổi về nghĩa của từ luôn kéo theo sự thay đổi kết trị nội dung cua nó. Ví dụ, động từ “chạy” trong tiếng Việt vốn có ý nghĩa nội hướng và khi được dùng với ý nghĩa vốn có của mình nó không thể có kết trị đối thể (Ví dụ: Nó đang chạy trên đường). Nhưng khi được dùng với ý nghĩa ngoại hướng, “chạy” hoàn toàn có thể có kết trị đối thể như các động từ ngoại hướng khác (Ví dụ: Nó chạy thóc vào nhà). + Kết trị hình thức Kết trị hình thức của từ là mối quan hệ (sự kết hợp) về hình thức giữa từ mang kết trị và các thành tố bổ sung (ở động từ là các diễn tố, chu tố). Khác với kết trị nội dung chỉ gắn với mặt nghĩa của từ mang kết trị, kết trị hình thức gắn với đặc tính ngữ pháp của từ. Sự đối lập giữa kết trị nội dung và kết trị hình thức được bộc lộ rất rõ trong các ngôn ngữ biến hình. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, hình thức động từ “chitaju” về mặt kết trị nội dung, đòi hỏi hai diễn tố là chủ thể và đối thể hoạt động. Nhưng khi xác định các yếu tố làm đầy các vị trí mở bên hình thức động từ này, chúng ta không thể chỉ chú ý đến ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp của từ. Chỉ có thể nói: “Ja chitaju knigu” chứ không thể nói: “On chitaju kniga”. Cấu trúc sau sở dĩ không chấp nhận được là vì giữa các từ không có sự phù ứng về hình thức ngữ pháp. - Kết trị bắt buộc và kết trị tự do + Kết trị bắt buộc Kết trị bắt buộc là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần làm đầy bởi các thành tố bắt buộc (ở động từ là các diễn tố). 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan