Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn giọng điệu giễu nhại trong một số tác phẩm gần đây của hồ anh thái, tạ ...

Tài liệu Luận văn giọng điệu giễu nhại trong một số tác phẩm gần đây của hồ anh thái, tạ duy anh, châu diễn

.PDF
105
86
61

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- VŨ THỊ THANH LOAN GIỌNG ĐIỆU GIỄU NHẠI TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM GẦN ĐÂY CỦA HỒ ANH THÁI, TẠ DUY ANH, CHÂU DIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ----------  ---------- VŨ THỊ THANH LOAN GIỌNG ĐIỆU GIỄU NHẠI TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM GẦN ĐÂY CỦA HỒ ANH THÁI, TẠ DUY ANH, CHÂU DIÊN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TÔN PHƯƠNG LAN HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… 3 1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………….. 3 2. Lịch sử vấn đề …...………………………………………………………… 4 2.1. Về giọng điệu giễu nhại của Hồ Anh Thái .……………………………… 4 2.2. Về giọng điệu giễu nhại trong văn Châu Diên ..…………………………. 9 2.3. Về giọng điệu giễu nhại trong văn Tạ Duy Anh ………………………... 11 3. Phạm vi nghiên cứu ………………………………….……………………. 15 4. Phương pháp nghiên cứu ….……………………………………………….. 15 5. Cấu trúc luận văn …..………………………………………………………. 16 Chương 1: Giới thuyết về giọng điệu giễu nhại và giọng điệu giễu nhại 17 trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 1.1. Giới thuyết về giọng điệu giễu nhại ……………………………………. 17 1.1.1. Giới thuyết về giọng điệu trần thuật ………………………………….. 17 1.1.2. Giới thuyết về giễu nhại ……………………………………………….. 20 1.1.3. Giọng điệu giễu nhại …………………………………………………... 24 1.2. Giọng điệu giễu nhại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975………………... 25 1.2.1. Tiền đề xuất hiện cảm hứng và giọng điệu giễu nhại ………………….. 25 1.2.2. Giọng điệu giễu nhại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975……………… 27 Chương 2: Giọng điệu giễu nhại - một phương thức thể hiện cảm hứng 32 phê phán của nhà văn với hiện thực 2.1.Thái độ giễu nhại đối với những vấn đề của đời sống, xã hội……………. 35 2.1.1. Lên án những nguy cơ làm biến dạng và tha hóa đối với con người…... 35 1 2.1.2. Đau xót trước những chuẩn mực bị đánh tráo………………………….. 45 2.1.3. Phơi bày mặt khuất của đời sống trí thức………………………………. 48 2.1.4. Những góc tối trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, văn học nghệ thuật 53 2.2. Thái độ giễu nhại đối với con người có những mảnh tính cách bất bình thường 64 2.2.1. Giễu cợt nhưng đau xót, bất lực trước con người sùng ngoại, háo danh, thực dụng ……………………………………………………………………... 65 2.2.2. Cảnh báo nỗi bất an trước con người phi nhân tính……………………. 67 2.2.3. Vừa giận vừa thương con người tự nhiên bản năng……………………. 69 Chương 3: Giọng điệu giễu nhại và những vấn đề nghệ thuật liên quan 74 3.1. Điểm nhìn trần thuật và giọng điệu giễu nhại …………………………… 74 3.1.1. Giới thuyết về điểm nhìn trần thuật…………………………………….. 74 3.1.2. Điểm nhìn linh hoạt tạo hiệu ứng cho giọng điệu giễu nhại thêm ấn tượng ………………………………………………………………………….. 76 3.2. Đặt tên nhân vật - một cách giễu nhại của giọng điệu …………………... 82 3.2.1. Nhân vật được đặt tên theo cách thông thường ………………………... 83 3.2.2. Nhân vật được mã hóa …………………………………………………. 85 3.3. Giọng điệu giễu nhại thể hiện qua lời văn giễu nhại……………………... 87 3.4. Giọng điệu giễu nhại tạo nên nét cá tính riêng trong phong cách của nhà văn ……………………………………………………………………………. 94 KẾT LUẬN…………………………………………………………………... 96 Danh mục Tài liệu tham khảo ………………………………………………... 99 2 PHẨN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Từ sau 1975, đặc biệt là từ 1986 với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị cho tới văn hóa, xã hội đều có sự chuyển biến tích cực. Hòa chung với xu thế ấy, văn học nghệ thuật cũng không ngừng tự đổi mới với những bước chuyển mình đáng ghi nhận mà trước hết là đổi mới trong quan niệm nghệ thuật, cảm hứng nghệ thuật, cách thức chọn đề tài. Được cổ xúy bởi hoàn cảnh đất nước, hiện thực khách quan, ý thức dân chủ tăng cao, nhà văn dần hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề góc cạnh, nhạy cảm và mang tính thời sự hơn. Cảm hứng sự thật dần rõ nét trong dòng chảy văn học đương đại với nhiều hướng tìm tòi cách tân trong phương thức thể hiện. Giọng điệu giễu nhại với sự trở lại khá ấn tượng, đầu tiên chỉ là một nét chấm phá trong dàn đồng ca bên cạnh giọng trữ tình hoặc khách quan truyền thống (chỉ với tư cách là một nét tô điểm thêm, làm mềm đi cái hiện thực được phản ánh, bớt chút căng thẳng cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm), tiến đến vị trí tham gia lĩnh xướng bản hòa âm giọng điệu và trở thành một trong những thủ pháp thể hiện hiệu quả cảm hứng phê phán thời kì mới. 1.2. Tiểu thuyết vốn là thể loại mang trên mình gánh nặng thời đại. Cả quá trình phát triển lâu dài đã minh chứng sức sống lâu bền của gã khổng lồ trong văn học này. Tiểu thuyết đủ sức vóc chuyên chở tất cả những vấn đề của xã hội, con người với đủ mọi chiều kích. Do vậy, tìm hiểu những vấn đề nghệ thuật trong tiểu thuyết không bao giờ là đủ nếu chúng ta muốn nắm bắt và đam mê nó. Nhưng cũng chính vì sự cực thịnh, mà lẽ dĩ nhiên sẽ có lúc sức tàn. Thực tế, ở phương Tây hiện nay đang có những khủng hoảng trong thể loại này, nhiều học giả đã đặt ra câu hỏi về cái chết của tiểu thuyết. Do vậy, 3 làm thế nào để tránh cái chán nản đáng muộn phiền đối với những thứ quen thuộc cho độc giả và cao hơn nữa là giữ được sức quyễn rũ của tiểu thuyết là điều khó, nhưng không phải là không thể làm được. Sự quá tải, mỏi mệt dường như đang hiện hữu đâu đây khi tiểu thuyết đang phải gánh những vấn đề mới chỉ bằng hình hài và sức vóc cũ. Rõ ràng, việc đổi mới quan niệm nghệ thuật, đổi mới cách chọn đề tài, chủ đề vẫn là chưa đủ cho một sự thay đổi toàn diện mang tính tích cực cho văn học. Nhu cầu đổi mới thể loại, vì thế, không chỉ mang ý nghĩa cách tân mà còn là nhu cầu sống còn nếu người cầm bút muốn tìm được chỗ đứng lâu bền trong lòng độc giả. 1.3. Trong số những nhà văn có ý thức tìm tòi những cách tân, mang thêm những mới lạ trong cách viết sau 1975, đặc biệt là sau 1986, Châu Diên, Hồ Anh Thái và Tạ Duy Anh là ba trong số những cái tên được nhắc đến khá nhiều. Những sáng tạo của họ không chỉ ở hướng lựa chọn đề tài, cảm hứng thể hiện mà còn rất mới lạ ở hình thức mang ý nghĩa cách tân thể loại. Họ gặp gỡ nhau khi cùng chọn dùng giọng điệu giễu nhại trong các tác phẩm của mình, đặc biệt là trong một số tiểu thuyết ra mắt gần đây (khoảng sau năm 2000) như Người sông Mê (Châu Diên), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh). Khảo sát giọng điệu giễu nhại trong các tác phẩm ấy, luận văn mong muốn góp một tiếng nói khẳng định về sự phát triển theo chiều hướng ngày càng phong phú, đa dạng và hài hòa hơn của văn xuôi Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Về giọng điệu giễu nhại của Hồ Anh Thái Tuy không phải là cái tên mới nổi trên văn đàn, cũng không hẳn là một nhà văn trẻ nữa, nhưng cái tên Hồ Anh Thái đã trở thành một thương hiệu có sức hút đặc biệt tới độc giả đến với những sáng tác của anh. Giọng văn trào 4 lộng, hài hước của anh ngày càng đậm nét, nhất là trong những tác phẩm mới được công bố thời gian gần đây. Tác phẩm của Hồ Anh Thái là đối tượng nghiên cứu của không ít các bài viết, bài phê bình, các luận án, luận văn và khóa luận tốt nghiệp. Trong đó, chất hài hước, hóm hỉnh, đùa cợt, trào tiếu nhưng chua cay được nhắc đến khá nhiều và được coi như một đặc điểm nổi bật trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn này. Sau một vài truyện ngắn có dư vị hài hước trong tập truyện ngắn Mảnh vỡ của đàn ông, dư luận đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến chất giọng hài hước, trào lộng của Hồ Anh Thái trong tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày. Ngòi bút hài hước, châm biếm lần này hướng vào giới công chức, mà tập trung nhất ở những trí thức thời kỳ đổi mới. Trong bài Có ai chẳng muốn đùa, nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận xét: “Thật thú vị khi được dẫn đường bởi một người hiểu chuyện, hóm hỉnh và biết đùa như thế. Ở đâu, với ai, trong chuyện gì, Hồ Anh Thái cũng tìm ra được bao nhiêu là cái hài hước, đáng cười, mà lại cười một cách rất đúng mực, chỉn chu, rất an toàn. Tưởng có thể cười mãi với Hồ Anh Thái cho đến lúc buông sách ra” [65, tr. 231]. Sau khi nhận xét khá sắc sảo về cái tôi cô đơn của Hồ Anh Thái, Lê Quang Toản trong bài Che giấu sự cô đơn cũng không quên nhắc đến cái chất cười cợt, trào tiếu của tập truyện: “Hồ Anh Thái cần có nơi để đùa cợt, để xả soupape hay là tác giả đã quá khéo léo che giấu sự cô đơn của mình trong những tiếng cười rất đời” [65, tr. 239]. Vân Long trong Một giọng văn khác đã viết: “Ở tập truyện ngắn này, nhà văn hình thành một giọng văn hoàn toàn khác thời kỳ đầu: Trào lộng, châm biếm, hóm hỉnh và sắc sảo những câu chuyện, những thói tật đáng cười trong xã hội. Đọc tập truyện này, người đọc nhiều chỗ phải bật cười thành tiếng như đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hay Azit Nêxin" [65, tr. 245]. Trên báo Nông 5 nghiệp Việt Nam ngày 05/10/2001, Trần Thị Nhường dẫn ý kiến của một người khác cho rằng trong “Tự sự 265 ngày có cái cười nửa miệng của thi hào Gôgôl, có cái giọng điệu hiện thực huyền ảo của Milan Kundera... Nếu muốn cười mà lòng vẫn đau đủ chín khúc thì hãy đọc Tự sự 265 ngày. Cười người hay cười mình lẫn lộn cả nhưng đọc rồi cũng thấy muốn cười một tí...” [65, tr. 247]. Bằng lập luận kiểu phản đề, Nguyễn Chí Hoan trong bài Nhà văn không cười đã viết: “(…)có lẽ nói cho đúng, nhà văn cười nhưng chỉ nhếch mép... Toàn bộ 11 truyện trong tập đều một lối hoạt kê, không thể không cười song 'ý tại ngôn ngoại' ở đây thì đều đắng đót” [65, tr. 249]. Từ Tự sự 265 ngày đến Bốn lối vào nhà cười, đối tượng giễu nhại đã mở rộng ra cả cõi nhân sinh bằng bốn lối Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Giới thiệu tập truyện ngắn này, báo điện tử VietNamNet viết: “Cuộc đời theo Hồ Anh Thái như một cái nhà cười mà bốn con đường đi vào ngôi nhà ấy là Sinh Lão - Bệnh - Tử", "Hồ Anh Thái viết như để giảm stress bởi bốn con đường dẫn vào nhà cười của anh đều lát đá hoạt kê. Cái giọng văn hài hước, ngôn ngữ đường phố, chợ búa đầu thế kỷ XXI đọc để giải sầu” [26]. Có điều đặc biệt là “ở lối vào nhà cười nào cũng có tiếng cười, nó biến giọng văn của Hồ Anh Thái thành giọng của một trí thức châm chọc, giọng hoạt kê, đả kích bằng thứ ngôn ngữ đáo để, hài hước” [26]. Báo Sài Gòn tiếp thị nêu nhận xét: “Ở Bốn lối vào nhà cười, tiếng cười thật chua chát, bật lên được ý thức tự trào của một người Việt tự trào. Từ những chuyện vặt nhưng khả năng phóng chiếu, châm biếm của nó thì không vặt chút nào, bởi nó chạm đến phần nhạy cảm trong tính cách con người ta. Nếu tự tri ngộ tức là tự cười mình để thoát ra tứ đại khổ, nhìn xuống nhân sinh có khi chợt thấy một nhà cười” [26]. Tạp chí Sức khỏe và đời sống cũng có những đánh giá khá thống nhất với những nhận định trên: “Nhà văn Hồ Anh Thái đã mang đến cho bạn đọc những giây phút sảng khoái cười. Ngòi bút trơn lướt, anh viết hấp dẫn, giọng 6 văn châm biếm, trào lộng; ngôn ngữ hoạt kê hiện đại... Cái sự gây cười nhiều hơn là ở những chi tiết đắt giá” [26]. Về cái cười trong văn Hồ Anh Thái, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ trong cuộc nói chuyện với Phạm Xuân Nguyên đã nhận xét: “Tôi không thấy những chuyện tưởng chỉ để cười nếu đọc thoáng qua... chỉ đơn thuần là những chuyện cười cho vui, mà ở đây là cười ra nước mắt” [34]. Với tiểu thuyết, đặc điểm về chất giễu nhại trong giọng điệu lại càng bộc lộ rõ nét hơn, đặc biệt với cuốn Cõi người rung chuông tận thế mà chúng tôi đã chọn nghiên cứu trong đề tài này. Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế không phải ngay từ khi ra đời đã được công chúng đón nhận nhiệt tình. Nét nổi bật ở tiểu thuyết này theo nhiều người đánh giá là ở chất giọng đa thanh nhưng cũng không ít người yêu thích giọng văn hài hước, trào lộng. Trong bài Cái ảo trên nền thực, tác giả Vân Long viết: “Về mặt này, Hồ Anh Thái đặc biệt mài sắc được giọng kể trào lộng, châm biếm có duyên... giọng văn trào lộng, hóm hỉnh nhà văn như chỉ dành cho nhân vật phản diện...” [44, tr.12] Trần Duy Hiển trong Rung chuông cảnh tỉnh con người nhận xét: “Đọc Cõi người rung chuông tận thế, người ta thấy nụ cười chua chát của nhà văn trước mọi nhố nhăng của đời sống...” [60, tr. 325]. Ghi nhận tài năng của lớp trẻ, nhà văn Ma Văn Kháng khẳng định trong Cái mà văn chương ta còn thiếu rằng: “Tôi thích giọng văn của Hồ Anh Thái. Nó có cái thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa có tính truyền thống. Hơn nữa, cái này mới là cái thật thích đây: Chất trào phúng, giễu nhại cay chua mà tâm thiện, chất này văn chương ta thiếu quá. Không có tài, chịu đấy!” [60, tr. 326, 327]. Phạm Chí Dũng trong bài Ám ảnh và dự cảm đăng trên báo Văn nghệ ngày 22/11/2003 nhận định: “Cõi người rung chuông tận thế có lẽ là một trong số những sự phơi bày được văn học hóa thành công bởi ngoài yếu tố mạch 7 truyện chuyển động nhanh, hiện đại, đi thẳng vào vấn đề của xã hội hôm nay như nhà văn Tô Hoài nhận xét; còn vì bút pháp châm biếm trào lộng mặc dù có đôi chỗ hơi thái quá nhưng quả tình là đặc biệt và đặc sắc, với cả một kho ngôn ngữ dân gian ẩn dụ và tả thực phải nói là rất phong phú, cùng với điểm nhìn xuất phát từ góc độ khách quan và thái độ giễu cợt của nhà văn với những mặt trái của xã hội cứ thế mà tuôn trào ra, được lôi tuột ra, không che giấu gì cả... đã làm cho cuốn tiểu thuyết này trở nên cuốn hút” [60, tr. 334, 335]. Đánh giá chung về Cõi người rung chuông tận thế và một số sáng tác sau này của Hồ Anh Thái, tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong bài nghiên cứu Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc đã khái quát: “Trong sáng tác của Hồ Anh Thái nhất là giai đoạn sau, ta bắt gặp khá nhiều chất giọng giễu nhại. Sự xuất hiện của loại giọng này hiếm khi xuất hiện trong nghệ thuật sử thi. Cái nụ cười chua chát về cõi nhân sinh, khả năng lật tẩy những trớ trêu, nghịch cảnh trong đời chỉ có thể có được khi nhà văn không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần túy màu hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ...” [60; 328]. Cách đây không lâu, tiểu thuyết mới Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái cũng được bạn đọc đón nhận nhiệt tình. Trong những trang văn ấy “vẫn thấy cái chất giễu nhại, sự sắc sảo như đọc thấu gan ruột thiên hạ của Hồ Anh Thái... những câu chuyện khiến người ta phải cười thắt ruột, cười ra nước mắt” [62, tr. 321]. Tiểu thuyết này một lần nữa khẳng định tính ưu việt của giọng điệu giễu nhại đối với đối tượng thể hiện là cái xã hội với những góc khuất và con người không thiếu những dị biệt, méo mó đã xuất hiện trong những sáng tác trước đó, như nhận định của Lê Hồng Lâm, ấy là “một giọng điệu châm biếm, hài hước và cười cợt quen thuộc những trò lố lăng, kệch cỡm về đời sống thị dân, giới trí thức nửa mùa, những kẻ bất tài mang danh nghệ sĩ...” [62, tr. 332]. 8 2.2. Về giọng điệu giễu nhại trong văn Châu Diên Trước đây, Châu Diên dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp nghiên cứu giáo dục. Sau hai tập truyện ngắn Mái nhà ấm (1959) và Con nhện vàng (1962), dường như vào thời đổi mới, ông mới lại tái xuất văn đàn. Ông là nhà văn rất chịu khó tìm tòi và có ý thức cách tân nghệ thuật tiểu thuyết. Sự độc đáo được thể hiện qua các sáng tác của ông, đặc biệt là trong tiểu thuyết Người sông Mê đã gây được thiện cảm và sự chú ý của nhiều người đọc, thu hút sự quan tâm đánh giá từ phía các nhà phê bình. Phạm Xuân Nguyên, trong Vị đắng của nụ cười, theo tuoitre.com.vn, 14/10/2005 nhận định: Chất giễu nhại trong văn Châu Diên được thể hiện qua nét văn nhẹ nhàng. Chính cái vẻ tưởng như "thật thà, chân chất" ấy tạo cho giọng văn ông màu sắc trào lộng, giễu nhại trong lành. “Cách viết của Châu Diên khiến độc giả tủm tỉm cười khi đọc truyện, nhưng đọc xong có thể khóc thầm lặng lẽ. Ý nghĩa thiên truyện cứ thế lắng sâu vào tâm trí” [49]. PGS. TS Nguyễn Thị Bình cũng xem Người sông Mê là một trong những tiểu thuyết có tính cách tân mạnh, thông qua “sử dụng phổ biến bút pháp nhại, bút pháp huyền thoại trào lộng” tạo nên cái nhịp điệu, ngữ điệu hành văn như “nhại cái nhịp điệu sống luẩn quẩn vô hướng của những con người nhỏ bé” [13, tr. 65]. Nhà nghiên cứu Mai Hải Oanh trong tiểu luận Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đăng trên Tạp chí NCVH số 10/2007 cũng chỉ ra “hiện tượng nhòe nhập điểm nhìn của người kể và điểm nhìn nhân vật” đã xóa nhòa khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật, khiến cho hai điểm nhìn trùng khít, khiến cho “bước vào thế giới sông Mê, người kể chuyện cũng trở thành nhớ nhớ quên quên, mê mê tỉnh tỉnh như nhân vật” [52, tr. 116]. Phan Huy Đường khi khi giới thiệu Người sông Mê trên trang web amvc.free.fr cũng đánh giá cao kiểu tổ chức nghệ thuật của Châu Diên với những lời lẽ hết sức trân trọng: “Khơi lên điều ấy là cưỡng lại 9 bến Lú sông Mê, đòi hỏi tương lai tự do cho mọi người. Tự-do trong cơn đói làm người. Toàn diện. Dù cuối cùng ai cũng phải chết, ta không thể cho phép nhân cách của ta chết tốt. Qua văn phong độc đáo, nửa đùa nửa thật, nửa tỉnh nửa mơ, qua cấu trúc dựng truyện và nghệ thuật kể điêu luyện, Châu Diên đã gửi gấm được nỗi niềm của cả một thời đại vào tiếng Việt”[27]. Nguyễn Thị Thu Huệ cảm nhận văn chương Châu Diên nổi bật với sự “ám ảnh”. Khi gặp ông, nữ nhà văn nhận ra “vẫn là ông, không ngán gì khi mang chính mình ra giễu nhại - một chuyện hiếm người làm được trong văn chương mình” (Bài Lang thang trong chốn rất riêng, theo trang vnca.cand.com.vn) [35]. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến ngưỡng mộ Châu Diên bởi: “Châu Diên quen mà lạ, cũ mà mới là bởi vì vẫn là Châu Diên với văn phong sắc sảo, lập dị, đôi khi “lẩm cẩm” và cấu trúc hỗn tạp, nhưng nếu ông viết dưới một bút danh khác thì sẽ nhiều người lầm tưởng đây là một nhà văn mới xuất hiện. Cuộc đời Châu Diên nhiều biến thiên, ông có cảm quan tích cực, tinh tế, bút lực dồi dào, lại am hiểu và nắm bắt thời cuộc nhanh nên tôi tin tác phẩm của ông sẽ được nhiều người tìm đến: người già tìm thấy ở đó sự sâu lắng, người trẻ tìm thấy ở đó nhiều dữ kiện sống. Châu Diên viết ngổn ngang, cố bứt phá và rất muốn trải nghiệm tìm tòi [35]. Nhà văn Trung Trung Đỉnh đánh giá “Châu Diên là một nhà văn trẻ về thủ pháp và lối tư duy. Ông chọn cho mình cách nhìn những điều nghiêm trọng trong cuộc sống bằng con mắt hồn nhiên, trong sáng (...) phục cái sự hồn nhiên của ông, phục cái cách ông tiếp thu những rối rắm của thời hiện đại và đưa vào trang viết” [35]; PGS. TS Nguyễn Bích Thu coi Người sông Mê cùng với Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Người đi vắng, Thoạt kỳ thuỷ (Nguyễn Bình Phương), Đi tìm nhân 10 vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh),… là một trong “những tác phẩm mở đường cho thời kỳ đổi mới” của văn học [73]. 2.3. Về giọng điệu giễu nhại trong văn Tạ Duy Anh Tạ Duy Anh khởi nghiệp văn chương với tác phẩm trình làng: Bước qua lời nguyền tháng 4 năm 1989 “làm cháy báo Văn nghệ trên tất cả các sạp cả nước”. Motip Romeo - Juliet với mối thù của hai dòng họ trên vai và tình yêu trong tim trong bối cảnh nông thôn Việt Nam những năm 1950-1970 đầy máu và nước mắt cùng với cái tên Tạ Duy Anh càng trở nên nổi tiếng khi GS. Hoàng Ngọc Hiến mượn tên truyện của anh để khái quát: “Có một dòng văn học bước qua lời nguyền” [32]. Với 20 tập truyện trong đó có bốn tiểu thuyết, một tập tản văn trong khoảng 20 năm cầm bút, chừng đó đủ để nói lên sức lao động của một nhà văn. Mỗi thể loại, mỗi câu truyện, đều để lại một dấu ấn Tạ Duy Anh trong lòng độc giả. Tác giả Thụy Khuê trong bài Tạ Duy Anh, người đi tìm nhân vật nhận định: “Mười năm, kể từ Bước qua lời nguyền, đến truyện dài Lão Khổ (1992) rồi tiểu thuyết Đi tìm nhân vật (hoàn tất năm 1999), Tạ Duy Anh đã phát triển hai luận đề chính trong tiểu thuyết của mình: Lời nguyền và tội ác” [36]. Nếu trong Lão Khổ là một bút pháp hiện thực phê phán cổ điển với hình ảnh lão Khổ, bần cố nông chính hiệu, chính tự tay mình đắc lực xây dựng nên cái khổ của chính mình thì đến Đi tìm nhân vật, nhà văn họ Tạ đã thử nghiệm một lối viết đa âm với hình tượng nhân vật là những mảnh ghép của trò chơi xếp hình rải rác khắp trong tác phẩm. Chu Quý chỉ được hiểu thông qua thao tác của người đọc: nhặt nhạnh những mảnh vỡ của “tôi”, của nhà văn Bân đang đi tìm nhân vật của đời mình và lắp ghép. Thảo Miên, cũng như nhân vật tiến sĩ N, người cha của Chu Quý cũng được xây dựng theo công thức lắp 11 ghép ấy. Đề tài tội ác một lần nữa lại được soi chiếu trong tiểu thuyết này nhưng với sự dẫn đường của ký ức (đi tìm sự thật về cái chết của một cậu bé đánh giầy) luôn được đặt trong sự phân vân: có đúng thế không? Có thật thế không? Phải hay không phải? nên người đọc bị đưa vào một tình thế rất căng. Thủ phạm bị tìm ra nhưng cố cãi: “Tôi không là thủ phạm duy nhất. Tôi hoàn toàn không có ý định giết người (…) hắn, một kẻ vô hình nhưng có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ chỗ nào con người có sự ganh ghét thù hận, đã biến tôi thành công cụ của hắn” [3, tr. 40, 41]. Dù rằng cẩn trọng đến mấy cũng không tránh khỏi những phen lạc đường trong những mê cung chữ ấy. Đến hai tiểu thuyết sau, người đọc nhận thấy rõ Tạ Duy Anh đang cố gắng bứt khỏi cái bóng khổng lồ của làng Đồng với những vấn đề của nông thôn trong ký ức một thời sai lầm để hướng tới vấn đề con người và cuộc sống đô thị hiện đại. Là một nhà văn thông minh, với lối viết độc đáo, cảm giác ráo riết trong từng con chữ, Tạ Duy Anh có nhiều nhân vật và chi tiết nghịch dị nhằm giễu nhại góc khuất đời sống, những mảng tối trong nhân tính con người. Ngay từ khi dám “bước qua lời nguyền”, Tạ Duy Anh đã ghi tên mình vào làng văn như một cây bút dám viết, và viết rất nghiêm túc, không nề hà. Ông không chú ý nhiều tới dư luận, khen hay chê đối với ông chỉ là sự tham khảo, là việc đã rồi, chứ không phải là những điều tác động quá lớn tới cách viết của mình. Bản tính thẳng băng ấy vận cả vào văn ông. Các cuốn sách ra đời lần lượt nhưng lại không được in bởi nhà xuất bản vườn nhà (Tạ Duy Anh hiện là biên tập viên tại nhà xuất bản Văn học). Song, chính vì những cái thẳng băng không giấu diếm, che đậy trong những con chữ mà tác phẩm của ông nhận được nhiều sự quan tâm vủa các nhà nghiên cứu. Dù có nhiều ý kiến trái chiều về những đứa con tinh thần của nhà văn, song số đông vẫn thống nhất xem Tạ Duy Anh là một nhà văn có nhiều cố gắng cách tân trong nghệ 12 thuật mà tiêu biểu là Thiên thần sám hối và Giã biệt bóng tối. Ngay khi Giã biệt bóng tối đến tay độc giả, viện Văn học đã tổ chức một buổi tọa đàm, bàn về vai trò, vị trí cuốn tiểu thuyết này trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam đương đại đủ thấy ảnh hưởng của sáng tác này tới diện mạo vốn rất đa dạng của nền văn học nước nhà. Thiên thần sám hối là món quả thơm ngon trong năm mất mùa tiểu thuyết 2004, gặt hái thành công cho Tạ Duy Anh với gần 20.000 bản in. Tin tức trên mạng chỉ có giá trị làm tăng thêm sự tò mò cộng với hâm mộ những giá trị mà người ta đã mặc định sẵn. Theo lời tác giả Việt Hoài trong bài Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện - ác, “Thiên thần sám hối vẫn bán chạy ngoài sạp cũng như trong siêu thị sách và hoàn toàn có thể sẽ được tái bản một lần nữa”. Với lối kết cấu chặt và gọn, có thêm sự uyển chuyển và linh hoạt, cuốn tiểu thuyết được viết như cuốn tự truyện của một hài nhi này “khiến ai đọc nó cũng có thể tìm thấy mình trong đó và hầu hết là giật mình, không tự vấn lương tâm thì cũng tự xấu hổ mà âm thầm đỏ mặt, nhưng nó cũng không quá nghiệt ngã, ráo riết mà vẫn mở đường cho nhân vật - người đọc một lối thoát lương tâm” [32]. Giã biệt bóng tối đến tay bạn đọc năm 2008 cũng là một hiện tượng mang tên Tạ Duy Anh thu hút không ít sự quan tâm của dư luận cũng như giới phê bình. Phùng Gia Thế trong bài Sự bế tắc của một lối viết nhận định trong Giã biệt bóng tối, “tác giả đã thể hiện khá rõ sự bế tắc, loanh quanh của mình trong việc đi tìm lối đi cho tiểu thuyết” ở những bình diện: chủ đề cũ, trong khi cái nhìn không mới; không có cái mới về chất trong sự gia tăng điểm nhìn trần thuật; về ngôn ngữ và giọng điệu thì việc để nhân vật nói tục quá nhiều một cách sống sít chính là điểm yếu của tác phẩm [70]. Ý kiến này nhận được sự đồng tình của nhà nghiên cứu Nguyễn Hòa. Ông viết trong phần bình luận dưới bài của Phùng Gia Thế rằng: ông cũng cảm thấy những điều 13 tương tự khi đọc Giã biệt bóng tối, nhưng không công bố văn bản bài phát biểu có nhan đề Bảy nỗi thất vọng [70]. Tuy vậy, cuốn tiểu thuyết mới nhất này của Tạ Duy Anh cũng nhận được những đánh giá khá cao của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình khác. Nguyễn Thanh Tú trong Giã biệt bóng tối - và một cách kể của tiểu thuyết hôm nay coi đây là sự thành công của nhà văn, bởi nó đã phơi trần “một thế giới lộn trái” với những vấn đề nhức nhối của xã hội bằng một lối viết lạ với “giọng điệu chủ đạo của tiểu thuyết là giọng giễu nhại” [81]. Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài Lối viết tiểu thuyết Việt Nam trong bối cảnh hội nhập (Qua trường hợp Tạ Duy Anh), sau khi khảo sát sáng tác của nhà văn này theo trình tự thời gian ở phương diện lối viết, đã khẳng định Giã biệt bóng tối là kết quả “ra đời trong sự ngập ngừng, khi những ảnh hưởng của lối viết tiểu thuyết phương Tây vẫn hãy còn mà người ta cũng đã dần ý thức thấy cần thiết phải có một lối viết thực sự của mình” [21, tr. 92]. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh ấy, dù vô thức hay hữu thức, đã được xây dựng như một thế giới nghệ thuật mà trong đó mọi yếu tố, mọi cấp độ đều sử dụng triệt để giọng điệu giễu nhại. “Bởi khi đã cười nhạo vào một hiện tượng thì chí ít trong tiếng cười đó cũng đã lấp ló một thuộc tính nhận thức, một ý thức phản tỉnh” [21, tr. 92]. Như vậy, càng về sau, tiểu thuyết Tạ Duy Anh càng thể hiện sự bứt phá, tìm tòi sáng tạo của nhà văn. Và một trong những sáng tạo ấy là mật độ đậm đặc của giọng điệu giễu nhại trong 262 trang viết. Ngoài ra, các sáng tác của cả ba tác giả nói trên đều có nhiều luận án, luận văn khảo sát. Tuy vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu về giọng điệu giễu nhại của họ một cách hệ thống và đặt chúng trong tương quan so sánh. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài này, một mặt tiếp thu thành tựu của người đi trước, mặt khác chúng tôi sẽ thử sức đi sâu hơn để nghiên cứu vấn đề trên một hướng nhìn tương đối mới: Đặt sáng tác của họ trong toàn cảnh của nền văn 14 học trong thời kỳ đổi mới nhằm khẳng định sự vận động, đổi mới và phát triển của nền văn học Việt Nam sau chiến tranh. 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh và Châu Diên là những nhà văn viết cả tiểu thuyết, truyện ngắn. Chúng tôi sẽ khảo sát giọng điệu giễu nhại chủ yếu qua 4 cuốn tiểu thuyết sau: Cõi người rung chuông tận thế (2003) Thiên thần sám hối (2000) Giã biệt bóng tối (2007) Người sông Mê (2003) Chọn bốn tác phẩm này bởi đây là 4 cuốn tiểu thuyết có thể coi là tiêu biểu, đặc sắc nhất nếu nhìn từ giọng điệu giễu nhại. Ngoài ra, luận văn còn đặt các tác phẩm này trong mối tương quan với các sáng tác khác trong quá trình sáng tạo của các nhà văn đó, cũng như trong mối tương liên với các tác phẩm khác, của các tác giả khác cùng dòng này trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Y Ban... để thấy được đóng góp của họ cũng như xu thế phát triển của văn xuôi thời kỳ đổi mới. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê Chúng tôi tiến hành khảo sát và thống kê bốn cuốn tiểu thuyết trên ở các vấn đề: tên nhân vật, tần số nhại lặp của các câu, từ, đoạn, cấu trúc, mệnh đề nhằm phục vụ cho việc xác lập cơ sở cho việc phân tích, tổng hợp thành các luận điểm lớn của luận văn. - Phương pháp phân tích, tổng hợp 15 Thông qua việc phân tích các tác phẩm của Hồ Anh Thái, Châu Diên, Tạ Duy Anh, chúng tôi xác định các biểu hiện của giọng điệu giễu nhại trong từng sáng tác, từ đó, bằng thao tác tổng hợp khái quát những đặc điểm chung nhất của giọng điệu giễu nhại, mối quan hệ tương liên của giọng điệu giễu nhại với cảm hứng sáng tác, chủ đề, đề tài của cả ba tác giả, đồng thời xây dựng hệ thống luận điểm các chương của luận văn. - Phương pháp hệ thống Xem xét giọng điệu giễu nhại trong hệ thống các biểu hiện từ cảm hứng nghệ thuật, đề tài, chủ đề tới sự dịch chuyển điểm nhìn, cách đặt tên nhân vật, các cấp độ nhại lặp. Đồng thời cũng xem xét nó trong sự thống nhất và vận động của các sáng tác của cả ba tác giả, đặt trong tiến trình phát triển của dòng văn xuôi Việt Nam thời kì sau 1975. - Phương pháp đối chiếu, so sánh Chúng tôi sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh nhằm làm rõ những nét đặc trưng riêng trong giọng điệu giễu nhại của ba tác giả trong tương quan đồng đại và lịch đại với một số nhà văn có cùng đặc điểm hài hước, trào lộng, giễu nhại trong sáng tác. 5. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được triển khai trong 3 chương nội dung: Chương 1: Giọng điệu giễu nhại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 Chương 2: Giọng điệu giễu nhại - một phương thức thể hiện cảm hứng phê phán của nhà văn với hiện thực Chương 3: Giọng điệu giễu nhại và những vấn đề nghệ thuật liên quan 16 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 GIỌNG ĐIỆU GIỄU NHẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975 1.1. Giới thuyết về giọng điệu giễu nhại 1.1.1. Giới thuyết về giọng điệu Thuật ngữ “giọng điệu” tồn tại ở phạm vi chủ yếu là trong văn học. Nhưng muốn thấu tỏ nó một cách toàn vẹn, trước hết nên hiểu nó với vai trò là một yếu tố để nhận biết mỗi cá nhân con người. Với tư cách này, “giọng” phản ánh thái độ, tình cảm, tâm trạng, nhận thức của con người trong một thời điểm nào đó, thể hiện qua cách lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngữ điệu, với sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc, âm lượng của nó. “Ngữ điệu là hình thức biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh,…” [48, tr. 113]. Giọng điệu trong văn học được coi là một phạm trù thẩm mỹ thể hiện tài năng và khả năng sáng tạo của tác giả. Nó liên quan đến các yếu tố tạo nên văn phong bao gồm: cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm thanh, nhịp điệu. Giọng điệu vừa biểu hiện một thái độ về đối tượng thẩm mĩ trong tác phẩm văn học vừa là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người nghe. Giọng điệu trong tác phẩm văn chương thuộc lĩnh vực hình thức nhưng là “hình thức mang tính nội dung”, vì qua hình thức có thể hiểu được nội dung. Nó có khả năng liên kết các yếu tố hình thức khác nhau trong văn bản làm cho tác phẩm cùng mang một âm hưởng và cùng chung một khuynh hướng nhất định. Do vậy, giọng điệu trở thành một yếu tố quan trọng góp phần tạo ra đặc trưng riêng cho mỗi loại hình văn học và hơn thế, là một mốc giới xác định phong cách mỗi một nhà văn, mỗi một trào lưu văn học. Tìm được giọng điệu phù hợp với câu chuyện được kể là rất khó. Giọng điệu ấy thường lại có những sắc thái, âm hưởng khác nhau để diễn tả cái 17 phong phú vốn có của đời sống. Người đọc có thể tìm thấy trong một tác phẩm, một tác giả nhiều sắc thái giọng điệu. “Giọng điệu không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những sắc thái khác nhau” [48, tr. 167]. Chính vì thế, mỗi tác phẩm tồn tại như một môi trường đa giọng điệu, nhiều sắc thái. Tuy nhiên, những giọng điệu, sắc thái ấy đều xoay quanh một giọng chủ đạo - giọng được coi là chủ âm cho tác phẩm đó, đôi khi là cho toàn bộ sáng tác, đại diện cho phong cách của tác giả ấy. Giọng điệu tuy là khái niệm thường xuyên được sử dụng trong các công trình nghiên cứu và bài viết về tác phẩm văn học, được thừa nhận là một trong những lực hút làm nên sức quyến rũ cho tác phẩm và bồi đắp phong cách tác giả. Song phần lớn trong số những công trình ấy, giọng điệu chỉ được nhắc đến như một tiêu chí phụ bên cạnh những mảng lớn khác như tư tưởng, quan niệm nghệ thuật, nhân vật, ngôn ngữ... khi đánh giá về tác phẩm hoặc tác giả nào đó. Do vậy, việc xây dựng giới thuyết về giọng điệu là điều cần thiết. Trong phần này, luận văn không quá kỳ vọng sẽ tạo được một hệ thống lý thuyết chuẩn xác và đầy đủ về giọng điệu (bởi vì không có một hệ thống lý thuyết nào đúng hết cho mọi trường hợp), nhưng chúng tôi cố gắng ở mức cao nhất giới thiệu những nhận định được những nhà nghiên cứu có uy tín xác lập và nhận được phần đông sự đồng tình trong giới học thuật, từ đó có cơ sở xây dựng hệ thống luận điểm cho luận văn. M. Bakhtin quan niệm giọng điệu giống như “một yếu tố cốt tử tạo nên những mối quan hệ mở của tiểu thuyết, và chính nó - cái giọng điệu “nhiều bè” ấy - là sản phẩm tất yếu của một quá trình đối thoại đang diễn ra liên tục, không ngừng, có mặt khắp nơi trong đời sống” [23, tr. 12]. Về cơ bản, M. Bakhtin cho rằng, giọng điệu văn chương thể hiện qua lời văn và văn cảnh chứa chất cuộc đối thoại. Tính đa thanh thấm sâu vào từng bộ phận của lời văn, từng từ một. Ngoài ra, giọng điệu còn được thể hiện qua phong cách 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan