Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn hành trình sáng tác của nguyên ngọc từ đất nước đứng lên đến đất quảng...

Tài liệu Luận văn hành trình sáng tác của nguyên ngọc từ đất nước đứng lên đến đất quảng

.PDF
115
181
138

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TRƢƠNG THỊ HÒA ÁI HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN NGỌC TỪ "ĐẤT NƯỚC ĐỨNG LÊN" ĐẾN "ĐẤT QUẢNG” LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thái Nguyên, năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TRƢƠNG THỊ HÒA ÁI HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN NGỌC TỪ "ĐẤT NƯỚC ĐỨNG LÊN" ĐẾN "ĐẤT QUẢNG” Chuyên ngành: Văn học Việt Nam MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê Thái Nguyên, năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Trƣơng Thị Hòa Ái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục ............................................................................................................... i PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 Chƣơng 1. NGUYÊN NGỌC VỚI VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP .............................................................................................. 10 1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội và văn học kháng chiến chống Pháp ............. 10 1.2. Con đường vào nghề văn của Nguyên Ngọc ....................................... 16 1.3. Đất nước đứng lên - một trong những đỉnh cao của văn học chống Pháp .. 17 1.3.1. So với loại Truyện anh hùng chiến sĩ thi đua ............................... 18 1.3.2. So với các tác phẩm đạt Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952 và 1954-1955 ........................................................................ 25 Chƣơng 2. NGUYÊN NGỌC VỚI VĂN HỌC CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ... 35 2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội và văn học chống Mỹ cứu nước .................... 35 2.2. Chặng đường sáng tác mới của Nguyên Ngọc..................................... 41 2.2.1. Giai đoạn từ 1954 đến 1964 .......................................................... 41 2.2.2. Giai đoạn từ 1965 đến 1975 .......................................................... 46 2.3. Rừng xà nu và Đất Quảng trong dàn đồng ca văn học chống Mỹ ....... 58 2.3.1. Truyện ngắn “Rừng xà nu” ........................................................... 59 2.3.2. Tiểu thuyết “Đất Quảng” .............................................................. 66 Chƣơng 3. NGUYÊN NGỌC - SỰ KẾT TINH TRỌN VẸN PHONG CÁCH SỬ THI VỀ CHIẾN TRANH .......................................... 72 3.1. Giới thuyết về phong cách và phong cách sử thi ................................. 72 3.1.1. Giới thuyết về phong cách ............................................................ 72 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii 3.1.2. Giới thuyết về phong cách sử thi .................................................. 75 3.2. Cảm hứng sử thi trong văn học Việt Nam 1945 - 1975 ....................... 78 3.3. Đặc trưng phong cách Nguyên Ngọc ................................................... 80 3.2.1. Chất liệu và đề tài .......................................................................... 81 3.2.2. Nhân vật trung tâm ........................................................................ 88 3.2.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ................................................................ 98 KẾT LUẬN .................................................................................................. 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Từ đây, một nền văn học mới gắn liền với lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội được khai sinh. Nền văn học mới phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975, và giai đoạn từ sau 1975 đến hết thế kỉ XX. Văn học Việt Nam giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 là nền văn học của chế độ mới, vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đường lối văn nghệ của Đảng là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên một nền văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ chức và quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn - chiến sĩ. Ở giai đoạn này, trên đất nước ta diễn ra nhiều sự kiện lớn lao: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc,... Những sự kiện ấy đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước nên quá trình vận động, phát triển của nền văn học cách mạng ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Tổ quốc trở thành đề tài trung tâm, trở thành nguồn cảm hứng lớn xuyên suốt trong những bài thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm,...; trong những truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Minh Châu,... 1.2. Nguyên Ngọc là một trong số những nhà văn - chiến sĩ đã có đóng góp xuất sắc cho nền văn học cách mạng Việt Nam. Ông sáng tác ở cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với bút danh Nguyên Ngọc và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Nguyễn Trung Thành, nhà văn đã khẳng định được tên tuổi, cũng như vị trí của mình trong nền văn học dân tộc qua nhiều tác phẩm như Đất nước đứng lên (giải nhất về tiểu thuyết - Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955), Mạch nước ngầm (truyện vừa, 1960), Rẻo cao (tập truyện ngắn, 1961), Rừng xà nu (truyện ngắn đạt Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, 1965), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (tập truyện và kí, 1969), Đất Quảng (tiểu thuyết, 1970),...Tác phẩm của ông đã được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích và rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu. 1.3. Tác phẩm của Nguyên Ngọc được chọn lựa để đưa vào chương trình giảng dạy chính khóa ở THPT bởi giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật đặc sắc của nó. Vì những lí do trên, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về Nguyên Ngọc qua những sáng tác của ông trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ xâm lược bởi đây là cơ hội để người viết hiểu sâu sắc hơn về nhà văn Nguyên Ngọc, cũng như những sáng tác của ông. Đồng thời qua Nguyên Ngọc, người viết muốn tiếp tục khẳng định những thành công và những đóng góp của văn học Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh cách mạng. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Cũng như nhiều nhà văn cùng thời, Nguyên Ngọc cầm súng trước khi cầm bút. Song ngay từ tác phẩm đầu tay Đất nước đứng lên viết năm 1955, Nguyên Ngọc đã thành công và được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Sau đó, nhà văn tiếp tục viết Mạch nước ngầm, Rẻo cao, Rừng xà nu, Trên Quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đất Quảng... và vẫn khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền văn chương hiện đại - trước hết trong tư cách của người đầu tiên đưa vùng đất Tây Nguyên vào văn chương. Với những sáng tác của mình về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc đã thực sự trở thành “Nhà văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 của Tây Nguyên”. Không những vậy, sáng tác của ông giai đoạn 1945 - 1975 đã được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu và đánh giá rất cao. Nhiều bài viết, chuyên luận, chuyên khảo của các nhà nghiên cứu, phê bình tiêu biểu như Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Trần Đăng Khoa, v.v... đều thống nhất, khẳng định: Nguyên Ngọc là một trong những nhà văn tài năng và tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945 - 1975. Trong bài viết Bước đường Nguyên Ngọc, giáo sư Phong Lê đã dày công nghiên cứu dọc theo hành trình sáng tác của Nguyên Ngọc bắt đầu từ những năm 1950 với tác phẩm đầu tay Đất nước đứng lên (1955) đến những năm 1960 với Mạch nước ngầm (1960). Ở bài viết này, giáo sư Phong Lê đã có những nhận định rất sâu sắc và những lý giải khá toàn diện, thuyết phục về sự thành công cùng những hạn chế trong sáng tác văn chương của Nguyên Ngọc. Khi đánh giá về Đất nước đứng lên, giáo sư Phong Lê cho rằng: “Cuốn truyện được viết và ra mắt bạn đọc sau ngày hoà bình lập lại, trong không khí sôi nổi, hào hứng của chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhưng có thể nói toàn bộ sự chuẩn bị của Nguyên Ngọc cho tác phẩm thành công là thuộc về những năm cuối của giai đoạn trước, giai đoạn kháng chiến chống Pháp, lúc nền văn học ta sau khi trải qua những khó khăn vướng mắc của những năm đầu đã chuyển sang giai đoạn gặt mùa” [30]. Còn khi đánh giá Mạch nước ngầm, giáo sư lại khẳng định sự thành công của tác phẩm chính là do Nguyên Ngọc “luôn luôn tỏ ra quan tâm đến việc tìm chọn cho mình những chủ đề mới mẻ, biết bám chặt vào hiện thực, hướng mạnh về phía cái mới của đời sống...”[30]. Bên cạnh việc chỉ ra "chỗ mạnh” của Nguyên Ngọc mà “không ai phủ nhận được” ấy, giáo sư Phong Lê cũng chỉ ra một số hạn chế của Nguyên Ngọc ở những tác phẩm khác như: nhìn vấn đề còn đơn giản trong truyện ngắn Pồn, sa vào một thứ tìm tòi cầu kỳ trong Em gái tôi, hay “một số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 truyện của Nguyên Ngọc thường lộ rõ vẻ sắp đặt, bố trí, thậm chí nhiều lúc lộ rõ sự bắt chước một vài sáng tác nước ngoài”[30]. Đó là những nhận xét, đánh giá hết sức thẳng thắn, chân thực. Tuy nhiên có thể thấy rằng những hạn chế này chỉ là những “hạt sạn” rất nhỏ trong toàn bộ hành trình sáng tác của Nguyên ngọc và đó cũng là “chỗ yếu chung của một lực lượng trẻ xuất hiện và trưởng thành trước sau cái mốc 1954” [30]. Kết thúc bài viết của mình, giáo sư Phong Lê khẳng định: “Con đường sáng tác mà Nguyên Ngọc đã đi qua với những thành công và chưa thành công như đã nói trên thật ra chưa dài lắm so với toàn bộ quá trình sáng tác của anh...Nhưng nó vẫn là một chặng đường nhiều ý nghĩa”. Và con đường ấy "chắc chắn cũng là con đường ngắn nhất cho người viết vươn tới những đỉnh cao”[30]. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong công trình nghiên cứu Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách lại dựng lên một bức chân dung khá rõ nét, hoàn chỉnh về Nguyên Ngọc cả trong văn chương lẫn đời thực. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyên Ngọc trong đời thực là một “con người lãng mạn”, với thái độ yêu ghét phân minh không dễ thay đổi, lắm lúc dường như là cố chấp. Còn trong văn chương, Nguyên Ngọc là nhà văn có phong cách riêng. “Anh không ném ra những nhận xét, những ý nghĩ khôn ngoan như Nguyễn Khải. Cũng không có những phát hiện tinh quái đời thường như Tô Hoài. Chuyện của anh thường là những trải nghiệm khác thường, dữ dội, gây ấn tượng mạnh...”. "Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói, Nguyên Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng” [36]. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cũng khẳng định: "Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà văn hoá của Tây nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền “Rẻo cao” đất nước". Văn Nguyên Ngọc "cuốn hút người ta, không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 ngây thơ, đầy những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang – Mèo Vạc”[36]. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi viết lời tựa cho tập truyện Rẻo cao của Nguyên Ngọc đã đánh giá rất cao tài năng văn chương của cây bút này: “Văn Nguyên Ngọc là thứ văn trong, sánh như mật ong, lại đượm ướp một làn hương rất đặc biệt. Đọc cứ bàng hoàng váng vất mãi. Nguyên Ngọc hơn người ở tài văn. Không có thực tài, không thể viết được thế”. Trần Đăng Khoa khẳng định giá trị của văn chương và nhân cách con người Nguyên Ngọc. Theo ông: “Cũng như thơ của Tố Hữu, ca khúc của Phạm Tuyên, Nguyên Ngọc viết văn bằng hồn mình và cái hồn ấy thuộc về cách mạng. Ông bám sát các vấn đề lớn của chính trị, phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ chính trị mà tác phẩm vẫn vượt qua được sự minh hoạ, vẫn thành tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Không ít tác phẩm có giá trị lâu dài”[26]. Nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận xét: “Thực tình cách viết của Nguyên Ngọc đâu có mới mẻ gì. Ông cũng chẳng phải là người cách tân hay cấp tiến gì gì. Ông vẫn viết như chúng ta đã từng viết trong những năm Sáu mươi của thế kỷ trước. Có đến hàng trăm nhà văn viết như ông. Nhưng rồi cũng có đến hàng trăm nhà văn bị đào thải. Có chăng chỉ còn lại một đôi người. Trong số rất ít người còn lại ấy, chắc chắn có Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc tồn tại được là nhờ tài văn. Mới hay tài văn và sự chân thành của tấm lòng người viết là vô hạn quan trọng. Vấn đề không phải viết về cái gì mà là viết như thế nào”[26]. Một trong những phẩm chất đáng quý ở Nguyên Ngọc được nhà thơ Trần Đăng Khoa rất ngưỡng mộ, kính phục đó là thái độ sống chân thành, vô tư, luôn sẵn sàng “chấp nhận và ủng hộ những tài năng hoàn toàn khác mình". Cũng theo Trần Đăng Khoa: “Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có ma lực. Giản dị, chắt lọc và trong veo. Đó cũng là dòng văn chủ đạo rất cần trong đời sống của chúng ta hiện nay. Tuy nhiên nếu cả nền văn học mà nhìn đâu cũng thấy một kiểu Nguyên Ngọc thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 cũng thật đáng sợ. Vì nó lại có cái gì như là không bình thường. Trong khi đó chúng ta lại rất cần sự đa dạng, phong phú trong các giọng điệu cũng như bút pháp và cách tiếp cận hiện thực. Bởi hiện thực vốn như thế. Nó bao giờ cũng phong phú, đa dạng và phức tạp. Hình như Nguyên Ngọc hiểu điều này thấm thía hơn bất cứ ai. Bởi thế mà ông yêu mến, ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh... Đó là những tài văn hoàn toàn khác ông, thậm chí phong cách sáng tác ngược hẳn với ông. Chấp nhận và ủng hộ những tài năng hoàn toàn khác mình, tôi nghĩ đấy cũng là một cái tài của Nguyên Ngọc. Không phải ai cũng có được cái tài ấy”[26]. Giáo sư Hà Minh Đức trong loạt bài viết phê bình - tiểu luận của mình, khi đánh giá về Đất nước đứng lên cho rằng: Thành công lớn nhất của Nguyên ngọc khi viết tác phẩm này chính là nhà văn đã xây dựng được một hình tượng nhân vật điển hình đầu tiên trong văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp: nhân vật Núp. Điều đặc biệt của tác phẩm ở chỗ Núp là nhân vật được xây dựng từ nguyên mẫu có thật và “Nguyên Ngọc đã làm được việc chuyển điển hình xã hội thành điển hình văn học. Tuy thời kỳ này chúng ta có nhiều chuyện viết về người anh hùng nhưng phần lớn các điển hình xã hội không chuyển thành điển hình nghệ thuật được. Có thể qua trường hợp Đất nước đứng lên, tác giả đã rút ra những kinh nghiệm thực tế” [47] . Giáo sư Hà Minh Đức cũng chỉ ra một số điểm còn hạn chế của Đất nước đứng lên như: tác phẩm còn bó hẹp trong khuôn khổ truyện về “một con người, một cảnh ngộ..., miêu tả một cuộc đời nhân vật theo hình thái tường thuật trực tiếp. Cách làm này quen thuộc với các thể ký văn học”. Tuy nhiên cũng giống như giáo sư Phong Lê, kết thúc bài viết "Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc", giáo sư Hà Minh Đức khẳng định: “Đất nước đứng lên là sáng tác tuy còn có những mặt hạn chế nhưng đã đứng lại được với thời gian” [47]. Còn khi viết về Rừng xà nu, giáo sư Hà Minh Đức cho rằng sự kết hợp hài hoà giữa “chất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 hiện thực” và cảm hứng lãng mạn sử thi chính là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự thành công và giá trị cho tác phẩm. Ông viết: “Một trong những phẩm chất đặc biệt tạo nên giá trị của Rừng xà nu là việc miêu tả thành công hình tượng cây xà nu. Thiên nhiên ở vùng rừng núi Tây Nguyên đã góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp và đặc điểm cho những câu chuyện từ Đất nước đứng lên cho đến Rừng xà nu”. Và “Liên hệ đến cuộc sống của làng Xô Man, Nguyên Ngọc muốn chỉ ra những đặc tính và phẩm chất gần gũi giữa cây rừng xà nu và sức sống vững mạnh của dân làng. Không chịu khuất phục, hết lớp này đến lớp khác đứng lên diệt địch... Viết Rừng xà nu, Nguyên Ngọc đã quan tâm đến vẻ đẹp và sự hùng tráng của dân làng Xô Man cũng như của núi rừng Tây Nguyên. Chất hiện thực của những cuộc đời và con người có thật có một sức hấp dẫn đặc biệt tạo nên cái nền khoẻ khoắn của câu chuyện. Nhưng bay bổng hơn, cảm hứng lãng mạn và sử thi đã nâng hình tượng nhân vật và thiên nhiên lên một tầm vóc mới. Câu chuyện luôn tạo được không khí trang nghiêm qua từng tiết tấu truyện ”[47]. * Ngoài những bài viết, những chuyên luận, chuyên khảo của các nhà nghiên cứu, phê bình về con người và văn chương Nguyên Ngọc kể trên còn có rất nhiều người viết về Nguyên Ngọc rải rác trong nhiều bài khác trên các công trình văn học chống Pháp, chống Mỹ và lịch sử văn học. Bên cạnh đó còn có những bài báo, những chuyên đề, đề tài nghiên cứu khoa học của học sinh, sinh viên, giáo viên viết về văn chương của Nguyên Ngọc. Tuy nhiên có thể thấy rằng tất cả những bài viết này mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, ngắn. Các tác giả mới chỉ phát hiện và đề cập đến con người và văn chương của Nguyên Ngọc ở những khía cạnh mang tính chất riêng lẻ, chứ chưa có một chuyên luận, chuyên khảo nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về văn chương của Nguyên Ngọc. Vì vậy việc nghiên cứu Hành trình sáng tác của Nguyên Ngọc từ "Đất nước đứng lên" đến "Đất Quảng" với một cái nhìn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 toàn diện, hệ thống trong thời điểm hiện nay, theo chúng tôi là một việc làm rất quan trọng và cần thiết. Thực hiện đề tài Hành trình sáng tác của Nguyên Ngọc từ "Đất nước đứng lên" đến "Đất Quảng", chúng tôi mong có được sự nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, khoa học và chính xác về văn chương của Nguyên Ngọc, đồng thời góp thêm một tiếng nói khẳng định Nguyên Ngọc là một trong những nhà văn tài năng và tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945 - 1975. 3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: Hệ thống lại và khẳng định thêm giá trị của những tác phẩm mà Nguyên Ngọc đã sáng tạo (đặc biệt là những tác phẩm gắn liền với một thời quật khởi, hào hùng của dân tộc như Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Đất Quảng), cũng như những đóng góp xuất sắc của nhà văn đối với nền văn học cách mạng Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hành trình sáng tác của Nguyên Ngọc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, từ đó thấy rõ hơn sự nhất quán trong cảm hứng và phong cách sáng tác của Nguyên Ngọc . 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Toàn bộ sáng tác của Nguyên Ngọc viết từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp đến khi kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước năm 1975. Những tác phẩm Nguyên Ngọc viết từ khi thống nhất đất nước đến nay không thuộc đối tượng khảo sát của luận văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như sau: - Phương pháp nghiên cứu lịch sử . - Phương pháp phân tích, tổng hợp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 6. Đóng góp mới của luận văn Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật trong sáng tác Nguyên Ngọc, qua đó khẳng định vị trí và đóng góp của ông đối với nền văn học Việt Nam thời kì chống Pháp và chống Mỹ. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, cấu trúc của luận văn bao gồm ba chương: Chƣơng 1: Nguyên Ngọc với văn học kháng chiến chống Pháp. Chƣơng 2: Nguyên Ngọc với văn học chống Mỹ cứu nƣớc. Chƣơng 3: Nguyên Ngọc - sự kết tinh trọn vẹn phong cách sử thi về chiến tranh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 NGUYÊN NGỌC VỚI VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội và văn học kháng chiến chống Pháp Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, tự do. Nhưng hơn một năm sau đó, dân tộc ta lại phải đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền văn học vận động và phát triển theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Nền văn học mới phải phục vụ cho những nhiệm vụ chính trị của đất nước, chủ yếu là cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong những năm trường kì chống thực dân Pháp, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" đã thấm sâu vào tình cảm của mọi người. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Tinh thần chiến sĩ và danh hiệu nhà văn - chiến sĩ được đề cao như phẩm chất chủ yếu của nghệ sĩ. Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chín năm kháng chiến, toàn bộ nền văn học dân tộc, cả Bắc và Nam hướng vào cuộc chiến và phát triển trên ba phương châm: dân tộc, khoa học, đại chúng được nêu ra từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, rồi chuyển thành: dân tộc, hiện thực, nhân dân trong những năm chiến tranh. Một nền văn học hướng vào hai chủ đề: yêu nước và căm thù. Một nền văn học trong bối cảnh “Kháng chiến hóa văn hóa”và “Văn hóa hóa kháng chiến " Một nền văn học mà tất cả mọi người viết đều phải nhất tâm và triệt để thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 hiện “Cách mạng hóa tư tưởng" và " Quần chúng hóa sinh hoạt”, đưa văn nghệ sĩ thâm nhập đời sống thực tế, …đã góp phần khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn và tạo nên những thành tựu đặc sắc của văn nghệ kháng chiến. Văn học trở về và hướng tới phục vụ công-nông-binh, là đối tượng rộng rãi, bao gồm tất cả những người, những tầng lớp người không chỉ tham gia mà còn đóng góp chủ lực cho công cuộc kháng chiến; là bộ phận đông đảo nhất, có thể là trên 90% số dân. Lớp công chúng này có một khuôn mặt rất mới so với công chúng của văn học hiện thực và lãng mạn trước 1945, chủ yếu chỉ giới hạn trong một bộ phận các tầng lớp trung lưu ở thành thị. Trong lớp công chúng này có bộ phận chỉ mới được thoát nạn mù chữ trong phong trào "Bình dân học vụ" nhằm thực hiện khẩu hiệu ba chống: chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động ngay sau ngày đất nước giành được độc lập. Và do thế, họ cần một nền văn học hết sức phổ cập, dễ nhớ, dễ hiểu, xích gần với văn học dân gian, nói đúng tâm nguyện của họ, diễn đạt được những vấn đề thiết thân của họ. Vì vậy lực lượng viết phải lấy việc đáp ứng nguyện vọng, trình độ và khả năng tiếp nhận của nhân dân (công-nông-binh) làm mục tiêu hàng đầu. Điều cũng đáng lưu ý là mối quan hệ giữa hai phương châm: dân tộc hóa và đại chúng hóa còn được biểu hiện cụ thể ở sự gắn nối giữa tình yêu nước và tình yêu dân. Và dân là một đối tượng gần gũi, sống động, chứ không còn trừu tượng hoặc xa cách như trước. Đó là những bà bầm, bà bủ, em bé liên lạc, chị dân công, anh công binh, anh Vệ quốc... So với văn học công khai trước 1945, thì thế giới nhân vật trong văn học kháng chiến là cả một thay đổi triệt để về tư chất và diện mạo. Một thay đổi buộc nhà văn cũng phải cải tạo bản thân, thay đổi cách nhìn (chứ không thể giữ mãi cách nhìn cũ, lệch lạc và phiến diện) để mà hiểu, mà yêu mến, cảm thông, mà học tập và theo gương họ. Bộ Truyện anh hùng và chiến sĩ thi đua ghi chép các bản tự thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 của các anh hùng, chiến sĩ thi đua trong Đại hội thi đua toàn quốc năm 1951 được trao Giải thưởng ngoại hạng trong Giải thưởng Văn nghệ 1951-1952 có ý nghĩa như một kiểu mẫu, về cả hai phương diện: đối tượng viết và cách viết. Nhà văn tự nhiên như thấp hơn nhân vật và độc giả. Hiện thực trở thành một sức ép lớn, khiến người viết chỉ cần bám sát nó, ghi nhận nó theo lối sao chép vắn gọn và trung thành là có thể sáng tác hay. Sự thay đổi tư thế này làm nên sự khác nhau trong bức tranh hiện thực và gương mặt nhân vật trước và sau 1945. Nếu cái phần "được" về nhân sinh quan, về tư tưởng, bảo đảm cho văn chương có được tính dân tộc, tính nhân dân, tính đại chúng thì cái tư thế lùi lại có phần mất tự chủ, tự tin trước nhân vật và hiện thực, ở tất cả mọi người viết quen thuộc, đã đem lại những kém cỏi, sơ lược về phẩm chất nghệ thuật. Tuy nhiên chúng ta vẫn không thể phủ nhận thành quả của văn học sau 1945 trong ý thức tìm trở lại một điểm xuất phát mới: đến với đại chúng, phục vụ kịp thời nhiệm vụ cách mạng và kháng chiến, đáp ứng trình độ đọc của đại chúng công-nông-binh trong các thể loại và ngôn ngữ quen thuộc. Truyện và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiêu biểu nhất cho những năm đầu kháng chiến là các tác phẩm của Trần Đăng, Nam Cao, Kim Lân, Hồ Phương... Kí sự Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị của Trần Đăng là những trang viết đẹp về người chiến sĩ quân đội trong những năm đầu kháng chiến. Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng những người chiến sĩ của Trần Đăng vẫn mang tư thế quân nhân rất đàng hoàng, rất chính quy trong tư cách và hành động. Nhật kí Ở rừng của Nam Cao là một cách nhìn cuộc sống của người trí thức đi theo Đảng, biết phân biệt giữa cái trước mắt và cái lâu dài, biết vượt lên những khó khăn của đời sống và tin vào tương lai tốt đẹp của dân tộc. Còn truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao lại viết về hai cách nhìn của người trí thức trong buổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 đầu "nhận đường", từ đó nhà văn bày tỏ quan điểm: cần phải thâm nhập vào thực tế cuộc sống, kháng chiến để có cách nhìn đúng đắn, toàn diện, sâu sắc và giàu tình yêu thương, cảm thông đối với con người và cuộc sống. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là tác phẩm ca ngợi người nông dân tản cư dù có phải sống trong hoàn cảnh nào cũng không đánh mất tình yêu thắm thiết đối với làng, với nước, với cách mạng. Truyện ngắn Thư nhà của Hồ Phương lại viết về tình cảm của người lính với quê nhà. Chính tình yêu, sự gắn bó sâu sắc đối với quê hương, đối với những người thân yêu đã giúp anh chiến sĩ trẻ thêm quyết tâm, kiên cường trên những chặng đường đánh giặc... Ở chặng kết thúc - thành tựu văn học kháng chiến được ghi nhận ở hai giải thưởng gối liền nhau của Hội Văn nghệ Việt Nam: Giải thưởng 1951-1952 và Giải thưởng 1954-1955. Trong Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1951-1952 đáng chú ý là: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng,... Vùng mỏ khai thác đề tài mới mẻ và chất liệu quý về phong trào đấu tranh của công nhân vùng tạm chiếm. Mộc mạc, chân chất, khỏe khoắn là những ưu điểm dễ thấy của tác phẩm này. Với Vùng mỏ, Võ Huy Tâm đã góp phần cho ta hình dung về giai cấp công nhân Việt Nam trong hoàn cảnh đặc thù. Đó là giai cấp công nhân trong một cuộc chiến đấu kéo dài nhằm giải phóng dân tộc, trước khi nói đến giải phóng lao động và sức sáng tạo của lao động. Đó là người công nhân với mối liên hệ ràng buộc nhiều mặt và bền chặt với nông thôn; với vẻ đẹp hồn hậu, thủy chung trên gương mặt và sự phong phú, đằm thắm bên trong của đời sống tâm hồn. Ở bức tranh "vùng mỏ" đó, tác giả tập trung ánh sáng vào một điểm tụ: đình công. Đó cũng chính là tiêu đề cho phần phác thảo đầu tiên, được triển khai thành truyện Vùng mỏ. Xung kích đã xây dựng được một cách chân thực, sống động hình ảnh cuộc kháng chiến toàn dân, trong đó nổi bật lên là hình ảnh "anh bộ đội cụ Hồ" với vẻ đẹp tinh thần đặc sắc. Ở tác phẩm này, Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 Đình Thi đã bộc lộ khả năng miêu tả những đoàn dân công, cảnh bộ đội hành quân đêm với những đoạn văn đối thoại ngắn gọn, chắt lọc của lối văn khẩu ngữ. Kí sự Cao Lạng là thiên kí sự dài hơi, bao quát bức tranh rộng lớn về chiến dịch Biên giới. Kì tích của chiến dịch lịch sử này được Nguyễn Huy Tưởng ghi chép và tái hiện một cách trung thực, sinh động mang đậm cảm hứng anh hùng ca. Tác giả vừa tái dựng được hoàn cảnh diễn biến của một chiến dịch lớn, vừa miêu tả cụ thể những hành động và sự kiện làm nổi bật ý chí kiên cường và lòng dũng cảm của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955 có các tác phẩm như: Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng và Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc,... Truyện Tây Bắc là tập truyện ngắn thành công của Tô Hoài trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến ở một địa bàn đặc biệt vùng cao phía Tây Bắc của Tổ quốc. Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà; chất thơ, chất trữ tình thấm đượm; ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình. Con trâu cũng là tác phẩm có giá trị riêng. Thông qua vấn đề "con trâu", Nguyễn Văn Bổng cho chúng ta thấy được sự giác ngộ và ý thức cách mạng của người nông dân hiền lành, chất phác đã được nâng lên ở tầm cao mới. Với tác phẩm này, tác giả đã dựng lên chân dung chân thực về người nông dân với kháng chiến, người nông dân với cách mạng. Đất nước đứng lên là bản anh hùng ca về các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, về những người dân Tây Nguyên trung kiên, bất khuất, vượt qua gian khổ, thiếu thốn, hi sinh để kiên trì kháng chiến. Tác phẩm là bài ca về tinh thần đoàn kết, yêu thương giữa các dân tộc, cũng là bài ca về lòng dân Tây Nguyên vững tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng. Ở tác phẩm này, Nguyên Ngọc đã chứng tỏ được sự gắn bó sâu sắc, tình cảm tha thiết, cũng như vốn sống về đất và người Tây Nguyên của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Thơ ca cũng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, nội dung phong phú, nghệ thuật được đổi mới. Tố Hữu được xem là lá cờ đầu của nền thơ, đại diện cho xu hướng đại chúng hóa, hướng về dân tộc, khai thác những thể thơ truyền thống. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Thi tiêu biểu cho hướng tìm tòi, cách tân thơ ca, đưa ra một kiểu thơ hướng nội, tự do, không vần hoặc rất ít vần. Còn thơ Quang Dũng lại tiêu biểu cho hướng khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng. Những tác phẩm xuất sắc của thơ kháng chiến là Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu) của Hồ Chí Minh, Đèo Cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi và đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu,… Kịch ra đời phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến với một số vở gây được sự chú ý như Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi… Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học từ năm 1945 đến năm 1954 chưa phát triển nhưng đã có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam (1948) của Trường Chinh, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (1949) có ý nghĩa định hướng cho văn học nghệ thuật. Bài tiểu luận Nhận đường và tập Mấy vấn đề nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, tập phê bình, tiểu luận Nói chuyện thơ ca kháng chiến và Quyền sống con người trong “Truyện Kiều" của Hoài Thanh, Giảng văn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Thai Mai, v.v...là những tác phẩm tiêu biểu. Tóm lại, văn học giai đoạn chống Pháp đã đạt được nhiều thành tựu lớn, thúc đẩy nền văn học cách mạng của dân tộc phát triển và góp phần cổ vũ, động viên, khích lệ nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ đi đến thắng lợi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan