Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn hát ru và những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của người thái huyện sốp cộ...

Tài liệu Luận văn hát ru và những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của người thái huyện sốp cộp tỉnh sơn la

.PDF
131
136
95

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐẶNG DUY THẮNG HÁT RU VÀ NHỮNG NGHI LỄ ĐẦU ĐỜI CHO TRẺ NHỎ CỦA NGƢỜI THÁI HUYỆN SỐP CỘP TỈ NH SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐẶNG DUY THẮNG HÁT RU VÀ NHỮNG NGHI LỄ ĐẦU ĐỜI CHO TRẺ NHỎ CỦA NGƢỜI THÁI HUYỆN SỐP CỘP TỈ NH SƠN LA Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế THÁI NGUYÊN - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013 Tác giả luận văn Đặng Duy Thắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Huế, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trƣờng. Tôi cũng xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình và những ngƣời thân đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013 Tác giả luận văn Đặng Duy Thắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan ....................................................................................................... i Lời cảm ơn ........................................................................................................ ii Mục lục .............................................................................................................. iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. ............................................................... 3 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: ............................................................................. 5 6. Bố cục luận văn............................................................................................. 5 NỘI DUNG......................................................................................................... 6 Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ, XÃ HỘI, TỘC NGƢỜI THÁI Ở SỐP CỘP, SƠN LA ................................................................... 6 1.1. Nguồn gốc lịch sử ...................................................................................... 6 1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội tộc ngƣời Thái Sốp Cộp , Sơn La........................ 8 1.2.1 Đặc điểm kinh tế ..................................................................................8 1.2.2. Đặc điểm xã hội ............................................................................... 10 1.3. Văn hoá, văn học dân gian của ngƣời Thái ở Sốp Cộp, Sơn La. ............ 12 1.4. Những lời hát ru của ngƣời Thái Sốp Cộp đậm đà bản sắc dân tộc. ....... 14 1.4.1. Những nhận định chung nhất về sự lƣu truyền, bảo tồn, sử dụng hát ru trong đời sống sinh hoạt của dân tộc Thái Sốp Cộp, Sơn La ........... 14 1.4.2. Khái quát giới thiệu về số lƣợng nhƣ̃ng lời hát ru đã sƣu tầm đƣợc ở Sốp Cộp, Sơn La ............................................................................. 15 Tiểu kết ........................................................................................................... 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT HÁT RUCỦA NGƢỜI THÁI Ở SỐP CỘP, SƠN LA ....................................................... 20 2.1. Vài nét về khúc hát ru trong nghi lễ vòng đời cho trẻ nhỏ ở Sốp Cộp, Sơn La ............................................................................................................. 20 2.2. Nội dung nhƣ̃ng khúc hát ru trong nghi lễ vòng đời cho trẻ nhỏ ở Sốp Cộp, Sơn La ............................................................................................. 21 2.2.1. Cảm hứng về thiên nhiên .................................................................. 22 2.2.2. Cảm hứng về đời sống văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Thái Sốp Cộp .............................................................................................. 38 2.3. Ngôn ngữ của những khúc hát ru trong nghi lễ vòng đời cho trẻ nhỏ ở Sốp Cộp, Sơn La .......................................................................................... 53 2.3.1. Hệ thống từ ngữ mang đậm bản sắc tộc ngƣời ................................. 53 2.3.2. Phƣơng thức diễn đạt ........................................................................ 56 2.4. Thể thơ và gieo vần ................................................................................. 59 2.4.1. Thể thơ .............................................................................................. 59 2.4.2. Gieo vần ............................................................................................ 62 Tiểu kết: .......................................................................................................... 65 Chƣơng 3. HÁT RU TRONG NGHI LỄ VÕNG ĐỜI CHO TRẺ NHỎ Ở SỐP CỘP, SƠN LA .................................................................. 67 3.1. Hát ru trong nghi lễ vòng đời cho trẻ nhỏ .............................................. 67 3.1.1. Hát ru trong nghi lễ " Ra cữ " ( giai đoạn trẻ nhỏ trong bụng mẹ ) .. 67 3.1.2. Hát ru trong nghi lễ " Păn chƣ nháƣ " ( lễ đặt tên ) .......................... 69 3.1.3. Hát ru trong nghi lễ " nhập tổ tiên " ( nghi lễ đầy tháng ) ................ 71 3.2. Giá trị và ý nghĩa ..................................................................................... 74 3.2.1. Giá trị ................................................................................................ 74 3.2.1.1. Giá trị văn hóa........................................................................... 75 3.2.1.2. Giá trị nghệ thuật ...................................................................... 75 3.2.1.3. Giá trị tinh thần ......................................................................... 76 3.2.1.4. Giá trị giáo dục ......................................................................... 78 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3.2.2. Ý nghĩa .............................................................................................. 81 3.3. Thực trạng bảo lƣu câu hát ru gắn với nghi lễ vòng đời con trẻ ở Sốp Cộp- Sơn La .................................................................................................... 81 3.3.1. Hiện trạng bảo lƣu câu hát ru của ngƣời Thái ở Sốp Cộp ................ 82 3.3.2. Nguyên nhân của thực trạng ............................................................. 85 3.3.3. Những kiến nghị, đề xuất.................................................................. 87 Tiểu kết ........................................................................................................... 89 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 95 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam , văn học các dân tộc thiểu số chiếm một vị trí không nhỏ . Văn học các dân tộc thiểu số trong đó có văn học dân gian đã có đƣợc những thành tựu đáng kể , góp phần làm phong phú cho nền văn học của nƣớc nhà . 1.2.Sự chung sống, đoàn kết, hài hòa về nhiều mặt trong đó những nét riêng trong văn hóa của tộc ngƣời thiểu số ở Việt Nam đã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam và nó làm cho văn hóa các tộc ngƣời thiểu số “đa dạng trong thống nhất”. Do đó việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa các dân tộc đặc biệt trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng. 1.3. Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa của 54 dân tộc anh em, trong đó sự góp mặt của văn hóa Thái Tây Bắc. Đồng bào Thái Tây bắc đã sáng tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần đa dạng, phong phú đậm đà sắc thái bản địa ; tiêu biểu là những mái nhà sàn có mái che hai hồi hình khum khúm, hoa văn mặt chăn mặt phà, cùng nền văn hóa văn học dân gian đa dạng phong phú. Trong sự đa dạng và phong phú đó có những làn điệu hát ru đang dần đi vào quên lãng từ ngƣời Kinh đến các dân tộc miền núi phía bắc. Hát ru là những lời hát có chức năng giáo dục, thẩm mỹ cao góp phần hình thành và phát huy nuôi dƣỡng tâm hồn trẻ nhỏ. Với ngƣời Kinh hát ru nhƣ một ký ức tuổi thơ mà không ai có thể quên trong ký ức của mình, qua lời ru của bà, của mẹ hình ảnh vầng trăng, cánh cò, dòng sông, cánh đồng, lũy tre làng nó đã đƣợc in sâu vào tâm hồn trẻ thơ. Bằng những lời ru êm ả tha thiết của bà, của mẹ đã gieo vào tâm thức tuổi thơ những ký ức và hình ảnh tốt lành về lòng nhân ái, đạo lý làm ngƣời, tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc. 1.4. Xã hội ngày nay, do sự bùng nổ của các phƣơng tiện thông tin, các loại hình giải trí, nghệ thuật, hát ru có nguy cơ bị mai một trong đời sống hiện đại. Từ thành thị đến nông thôn, hình ảnh ngƣời mẹ ẵm con, ầu ơ cất tiếng hát ru ngày một thiếu vắng. Thay vào đó, là những ca khúc có nội dung ca từ không phù hợp trẻ thơ hoặc là những bài hát đƣợc thu sẵn trong băng đĩa. Nhiều bà mẹ không biết hát ru hoặc không thuộc dù chỉ một bài hát ru. Thậm chí, nhiều gia đình vợ chồng trẻ có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn xu hƣớng “hiện đại”, ngay từ khi mang thai đến khi nuôi trẻ đã cho con nghe nhạc cổ điển, nhạc không lời với quan điểm giúp trẻ phát triển trí não, thông minh hơn. Mặt khác, trong cơ chế thị trƣờng, do bận rộn công việc, nhiều ông bố, bà mẹ, không có thời gian ru con, muốn con ngủ mau, không ít ngƣời tìm mọi cách rung, lắc, hoặc quát tháo làm mất đi tình cảm thân thƣơng, tình mẫu tử cao đẹp trong truyền thống gia đình Việt Nam… Thiết nghĩ, nghệ thuật hát ru và những bài hát ru không chỉ mang tính di sản văn hóa mà còn là nguồn mạch quan trọng, có ý nghĩa nhân văn tiêu biểu của gia đình Việt Nam, là mạch nguồn của sự sống nuôi dƣỡng tâm hồn trẻ thơ, giáo dƣỡng nhân cách hồn nhiên, trong sáng, trọng lẽ phải, trọng đạo hiếu nghĩa cho trẻ từ khi lọt lòng. 1.5. Trong kho tàng văn học dân gian Thái , có một bộ phận dân ca còn chƣa đƣợc quan tâm giới thiệu , đó là nhƣ̃ng làn điệu hát ru trẻ nhỏ . Trong quá trì nh tì m hiểu và điền dã, chúng tôi nhận thấy ở bộ phận dân cƣ ngƣời Thái ở huyện Sốp Cộp của tỉnh Sơn La đã và đang lƣu truyền và tồn tại một số lƣợng lớn những làn điệu hát ru trẻ nhỏ với những nội dung phong phú , hấp dẫn cùng với nhƣ̃ng nghi lễ kèm theo. Điều này đã thu hút sƣ̣ chú ý của chúng tôi và thúc đẩy chúng tôi lƣ̣a chọn việc giới thiệu “Hát ru và những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của người Thái huyện Sốp Cộp tỉ nh Sơn La” làm đề tài luận văn. 2. Lịch sử vấn đề 2.1.Trong lịch sử của mình, tiếng Thái đã có cả một thời kỳ lâu dài làm ngôn ngữ giao tiếp chung với các dân tộc khác vùng Tây Bắc. Với đặc điểm dân số đông và cƣ trú lâu đời tại vùng Tây Bắc văn hóa Thái có ảnh hƣởng sâu rộng đến văn hóa các dân tộc khác trong khu vực. Xác đị nh đƣợc vị trí tầm quan trọng của văn hóa các dân tộc Tây Bắc nói chung và dân tộc Thái nói riêng, Đảng và nhà nƣớc đã rất coi trọng đầu tƣ cho việc nghiên cứu, sƣu tầm, bảo lƣu các giá trị văn hóa cộng đồng các đân tộc, trong đó văn hóa Thái không nằm ngoại lệ. 2.2. Từ năm 1960 đã có nhiều công trình nghiên cứu , sƣu tầm về văn học dân gian của ngƣời Thái ở Việt Nam đƣợc xuất bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên . Các công trình sƣu tầm , http://www.lrc-tnu.edu.vn nghiên cứu này đã vẽ lên một bức tranh khá hoàn chỉnh, sinh động về lịch sử và toàn bộ đời sống , lao động , sản xuất , tín ngƣỡng tâm linh , tập tục…của dân tộc Thái. Trong đó có nhƣ̃ng công trì nh tiêu biểu nhƣ : Phương ngôn tục ngữ Thái của Hoàng Trần Ngịch , Quam Son Côn – Bản tiếng Thái sƣu tầm ở Mai Sơn, Quam Tô Mương (Chuyện kể bản mƣờng …) – Tài liệu cổ, Bảo tàng Sơn La, Tục ngữ Thái, Quan Chiêm Lang (NXB văn hóa dân tộc. Hà Nội. 1978), Truyện cổ dân tộc Thái (3 tập) của Cầm Cƣờng (NXB Khoa học xã hội , Hà Nội, 1978), Tiếng ru – hát ru – hát đố dân tộc Thái của Hoàng Trần Nghịch , Lò Văn Lả , Khi đứa trẻ dân tộc Thái chào đời của Hà Long , Hà Thu (NXBVăn hóa dân tộc - Năm 2006), Tản chụ siết sương (ca dao) – tài liệu cổ sƣu tầm ở Thuận Châu, Âm nhạc dân gian văn học Thái Tây Bắc - của Tô Ngọc Thanh và nhiều những nhà thơ, những nhà sáng tác, nhà sƣu tầm, nghiên cứu về dân tộc Thái KaDai Việt Nam. Hội nghị Thái học Việt Nam tổ chức tại tỉnh Điện Biên – Năm 2009, Hội nghị Thái học Việt Nam tổ chức tại tỉnh Thanh Hóa – Năm 2012, và cũng trong năm 2012 đã diễn ra một hội nghị vô cùng quan trọng nhằm phát huy tài năng, tôn vinh những nhà sƣu tầm, nghiên cứu bản địa, Hội nghi mạng lưới bảo tồn và phát triển tri thức bản địa dân tộc Thái Việt Nam – Ngày 10/5/2012. Tại hội nghị này đã xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu, nhà sƣu tầm dân tộc Thái bản địa trong 8 tỉnh thành miền núi nhƣ Lò Minh Ón, Lò Văn Cạy, Lò Văn Lả, Hà Long – Hà Thu.... Có thể nhận thấy, những công trình, bài viết, những bài sƣu tầm trên đây mới chỉ dừng lại ở phạm vi biên dịch, sƣu tầm, khảo sát sơ bộ và giới thiệu chung. 2.3. Theo sự khảo sát, điền dã sƣu tầm c ủa chúng tôi, cho đến nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu về hát ru và nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của ngƣời Thái huyện Sốp Cộp – Sơn La một các hoàn chỉnh, thấu đáo và hệ thống. Điều đó vừa là thuận lợi nhƣng cũng vô cùng khó khăn và đầy thách thức đối với chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 3.1 Đối tượng: Đề tài lựa chọn các lời hát ru của ngƣời Thái Sốp Cộp, Sơn La là tƣ liệu điền dã nhiều nơi của vùng Thái Sốp Cộp, Sông Mã làm đối tƣợng nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Ngoài ra, tác giả đề tài tìm hiểu thêm một số lời hát ru của một số dân tộc khác để so sánh, đối chiếu khi cần thiết. 3.2 Phạm vi nghiên cứu: Để thực hiện luận văn chúng tôi chủ yếu tập chung đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu, phân tích lời hát ru và những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của ngƣời Thái huyện Sốp Cộp, Sơn La trên một số mặt: Nội dung, nghệ thuật, giá trị và ý nghĩa những câu hát đầu đời của trẻ nhỏ từ đó thấy đƣợc phong tục tập quán, đời sống tín ngƣỡng và đời sống tâm hồn của ngƣời Thái ở Sơn La. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu. - Đề tài sẽ là nguồn tƣ liệu giúp ngƣời đọc có đƣợc một sự hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn về văn hóa dân tộc Thái Việt Nam nói chung và Thái Sốp Cộp nói riêng. Điều đó sẽ góp phần vào việc quản lý, giữ gìn bảo tồn ngữ hệ và bản sắc văn hóa của ngƣời Thái Sốp Cộp, Sơn La. - Có cái nhìn khái quát và tổng thể về văn hóa , văn học dân gian của dân tộc Thái. Qua đó thấy đƣợc dấu ấn văn hóa dân gian trong những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của ngƣời Thái Sốp Cộp, Sơn La. - Chỉ ra đặc trƣng của văn học dân gian Thái trong những khúc hát ru biểu hiện trên phƣơng diện nội dung, nghệ thuật và giá trị, ý nghĩa. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và khẳng định những đặc điểm, giá trị hát ru và nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của ngƣời Thái Sốp Cộp, Sơn La. Đó cũng là công trình nghiên cứu đầu tiên về hát ru, qua đó thấy đƣợc tầm quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần đa dạng, phong phú và mang tính giáo dục, răn dạy trẻ đi đến chân thiện mỹ. - Đồng thời tìm hiểu một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài , nhƣ nhƣ̃ng vấn đề của thể loại dân ca, trong đó có hát ru. - Khảo sát, phân tích những khúc hát ru trong nghi lễ vòng đời cho trẻ nhỏ ở Sốp Cộp, Sơn La về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn - Tìm hiểu thêm một số những khúc hát ru của các dân tộc khác để so sánh đối chiếu làm rõ hơn đặc trƣng hát ru trong nghi lễ vòng đời cho t rẻ nhỏ của ngƣời Thái ở Sốp Cộp, Sơn La 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chính sau: 5.1. Phƣơng pháp điền dã văn học: Do đặc điểm của đề tài, chúng tôi chủ yếu trú trọng đến phƣơng pháp điền dã: Đi thực tế tại các bản ngƣời Thái ở Sốp Cộp, đến một số bản ngƣời Thái phỏng vấn những bậc cao tuổi, bậc trung niên để ghi chép lại, nghe lại những câu hát ru của phụ nữ Thái, đồng thời chứng kiến một số các nghi lễ đầu đời của trẻ nhỏ. Điều đó sẽ rút ra những kết luận chung nhất về hát ru và những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của ngƣời Thái Sốp Cộp, Sơn La. 5.2 Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: Việc sử dụng phƣơng pháp so sánh đối chiếu để tìm ra sự khác biệt giữa hát ru và nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của ngƣời Thái Sốp Cộp với các dân tộc anh em khác…, từ đó đi đến khẳng định những giá trị, đặc điểm nổi bật của hát ru. 5.3 Phƣơng pháp phân tích tổng hợp: 5.4 Phƣơng pháp thống kê: 6. Bố cục luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc bố cục thành 3 chƣơng: Chƣơng I: Vài nét về lịch sử, xã hội, tộc người Thái ở Sốp Cộp, Sơn La Chƣơng II: Nội dung và nghệ thuật hát ru người Thái Sốp Cộp ,Sơn La Chƣơng III: Hát ru trong nghi lễ vòng đời cho trẻ nhỏ ở Sốp Cộp, Sơn La Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn NỘI DUNG Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ, XÃ HỘI, TỘC NGƢỜI THÁI Ở SỐP CỘP, SƠN LA 1.1. Nguồn gốc lịch sử Dân tộc Thái là một dân tộc lớn trong các dân tộc thiểu số Việt Nam, là một dân tộc đông dân cƣ nhất của khu vực Tây Bắc Việt Nam. “Theo sự thống kê ở bảng danh mục của thành phần dân tộc Việt Nam, tổng cục thống kê, Hà Nội 4 – 1999 thì dân tộc Thái có dân số đông thứ ba ( sau người Kinh và người Tày ). Còn ở Sơn La người Thái chiếm 54,7% dân số” [ 6, tr.14 ]. Cho đến nay việc nghiên cứu lịch sử cƣ trú của ngƣời Thái ở Sơn La nói chung, ngƣời Thái ở Sốp Cộp nói riêng còn rất nhiều những ý kiến khác nhau. Căn cứ vào tài liệu thành văn “Quan tô mương” (kể chuyện bản mƣờng) hay “Tày pú sấc” (dõi theo những bƣớc đƣờng chinh chiến của cha ông) “Hịt khoỏng bản mường” (phong tục tập quán) Piết mƣơng, phanh mƣơng…. Những công trình nghiên cứu lịch sử ngƣời Thái của các nhà khoa học đã kết luận rằng: Ngƣời Thái ở Việt Nam nói chung và ngƣời Thái ở Sơn La nói riêng đều có nguồn gốc từ Đông Nam Á cổ đại thuộc chủng Mônggôít. Đại chủng Mônggôlôít gồm các tiểu chủng : Mônggôlôít Phƣơng Bắc, Mônggôlôít Phƣơng Nam và tiểu chủng da đỏ Châu Mỹ. Hầu hết các tộc ngƣời ở Đông Nam Á cổ đại thuộc tiểu chủng Mônggôlôít Phƣơng Nam. Tiểu chủng Mônggôít thuộc các nhóm loại hình: Anhđônêdiêng, Nam Á, Vêđôti, Nêgrôti. Ngƣời Thái thuộc nhóm hình Nam Á. Theo các văn tự chữ Thái tồn tại đến ngày nay, những văn bản trên lá cây, giấy bản, sách, những cuốn sách sử chép tay hàng trăm trang… đã nói về quê hƣơng của mình là vùng “ba dải đất lớn được tưới bởi chính con sông và là nơi sông Đà gặp sông Hồng” (Him xam xẩu, nậm cẩu que, Pú Té Tao). Đó là vùng Vân Nam (Trung Quốc) vào Tây Bắc Việt Nam, chốn đầu nguồn của Nậm Tao (Hồng Hà), Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Ma (Sông Mã), Nậm Khoong (Sông MêKông), Nậm U, Nậm Na…Trƣớc thế kỷ XI, nhiều nhóm Thái lẻ tẻ di cƣ vào vùng tây bắc (Việt Nam), sống xen kẽ bên ngƣời Khơmú, nhƣng lại có truyền thuyết nói nguồn gốc ngƣời Thái ra đời từ mảnh đất Mƣờng Thanh (Điện Biên) mà xƣa kia gọi là Mƣờng Then, Mƣờng Bó Té (đầu nguồn sông Đà). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Ngƣời Thái cũng nhƣ những dân tộc anh em khác đã góp công vào sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ta. Để khẳng định giá trị văn hoá của dân tộc mình họ đã xây dựng lên những câu chuyện bản Mƣờng, các truyền thuyết đầy kỳ bí. Tiêu biểu là truyền thuyết “Ải Lậc Cậc” ngƣời có công khai phá bốn cánh đồng lớn vùng Tây Bắc. Sau nạn Đại Hồng Thuỷ, ông trời (Then) đã sai vợ chồng Ải xuống trần gian để xây dựng lại mƣờng ngƣời (Mƣờng Côn). Vợ chồng Ải đã ra sức lao động tạo ra bốn vựng lúa của vùng Tây Bắc và “Thông” cho sông Đà chảy xuôi dễ dàng. Trong sử thi kể chuyện bản mƣờng “Quan Tô Mương” của ngƣời Thái đen còn kể rằng họ trực tiếp là con cháu của Ải Ngú Háu (Chúa Hổ Mang). Sở dĩ nghành Thái đen lấy rắn hổ mang làm ông tổ là bắt đầu từ mối tình giữa Tạo Quang ( đời thứ 10 chủa tù trƣởng Thái đen Lang Chƣợng) với Nàng Xo ngƣời KhơMú dòng dõi Khum Quảng, Ămpoi là vợ hai. Hai ngƣời sinh hạ đƣợc một ngƣời con trai khôi ngô tuấn tú đó chính là Hổ Mang sau này. Do ghen ghét, vợ của Tạo Qua tìm chách giết chàng trai này bằng cách bắt chàng trèo lên hốc cây có rắn Hổ Mang. Chàng đã bắt đƣợc con rắn độc to lớn này. Từ đó chàng mang tên rắn Hổ Mang “Ải Ngu Háu” và là ông tổ của ngƣời Thái đen hiện nay [11,tr.22]. Có thể nói Tây Bắc là một trong những cái nôi của ngƣơi Thái cổ. “Từ lâu đời quê hương của người Thái, cũng như một số dân tộc anh em nằm trong một khu rộng lớn với những khu trung tâm nổi tiếng như Xip – Xoong – Pănna (Vân Nam), khu vực Mường Ôm, Mường Ai ( thuộc các châu Tung Lăng, Hoàng Nham), khu vực Bỏ Te (thuộc miền tây nam Vân Nam). Họ đến Tây Bắc từ lâu lắm rồi, tổ tiên của họ có thể là một phần trong nhóm cư dân bản địa của các nghành người Việt cổ” [11,tr.12]. Khác với dân tộc khác, dân tộc Thái thƣờng sống tập trung trong các vùng lòng chảo, thung lũng, cao nguyên, những nơi đất đai phì nhiêu tƣơng đối bằng phẳng chạy dọc theo những con suối, tiện lợi giao thông. Chính vì vậy đã hình thành, sáng tạo nên một nền văn hoá vật chất, tinh thần đa dạng và độc đáo. Với những văn hoá vật chất ngƣời Thái đã tạo ra hình ảnh ngôi nhà sàn mang đậm văn hoá của núi rừng Tây Bắc, các giá trị văn hoá tinh thần mang đậm hình ảnh dân tộc Quan Tô Mƣơng (chuyện kể bản mƣờng), Tày Pú Sấc, Truyện Thơ.... đã mang lại những giá trị văn hoá tinh thần phong phú, đa dạng của dân tộc Thái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Ngƣời Thái ở Sơn La nói chung và ngƣời Thái Sốp Cộp nói riêng vẫn mang đậm những đặc trƣng văn hoá truyền thống và nó đƣợc lƣu truyền qua nhiều thế hệ. Sôp Cộp một vùng đất mới, mang đậm văn hoá hoang sơ đã thu hút độc giả nghiên cứu về mảnh đất này. 1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội tộc ngƣời Thái Sốp Cộp , Sơn La. 1.2.1 Đặc điểm kinh tế Sốp Cộp là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Sơn La , cách thành phố Sơn La khoảng 130 km, cách Hà Nội khoảng hơn 400 km. Huyện Sốp Cộp đƣợc thành lập từ ngày 2/12/2003, (trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sông Mã ) theo Nghị định số 148/2003/NĐ-CP của Chính phủ.Dƣới thời thuộc Pháp , Sốp Cộp đƣợc gọi là tổng Sốp Cộp thuộc châu M ƣờng Thanh (Điện Biên ngày nay ), gồm 7 mƣờng: Mƣờng Lạn, Mƣờng Và , Mƣờng Sốp Cộp, Mƣờng Ten, Mƣờng Lói, Mƣờng Luân, Mƣờng Lèo Huyện Sốp Cộp về phí a Nam có 120 km đƣờng biên giới quốc gia giáp cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ; phía Tây giáp huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên; phía Bắc và phía Đông giáp huyện Sông Mã. Địa hình khá phức tạp, phần lớn là đồi núi, đất đai tƣơng đối màu mỡ, phù hợp cho việc trồng cây công nghiệp, phát triển nông nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Độ cao trung bình từ 900-1000m so với mặt nƣớc biển , đỉnh cao nhất 1.925m ở Pu Sâng xã Mƣờng Lèo . Các dãy núi dài và đứt gãy đều chạy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam tạo ra hƣớng chảy của các suối lớn trong vùng , thuận tiện cho việc sản xuất và sinh ho ạt của dân cƣ trong vùng . Sốp Cộp có tới 15 con suối lớ n nhỏ trong đó có 3 con suối chảy về trung tâm là Nặm Ca , Nặm Lạnh và Nặm Ban , ba suối này gặp nhau tại một điểm nơi bản Sốp Nặm xã Sốp Cộ p, tạo nên suối Nặm Công đổ ra Sông Mã tại bản Pá Công (Pá Công cũng có nghĩa là cửa suối Nặm Công) thuộc huyện Sông Mã . Theo tiếng Thái thì “Sốp” nghĩa là mồm , miệng, “Cộp” có nghĩa là nơi gặp nhau, bởi vậy đị a danh này đƣợc đặt tên là Sốp Cộp Toàn huyện Sốp Cộp có 8 đơn vị hành chính cấp xã , đó là các xã : Sốp Cộp, Mƣờng Lạn, Dồm Cang, Sam Kha, Mƣờng Và, Mƣờng Lèo, Púng Bánh, Nậm Lạnh.Trung tâm huyện lỵ đặt tại xã Sốp Cộp. Huyện Sốp Cộp khi mới thành lập có 146.841 ha diện tích tự nhiên và 31.467 nhân khẩu, đến cuối năm 2008 dân số toàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn huyện có 6.753 hộ với 39.160 nhân khẩu, trong đó có 6 dân tộc anh em sinh sống: Thái 62,2%; H`mông 17,8%; Khơ Mú 6,1%; Lào 11,3%; Kinh 2,4%). Ngƣời Thái, ngƣời L ào chủ yếu sống ở vùng thấp , theo dọc các con suối , ngƣời Hmông sinh sống ở các điểm trên núi cao , ngƣời Khơ Mú sống theo các khe suối đầu nguồn nƣớc, còn ngƣời Kinh tập trung ở các thị trấn , các trung tâm xã, nơi gần đƣờng giao thông. Sộp Cộp là một huyện mới thành lập đặc biệt khó khăn nền kinh tế lạc hậu, kết cấu hạ tầng thấp kém nguồn lƣơng thực chủ yếu tự cung tự cấp nhƣ lúa, ngô, khoai, sắn…. Nguồn thực phẩm đƣợc sản xuất từ chăn nuôi gia cầm ( gà, vịt, ngan…), gia súc nhỏ ( chó, lơn…), gia súc lớn ( trâu, bò, ngựa…). Đặc biệt là gia súc lớn ( trâu, bò, ngựa…) vừa để cung cấp sức kéo làm nƣơng, ruộng, kéo gỗ làm nhà, đó cũng là nguồn cung cấp sức kéo cho từng nhà, từng bản. Tự nhiên cũng là nơi cung cấp cho thôn bản nguồn thực phẩm lớn: hái lƣợm, rau, măng, củ quả, dƣợc liệu, săn thú rừng, chim muông, đánh bắt cá ở suối, sông…Ngƣời Thái Sộp Cộp đã đúc kết đặc điểm kinh tế của mình là “miếng cơm ở đất, thức ăn ở rừng”. Trong “Quam Tô Mương” đã có đoạn nhắc đến vấn đề này: - Nguyên văn tiếng Thái: “Kháu mết, kháu hak ma Pa mết, pa hak táu Mịt kháu to nuối mák phặc Thút phắc po khoan hẳm” - Dịch sang tiếng việt: “Lúa hết lúa tự đến Cá hết cá tự lại Hạt lúa to bằng quả bí xanh Ngọn rau dùng rừu chặt” [11,tr.31]. Nền kinh tế của ngƣời Thái Sốp Cộp chƣa có sự phân công lao động lớn nhƣ chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp chƣa tách ra khỏi nông nghiệp nên chƣa xuất hiện các thị trƣờng tập trung. Điều đó không thực sự quan trọng vì nền kinh tế của họ vẫn là tự cung tự cấp. Họ có thể tự cung tự cấp từ lƣơng thực, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn thực phẩm, vải vóc đến các đồ dùng nhƣ dao, cuốc, xẻng, vật dụng gia đình bằng các nghề thủ công truyền thống. Ngày nay theo sự đổi mới của Đảng, Nhà nƣớc và sự quan tâm đặc biệt tới vùng cao, vùng sâu xa vùng đồng bào dân tộc. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi trở nên linh hoạt hơn. Cây trồng vật nuôi cũng trở nên phù hợp, giao lƣu buôn bán cũng trở nên phát triển. Cuộc sống đƣợc cải thiện dần kinh tế khá giả. Ngƣời Thái Sốp Cộp cùng với các dân tộc anh em trong khu vực đã tham gia làm chủ, xây dựng quê hƣơng, địa phƣơng mình ngày càng phát triển, văn minh hơn. Các nghề phụ gia nhƣ : làm mộc, đan lát, dệt vải… cũng phát triển. Đầu tiên là cung cấp cho nhu cầu gia đình sau là trao đổi với các vùng, các dân tộc khác theo hình thức vật đổi vật, vật đổi tiền. Chính nhƣ vậy ngƣời Thái Sốp Cộp trở nên rất giỏi giang, phụ nữ thì giỏi dệt vải, thêu thùa, đàn ông thì có tài nghệ đan nát vì thế sản phẩm của họ làm ra rất đẹp và mang tính thẩm mĩ cao. Các hoạt động trong nghề thủ công truyền thống này, nếu xét về thời gian thì có thể nói là một nghề phụ. Vì tranh thủ làm những lúc nông nhàn sau những buổi đồng áng. Thực chất sản phẩm của nó mang lại là rất cần thiết, rất quan trọng nên để đánh giá vai trò của nó là một điều cần thiết. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cuộc sống của ngƣời Thái Sốp Cộp đƣợc ổn định, điều kiện kinh tế khá giả hơn, nếu có những chính sách phù hợp thì các nghề này có thể góp phần rất lớn trong việc phát triển kinh tế, đồng thời giúp ngƣời Thái Sốp Cộp có thể giữ lại những nét văn hoá truyền thống của mình trong mỗi một sản phẩm của họ làm ra ( mây tre đan, đồ mộc, dệt thổ cẩm…) những sản phẩm này đã khắc hoạ sự khéo léo, tài hoa tuyệt vời của họ. Với 62,2% dân số trên toàn huyện ngƣời Thái Sốp Cộp hôm nay đang hoà nhập cùng sự phát triển kinh tế của đất nƣớc, bên cạnh đó còn giữ gìn phát triển văn hoá truyền thống riêng của dân tộc mình. 1.2.2. Đặc điểm xã hội Ngƣời Thái ở Tây Bắc nói chung, và ngƣời Thái Sốp Cộp nói riêng do địa hình cao, bị chia cắt mạnh, với sự tồn tại của phƣơng thức sản xuất cũ dùng cuốc dùng cày của nền nông nghiệp độc canh mang tính chất tự cấp tự túc tự nhiên. Tổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn chức xã hội của ngƣời Thái Sốp Cộp cũng có những nét đặc thù: vừa mang tính cát cứ địa phƣơng vừa thể hiện tính thống nhất của ngƣời Thái trên vùng Tây bắc. Trƣớc cách mạng 1945, tính cát cứ địa phƣơng thể hiện rõ ràng từng đơn vị Châu mƣờng, mỗi đơn vị Châu mƣờng là một lãnh địa đảm bảo quyền lợi theo tục lệ của một dòng hay một nghành quý tộc đặt dƣới sự thống trị của Chẩu Mƣờng (chủ mƣờng). Lịch sử hình thành các Châu mƣờng gắn chặt với lịch sử phát triển của các dòng quý tộc Thái mà trong nhiều đời đã đƣợc triều đình phong kiến trung ƣơng công nhận quyền thống trị ở địa phƣơng với tính cách thế tập. Ngƣời Thái có câu. “Dòng họ nhà trời làm chủ đất vàng” (sinh bẩu chẩu căm) đã nói nên quyền làm chủ của quý tộc Thái với vùng đất đai của họ là Châu mƣờng. Trƣớc cách mạng 1945, các đơn vị Châu mƣờng Tây bắc trực thuộc tỉnh Hƣng Hoá nhƣng cũng có những thời kỳ Châu mƣờng lại đƣợc thống nhất thành khối xung quanh các mƣờng lớn trung tâm – có ngƣời “Chẩu mường” đứng đầu thể hiện với triều đình (các trung tâm lớn: Mƣờng Lò Luông – nay thuộc Văn Chấn, Yên Bái, Mƣờng Muổi Luông – nay là Thuận Châu, Mƣờng Sang Luông – nay là Mộc Châu…). Tuy nhiên, Mƣơng Luông không có đầy đủ tính chất nhƣ một cấp tỉnh mà chủ yếu là nhiệm vụ truyền đạt và đôn đốc châu mƣờng thực hiện các chiếu chỉ của triều đình. Về hình thức bộ máy hàng chính của cả nƣớc, các Châu mƣờng chỉ có vị trí nhƣ cấp huyện. Song về thực chất mỗi Châu mƣờng có tính chất nhƣ một “triều đình thu nhỏ” đƣợc triều đình phong kiến trung ƣơng công nhận quyền “thế tập” của quý tộc, cũng nhƣ quyền tổ chức bộ máy hành chính và cai quản địa phƣơng theo tập quán và tục lệ riêng. Trong đơn vị Châu mƣờng thƣờng có nhiều tộc ngƣời cƣ trú cho nên quý tộc Thái cùng với bộ máy hành chính của họ không những thống trị nhân dân lao động Thái mà còn cả các dân tộc khác. Sơ đồ tổ chức các đơn vị Châu mƣờng: [22, tr.331]. Í tu thống quán thế Châu mƣờng: Mƣờng phía ngoài: Xuổng Mƣờng phía trong: Lộng Quan Cang y chủa tố. Xuổng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Các giáo Các bản Xuổng http://www.lrc-tnu.edu.vn Sau khi đất nƣớc độc lập thống nhất, dƣới sự lãnh đạo của Đảng đồng bào Thái Tây bắc nói chung và ngƣời Thái Sốp Cộp nói riêng đã quy tụ và sống ổn định hơn dƣới các đơn vị hành chính bản mƣờng, mỗi bản gồm khoảng 30 – 40 nóc nhà cùng nhau sinh sống, đều có ngƣời đứng đầu gọi là trƣởng bản. Là một trong những cƣ dân bản đị rất lâu đời ngƣòi Thái Sốp Cộp đã chọn cho mình những vị trí đẹp và thuận lợi cho đời sống để lập bản mƣờng. Đó là những vùng núi thấp, gần sông suối, có địa thế rộng rãi, bằng phẳng thuận tiện cho việc canh tác, dễ dàng đi lại, giao lƣu với bản mƣờng khác. Tổ chức dòng họ của ngƣời Thái Sộp Cộp thƣờng là sự gắn bó chặt chẽ trong phạm vi bốn đời: Ông (pú), cha (ải/ó), con (lực) và cháu (lan). Gia đình của ngƣời Thái Sốp Cộp thƣờng là những gia đình nhỏ / gia đình hạt nhân, gồm đôi vợ chồng, con cái hoặc còn cha mẹ già. Nhiều thế hệ cùng nhau chung sống dƣới một nóc nhà, cùng ăn, cùng làm việc và cùng chia sẻ những thành quả làm việc cũng nhƣ những khó khăn. Có thể nói, Sốp Cộp là vùng đất tụ cƣ của nhiều dân tộc anh em nên văn hóa của Sốp Cộp vừa phong phú đa dạng , vƣ̀a mang nét độc đáo ở t ừng dân tộc . Chỉ tính riêng lễ hội ở Sốp Cộp đã có khá nhiều lễ hội khác nhau đƣợc tính theo từng tộc lị ch, thí dụ Lễ tết cổ truyền của ngƣời Thái , Lễ Khẩu xá khẩu hó của ngƣời Lào (tháng Chín ), Lễ thu dọn hoa , quả, củ trên nƣơng của ngƣời Khơ Mú , Lễ tết của ngƣời Hmông (tháng 12), vào dịp thu hoạch xong mùa vụ … Trong đó nổi bật là văn hóa của ngƣời Thái , vốn là một dân tộc có số đông dân cƣ hơn cả , do vậy văn hóa của họ đã có ảnh hƣởng sâu rộng đến văn hóa của cả vùng Sốp Cộp nói riêng và Sơn La, Điện Biên cũng nhƣ Tây Bắc nói chung. 1.3. Văn hoá, văn học dân gian của ngƣời Thái ở Sốp Cộp, Sơn La. Trong suốt một thời kỳ dài lịch sử, tộc ngƣời Thái Tây Bắc nói chung và ngƣời Thái Sốp Cộp nói riêng với cơ sở nông nghiệp trồng lúa nƣớc ở vùng thấp, đã từng kế tục nhau làm chủ mƣờng chinh chiến mở rộng vùng lãnh thổ sang phía Tây: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào …đó là quá trình lâu dài và gian khổ. Tác phẩm sử thi “Tày Pú Xấc” đã ghi lại rất rõ quá trình chinh chiến đó. Ngƣời Thái đã ca ngợi lãnh thổ của mình trong quấn sách “Quan Chiêm Lang”, phần lãnh thổ Thái. Bốn cánh đồng rộng : Mƣờng Thanh, Mƣờng Lò, Mƣờng Than, Mƣờng Tấc. Mƣờng Thanh có mỏ muối, mỏ thóc, mỏ thiếc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn “Đi Sốp Cộp ăn cá Sang Mƣờng Và ăn cơm Tới Búng Lạnh ăn măng vầu đắng”[7, tr.77]. Qua đó họ đã có những đóng góp vào quá trình xây dựng và gìn gữ đất nƣớc: Ngƣời Thái đã đƣợc “vua Kinh cần, vua Lào yêu”. Trong quá trình xâm lƣợc của các thế lực ngoại bang những giá trị truyền thống của ngƣời Thái Tây Bắc nói chung, đồng bào Thái Sốp Cộp nói riêng vẫn đƣợc giữ gìn và bảo lƣu: Hát, múa xòe, luật tục,lễ hội… Nhiều lúc mục đích và ý nghĩa của nó bị thay đổi nhƣng hình thức vẫn giữ đƣợc. Nếp văn hoá truyền thống đặc trƣng nhất của ngƣời Thái là ngôi nhà sàn cùng với các hoạt động sinh hoạt văn hoá gia đình không hề bị biến hoá. (Đƣờng lên Tây Bắc quanh co, nếp nhà sàn thấp thoáng). Ngƣời Thái Sốp Cộp làm nhà sàn 3 – 5 gian, chôn cột hình khum nhƣ mái rùa, hai đầu nóc hồi đƣợc trang trí “khau cút” biểu tƣợng mang ý nghĩa chỉ vai trò, địa vị của các tầng lớp trong xã hội. Bên cạnh nếp nhà sàn đặc sắc đó ngƣời Thái Sốp Cộp nói riêng và tộc ngƣời Thái Tây bắc nói chung còn có trang phuc truyền thống riêng biệt mà ta không thể nhầm lẫn với các dân tộc khác. Trang phục nữ vừa đẹp vừa gọn và đặc biệt làm nổi bật những đƣờng nét trên cơ thể họ. Họ mặc áo cánh ngắn (Xửng cỏm), khuy cài bằng bạc hình bƣớm ve ôm sát lấy thân ngƣời, váy màu đen không trang trí hoa văn. Trang phục nam giới ngày thƣờng họ mặc áo màu đen, cổ tròn, xẻ ngực, cài cúc vải có hai túi dƣới vạt trƣớc, quần kiểu chân què, màu chàm đen. Dịp lễ tết hộ mặc loại áo dài xẻ nách phải, màu chàm đầu quấn khăn, chân đi guốc. Trong tang lễ họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tƣơng phản màu sắc với ngày thƣờng có lối cắt may dài, thụng, không lƣợn lách với các loại: xẻ ngực, xẻ lách, chui đầu. Ngoài ra ngƣời Thái là một trong bốn nhóm tộc ngƣời có chữ viết riêng. Điều này có ý nghĩa lớn với dân tộc Thái nói chung và ngƣời Thái Sốp Cộp nói riêng trong việc ghi chép lại những giá trị văn hoá, thiết chế xã hội, những lời truyền dây của ngƣời xƣa… mà đến ngày nay những tài liệu đó đƣợc giữ lại là nguồn tài sản vô giá cho tộc ngƣời cùng các nghành nghiên cứu khoa học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan