TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN THỊ ÁNH CÚC
HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG
TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ
CỦA HỮU THỈNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN THỊ ÁNH CÚC
HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG
TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ
CỦA HỮU THỈNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LA NGUYỆT ANH
HÀ NỘI, 2018
LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của
mình tới cô giáo TS. La Nguyệt Anh, người đã hướng dẫn tận tình và luôn
động viên em. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học
Việt Nam, khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện và đóng góp ý khiến để em hoàn
thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Do thời gian không cho phép nên đề tài khóa luận của em không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn để đề tài em được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Ánh Cúc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. La Nguyệt Anh.
Khóa luận chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác, nếu
sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Ánh Cúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 4
7. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 4
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƯỜNG CA VÀ TRƯỜNG
CA HỮU THỈNH .............................................................................................. 5
1.1. Những vấn đề lí luận về trường ca .......................................................... 5
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thể loại trường ca ................................. 5
1.1.2. Trường ca hiện đại Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc ...... 10
1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh ....................... 11
1.2.1. Cuộc đời Hữu Thỉnh ....................................................................... 11
1.2.2. Quá trình sáng tác và phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh............ 12
Chương 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG TRONG TRƯỜNG CA ĐƯỜNG
TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH .......................................................... 17
2.1. Hiện thực chiến trường ......................................................................... 17
2.1.1. Sự khốc liệt nơi chiến hào .............................................................. 17
2.1.2. Sự gian khổ, hi sinh ........................................................................ 19
2.2. Hiện thực cuộc sống đời thường ........................................................... 23
2.2.1. Đời sống cộng đồng ........................................................................ 23
2.2.2. Đời sống cá nhân ............................................................................ 26
Chương 3. CON NGƯỜI TRONG TRƯỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH
PHỐ CỦA HỮU THỈNH ................................................................................ 30
3.1. Người lính ............................................................................................. 30
3.1.1. Người lính nơi chiến trường ........................................................... 30
3.1.2. Người lính trong cuộc sống đời thường.......................................... 34
3.2. Người phụ nữ ........................................................................................ 35
3.2.1. Người phụ nữ trong chiến tranh...................................................... 35
3.2.2. Người phụ nữ trong cuộc sống đời thường..................................... 40
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng thành công nhất là thể loại
trường ca. Trong quá trình sáng tác hơn 30 năm Hữu Thỉnh có nhiều đóng
góp đáng kể cho nền thơ ca dân tộc. Với 5 tập thơ và 3 trường ca trong đó tiêu
biểu trường ca Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã khẳng định vị thế của
mình trong văn học nước nhà.
Hữu Thỉnh là một trong số ít nhà thơ viết về trường ca và đạt được nhiều
thành công nhất định. Nguồn cảm hứng từ truyền thống dân tộc và thời đại
anh hùng cùng với vốn sống thực tế nơi chiến trường đã tạo tiền đề cho thể
loại trường ca phát triển. Trường ca của ông được ghi nhận là một trong
những gương mặt tiêu biểu và đóng góp một tiếng nói quan trọng trong thể
loại trường ca kháng chiến nói chung và thơ kháng chiến chống Mỹ nói riêng.
Trường ca của ông có sức chứa nhiều vấn đề có khả năng khát quát được hiện
thực và con người của thời đại lúc bấy giờ. Qua thời gian, và sự mến yêu của
độc giả trường ca Hữu Thỉnh vẫn được bạn đọc đón đợi và mong muốn chiếm
lĩnh và khám phá.
Lựa chọn vấn đề: “Hiện thực và con ngƣời trong trƣờng ca Đường
tới thành phố của Hữu Thỉnh”, chúng tôi hi vọng sẽ có đóng góp thiết
thực vào tìm hiểu thơ Hữu Thỉnh nói chung và trường ca Đường tới thành
phố nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ khi xuất hiện, trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã
thu hút được sự quan tâm của độc giả và các nhà nghiên cứu.
Tác giả Mai Hương khi đọc Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã
nhận xét: “Đường tới thành phố cũng lại hàm nghĩa một cuộc hành trình -
1
cuộc hành trình của cả dân tộc trên đường tới chiến thắng cuối cùng trong
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đây quả là một cuộc hành trình vĩ đại nhưng
cực kì gian nan”. Theo tác giả Mai Hương sức thuyết phục trong ngòi bút của
Hữu Thỉnh chính là ở sự chân thực: “Song ngòi bút của Hữu Thỉnh thật tỉnh
táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu, dễ dãi khi viết về bước đường
gian nan ấy” [22].
Trong bài viết Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố, đăng trên báo Văn
nghệ Quân đội (số 3 - 1980), nhà phê bình Thiếu Mai cho rằng “chỗ mạnh”
của Hữu Thỉnh chính là phương diện cảm xúc: “Cảm xúc dạt dào, phong phú
và mạnh mẽ là chỗ mạnh của Hữu Thỉnh... trong lòng cuộc chiến đấu chống
Mĩ vĩ đại của nhân dân, Hữu Thỉnh thường nghĩ đến vấn đề lớn lao của đất
nước, của thời đại. Anh khao khát thơ của mình phản ánh và lí giải được
những điều đó... Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể
hiện vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát, vừa tỉ mỉ chi li những tình cảm những
suy ngẫn của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống Mĩ”[23].
Nhà thơ Thế Hanh nhận ra chất hiện thực Từ những người đi tới biển tới
Đường tới thành phố. Tế Hanh cho rằng đó là “Thơ từ cuộc đời chiến đấu mà
ra... là máu thịt chứ không phải giấy mực”[21].
Lưu Khánh Thơ khi đánh giá về Hữu Thỉnh đã khẳng định đó là một
phong cách thơ sáng tạo bởi: “Đường tới thành phố đã hội tụ và kết tinh
những điểm mạnh của ngòi bút Hữu Thỉnh, anh đã dồn vào trong trường ca
này những tình cảm lớn lao, những câu thơ tài hoa xúc động nhất”[24].
Trong bài viết “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”. Tác giả Hoàng Điệp
đã khẳng định những đóng góp của Hữu Thỉnh qua thể loại trường ca nói
chung nhất là trường ca Đường tới thành phố: “Hữu Thỉnh là một trong những
người có đóng góp nhiều và chiếm vị trí quan trọng với thể loại trường ca”.
2
Nhiều tác giả đã khẳng định thể loại trường ca của Hữu Thỉnh chính là
đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi đề cập đến
Hữu Thỉnh với tư cách là một tác giả có phong cách nghệ thuật riêng và độc
đáo, bằng cái nhìn tin tưởng, tác giả Mai Hương đã nhận xét: “Đây quả là
một cuộc hành trình vĩ đại nhưng cực kì gian nan. Song ngòi bút của Hữu
Thỉnh thật tỉnh táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu, dễ dãi khi viết về
bước đường gian nan ấy. Người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm và xuyên suốt
của trường ca. Sự từng trải của người viết đã giúp anh nhận chân dung người
chiến sĩ chân thực và sống. Những trang viết của Hữu Thỉnh do đó có sức
chinh phục”[22]. Để tiếp tục những công trình nghiên cứu, tôi xin được
nghiên cứu và tìm hiểu về “Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới
thành phố của Hữu Thỉnh” để có cái nhìn tổng quát về phương diện nội dung
của Hữu Thỉnh. Cùng với đó tôi cũng muốn đóng góp những ý kiến, quan
điểm riêng của mình cùng với các bài viết, các bài nghiên cứu để khẳng định
sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh trong thi đàn văn học Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài khóa luận nghiên cứu yếu tố “Hiện thực và con người trong
trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh” nhằm bám sát hiện thực cuộc
sống và con người qua những năm kháng chiến chống Mĩ qua đó phản ánh
tinh thần đoàn kết chiến đấu của toàn dân tộc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc
nước nhà.
3.2. Nhiệm vụ
Dựa vào cơ sở lí thuyết nội dung học về hiện thực và con người trong
trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh để tìm hiểu những phương
diện sáng tạo tinh tế và vai trò của yếu tố hiện thực và con người trong trường
ca Hữu Thỉnh nói chung và trường ca Đường tới thành phố nói riêng.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu về nội dung của
trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Đặc biệt, chúng tôi tập trung tìm
hiểu về hiện thực cuộc sống và con người trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi nghiên cứu tác phẩm trường ca Đường
tới thành phố của Hữu Thỉnh đã được xuất bản.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài khóa luận này, chúng tôi phối hợp sử dụng các
phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp tổng hợp.
6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài khóa luận này, chúng tôi sẽ tìm hiểu những yếu tố về hiện
thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh đưa ra những quan điểm
riêng của mình về thể loại trường ca. Từ đó, hi vọng khóa luận có đóng góp
cho thơ ca của Hữu Thỉnh một cách tổng quát nhất.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khóa luận gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về trường ca và trường ca Hữu Thỉnh
Chƣơng 2. Hiện thực cuộc sống trong trƣờng ca Đường tới thành
phố của Hữu Thỉnh
Chƣơng 3. Hình tƣợng con ngƣời trong trƣờng ca Đường tới thành
phố của Hữu Thỉnh
4
NỘI DUNG
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƢỜNG CA
VÀ TRƢỜNG CA HỮU THỈNH
1.1. Những vấn đề lí luận về trƣờng ca
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thể loại trường ca
1.1.1.1. Khái niệm trường ca
Khái niệm trường ca xuất hiện trong văn học phương Tây “trường ca là
thuật ngữ văn học dịch từ chữ pòeme của Liên Xô” [20]. Từ những năm 50
của thế kỉ XX trường ca đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, nó có tên gọi khác
là sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có chiều dài như Đam San, Xinh
Nhã...Chúng ta có thể gọi trường ca tương đồng với sử thi, anh hùng ca
(Iliats, Ôđixê, Ramyana, Mahabharata...). Đồng thời, trường ca còn chỉ các
tác phẩm thơ phản ánh những sự kiện lớn trong lịch sử đất nước và nó có
dung lượng lớn: Sông núi trên vai của Anh Ngọc (1977), Đường tới thành
phố của Hữu Thỉnh (1979)…
Để phân biệt ranh giới và sự ra đời một khái niệm thể loại trường ca còn
gặp nhiều khó khăn. Các nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học, thậm chí
chính các tác giả trường ca nhiều năm qua đã rất chú ý đi tìm một bản chất
định nghĩa cũng như những thuộc tính căn bản nhất để phân định trường ca
với các loại thơ khác.
Theo từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trường ca là tác
phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường
ca cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết
danh hoặc có tác giả” [20]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho
rằng: “Trường ca có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn
truyện trữ tình. Chúng được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và
truyện kể hoặc bằng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách
5
cải biên các cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian.
Trường ca với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình - tự sự, hoành tráng cho
phép kết hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan
niệm về lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [4].
Khái niệm trường ca có sự khác nhau trong việc xác định ranh giới, nội
hàm của thể loại, nhưng chúng ta có thể thấy các nhà phê bình văn học và các
tác giả trường ca đều có điểm chung đó là: “Trường ca là những tác phẩm có
tầm cỡ, tầm vóc lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó có sức ôm chứa
nhiều vấn đề lớn, về nhiều chủ đề tư tưởng, về độ rộng của không gian và độ
dài của tời gian. Trường ca có tính tự sự, tính trữ tình, yếu tố suy nghĩ chính
luận”. Theo như kết quả của người đi trước đã nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy trường ca của Đào Thị Bình (“Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ
1945 đến cuối thế kỉ XX” - LATS, 2008) dường như đã thuyết phục người
đọc:“Trường ca thường là các tác phẩm trữ tình có dung lượng lớn hoặc vừa,
có khả năng tổng hợp và phát huy những ưu thế nổi trội của cả ba loại hình:
trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hướng đan xen
nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trường ca có thể bao quát và miêu
tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ, giọng
điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hưởng hào hùng của
sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống”[7].
1.1.1.2. Đặc trưng thể loại của trường ca Việt Nam hiện đại
1.1.1.2.1. Về nội dung:
Đầu tiên, đặc trưng thể loại trường ca về phương diện nội dung mà
truờng ca Việt Nam hiện đại đề cập đến là hiện thực chiến tranh khốc liệt và
người lính anh dũng, hi sinh quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Chiến tranh đã hủy
hoại biết bao ước mơ của con người để lại những mất mát không hề nhỏ đối
với dân tộc Việt. Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống, là
6
nơi tái diễn một cách chân thực nhất, tâm thức ấy. Trong trường ca hiện đại
Việt Nam, chiến tranh luôn là đề tài chính, là mấu chốt cho những trải nghiệm
được tự sự. Trường ca hiện đại tái hiện cuộc đấu tranh của dân tộc ta đối với
kẻ xâm lược để dành độc lập tự do cho nhân dân theo lí tưởng cách mạng và
cảm hứng chủ đạo yêu nước và chủ nghĩa anh hùng.
Ta có thể khẳng định, thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trường
ca hiện đại Việt Nam đều miêu tả người lính bằng những nét vẽ tinh tế rất đỗi
bình thường nhưng không chút tầm thường. Đây cũng là đặc trưng của trường
ca hiện đại lúc bấy giờ.
Những tác giả của trường ca thời chống Mỹ cứu nước đã khắc họa lên
hình tượng người lính hiện thực nơi chiến trường đó là :Người lính lạc quan
chiến đấu hết lòng vì nước vì dân, biết hy sinh tình cảm riêng tư của chính
mình để kiên cường đánh giặc quyết tâm giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
Trường ca nói về sự đoàn kết toàn dân tộc trong kháng chiến chống Mĩ chứ
không riêng một cá nhân nào đó. Đây cũng là sự tự nhận thức của con người
đạt đến độ sâu trong thơ ca chống Mĩ.
Nội dung quan trọng tiếp theo mà trường ca phản ánh là đất nước và số
phận con người. Trong lịch sử văn học, chủ đề về đất nước vẫn luôn là chủ đề
lớn nhất của mỗi giai đoạn. Và trường ca hiện đại cũng đã thể hiện rất rõ nội
dung ấy. Đất nước trong đời thường và đất nước trong văn học được kết tinh
từ tất cả những mảnh ghép cuộc sống. Các tác giả trường ca chống kẻ thù xâm
lược - Mỹ từ sự thôi thúc của trái tim mình đều dồn mọi tâm lực cho sự miêu
tả, ngợi ca và dựng nên hình tượng đất nước:
“Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Mồ hôi vã một trời sao trên đất”
(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước đã tạo nên những anh hùng, tạo nên
sức mạnh tiềm tàng mà quật cường để dân tộc có thể chiến thắng giặc ngoại
7
xâm. Đó là đất nước của những người con gái, con trai chưa bao giờ biết sống
lùi bước:
“Đất nước của những người con gái, con trai
Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép”
(Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi- Nam Hà)
Gắn với đất nước là số phận con người. Dường như, trường ca hiện đại
xoáy sâu vào mối tương quan với hoàn cảnh, thời gian và không gian tồn tại
và số phận của con người. Trước 1975 trường ca chủ yếu đề cập đến những
con người mang tính tập thể, sống bằng lí tưởng mà ít đời sống nội tâm. Song
một điểm nhấn trong trường ca hiện đại sau 1975 là đã đề cập đến những số
phận riêng mà những số phận ấy chịu ảnh hưởng chiến tranh. Các số phận con
người đời tư nhiều đau khổ, trái ngang đã được các trường ca sau 1975 đề cập
đến như đã tố cáo tội ác của kẻ xâm lược.
Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối
tiếc khổ đau cho cả cuộc đời:
“Chết - hy sinh cho tổ quốc - Hùng ơi
Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất
Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc
Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng”
(Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu)
Và nỗi lòng se sắt một người mẹ trong trường ca Đất nước hình tia chớp
của Trần Mạnh Hảo:
“Mỗi bận chiến trường tin báo tử
Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài”
(Đất nước hình tia chớp - Trần Mạnh Hảo)
Con người đã gánh chịu tổn thất rất lớn của chiến tranh nhưng đồng thời
trong mưa bom bão đạn đó con người cũng đã thể hiện sức mạnh kì diệu. Họ
8
không chỉ vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đau thương của đất nước mà còn
chiến thắng chính cá nhân mình, chiến thắng số phận nhiều lúc không tránh
khỏi hẩm hiu. Song, dù phải chịu những mất mát lớn lao, con người vẫn chịu
đựng vì sự vĩnh hằng của Tổ quốc.
1.1.1.2.2. Về hình thức
Về phương diện thi pháp thể loại, các tác phẩm trường ca hiện đại có yếu
tố tự sự trong kết cấu tác phẩm đó là quá trình thơ trữ tình mở rộng với chức
năng xã hội - thẩm mĩ. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, mô hình
quen thuộc là có cốt truyện cho các nhà thơ khi đến thể loại trường ca. Có thể
kể tên các tác phẩm như: Bài ca chim chơ rao (Thu Bồn); Theo chân bác của
(Tố Hữu); Con đường của những vì sao (Nguyễn Trọng Tạo)...yếu tố tự sự,
nhân vật đồng thời có cả tính lịch tính trong các trường ca. Cuối những năm
kháng chiến chống Mĩ, vào những năm tháng tiếp theo, trường ca phát triển
mạnh mẽ và không còn yếu tố tự sự là chính. Trường ca giai đoạn này rất đa
dạng và phong phú về các yếu tố: tự sự, trữ tình và chính luận. “Các trường
ca dạng này thường được chia thành nhiều chương, khúc mà mỗi chương có
thể được đặt tên. Mạch liên kết của các chương là mạch triển khi của chủ đề
mang tính chính luận trữ tình”. Các trường ca giai đoạn này chúng ta không
thể không kể tên trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh; Ngày đang
mở sáng của Trần Anh Thái....
Vào những năm sau 1975, quá trình vân động của thể loại kết cấu trường
ca càng lỏng lẻo; kết cấu lấy tư tưởng - cảm xúc trữ tình làm chỗ dựa ngày
càng được các nhà thơ vận dụng và phát huy.
Vô hình chung các tác giả có những cách sáng tạo riêng của mình để lựa
chọn những sự kiện, kết cấu phối hợp đan xen nhiều hình thức khác nhau
trong một tác phẩm từ đó đem lại hiệu quả nghệ thuật cao ở mỗi tác phẩm.
Sau này các tác giả sử dụng đan xen nhiều kiểu kết cấu, nhiều giọng điệu,
9
nhiều phương thức thể hiện trong một tác phẩm đã tạo nên khối lượng đồ sộ,
nội dung hoành tráng cho trường ca, đồng thời đây cũng là đặc trưng của
trường ca. Nhờ sự đa dạng phong phú về hình thức kết cấu đã đem lại cho
trường ca sự phát triển vượt trội so với kết cấu của các tác phẩm thơ ca khác.
1.1.2. Trường ca hiện đại Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc
Trường ca hiện đại Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu từ 1900 cho đến 1945, với tác phẩm trường ca Tiếng địch
sông Ô của Phạm Huy Thông trường ca đã xuất hiện trong phong trào thơ
Mới (1932 - 1945). Đó là một khúc anh hùng ca về tiếng địch Trương Lương
làm xao lòng khách anh hùng. Ở thời kì này trường ca Việt nam đã ảnh hưởng
không ít trường ca của Phương Tây. Có những bài ca dài bất hủ hay cả âm
nhạc đều lấy đề tài kháng chiến như: Trường ca Người Hà Nội (Nguyễn Đình
Thi), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận)... Lúc này trường ca ra đời phục vụ
nhiệm vụ chính trị nhưng nó cũng tiếp nối nguồn gốc sử thi anh hùng ca cổ
điển của các dân tộc Việt như sử thi Mường (Đẻ đất đẻ nước), các truyện thơ
Tày - Nùng - Thái (Chàng Lú nàng Ủa)...
Giai đoạn thứ hai, từ 1945 đến 1975 thời kì kháng chiến chống Mĩ, mấy
năm đầu trường ca hiện đại không có mấy tác giả sáng tác đồng thời số lượng
tác phẩm không nhiều, sự xác định giữa trường ca với thơ dài cũng chưa rõ
ràng. Các tác giả tiêu biểu như: Xuân Diệu với Ngọn Quốc kì, Thu Bồn với
Bài ca chim chơ-rao (1963) Giang Nam với Người anh hùng Đồng Tháp
(1968)... Nhìn chung, các tác phẩm trường ca trên đã cho thấy được một số sự
việc tiêu biểu, nhân vật tiêu biểu trong giai đoạn chống giặc ngoại xâm Pháp,
Mĩ. Phải chăng, trường ca giai đoạn này chưa có tầm bao quát và chất lượng
nghệ thuật chưa cao.
Giai đoạn thứ ba, từ sau 1975 đến nay trường ca lúc này đang phát triển
mạnh và có những thành tựu đáng kể. Đề tài chính của trường ca giai đoạn
10
này là đề tài chiến tranh với cảm hứng của thời đại và vốn sống phong phú
của các tác giả tích lũy những năm tháng nơi chiến trường. Chúng ta không
thể không thể kể đến một số trường ca tiêu biểu như: Những người đi tới biển
của Thanh Thảo (1976), Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh (1977), Sông
núi trên vai của Anh Ngọc (1977), Trường ca Biển của Hữu Thỉnh (1994)...
Sau chiến tranh những bản trường ca có những bước tiến rõ rệt về cả
chất lượng và số lượng. Nhìn chung các bản trường ca là sự trải nghiệm của
chính cá nhân sáng tác đã có cái nhìn toàn diện về cuộc chiến tranh. Khi đất
nước hòa bình, các tác phẩm trường ca có nội dung phong phú hình thức đa
dạng. Khuynh hướng triết lí, với giọng điệu cắt nghĩa, biện giải và xây dựng
các biểu tượng mang tính biểu trưng … là những đặc điểm của trường ca giai
đoạn này.
Trường ca Việt Nam hiện đại đã có con đường phát triển riêng và trải
qua các giai đoạn mà trường ca tự hoàn thiện và đạt độ hoàn chỉnh của nó
cùng với các thể loại khác trong nền văn học dân tộc.
1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh
1.2.1. Cuộc đời Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh (sinh 15/2/1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ
Hữu, là một nhà thơ Việt Nam. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm
1976, Hữu Thỉnh hiện là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (3 nhiệm kỳ liên
tiếp) đồng thời kiêm nhiệm Tổng biên tập Báo Văn Nghệ.
Ông sinh ra tại và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học,
tuổi thơ ấu ông đã trải qua không ít những khó khăn: 6 năm với bác ruột, 10
tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp.
Năm 1954, hòa bình lập lại ông mới được đến trường.
Năm 1963 ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người
lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động
11
như học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm
cán bộ tuyên huấn. Ông tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua hầu khắp
các chiến trường máu lửa như Đường 9
Sau 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết văn Nguyễn Du và là một trong
số những học sinh khóa đầu tiên của trường.
Từ 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng
ban Thơ, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt
Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành
Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3.
Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách cao Phó Tổng Thư ký
Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn
Việt Nam). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng Thứ ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Tháng 5 năm 2016, ông được trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu
Quốc Hội Việt Nam khóa XIV (2016-2021) ở đơn vị bầu cử số 3 thành
phố Hà Nội gồm các quận Hà Đông, Thanh Xuân và Cầu Giấy nhưng không
trúng cử.
1.2.2. Quá trình sáng tác và phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh
1.2.2.1. Quá trình sáng tác của Hữu Thỉnh
Ông là nhà thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ, đề tài chủ yếu của
ông đề tài chiến tranh, người lính và cuộc sống thôn quê. Sáng tác của ông
chia làm hai giai đoạn :
a, Giai đoạn trước 1975
Thơ của ông gieo trong lòng người đọc, một tiếng thơ trong sáng và độc
đáo. Có được đóng góp đó Hữu Thỉnh tìm cho bản thân phong cách riêng
không nhà thơ nào có được. Ở giai đoạn này ông đã khai thác và tiếp cận hiện
thực theo tình cảm của chính mình. Thơ ông nghiêng về những suy tư và triết
12
lí, không những thế Hữu Thỉnh còn có cái nhìn chiêm nghiệm về cuộc đời.
Phải chăng, sự từng trải của cuộc đấu gian khổ mà ông đã từng trải nên những
trang thơ của ông là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống là tiếng ngân vang
của một thời bom đạn. Với hình tượng người lính ông đã ghi nhận và cho ta
thấy được cái hiện thực khốc liệt nơi chiến trường bằng những vần thơ giàu
nhiệt huyết và trẻ trung. Các tác phẩm trong giai đoạn này :
Tiếng hát trong rừng (1974)
Sau trận đánh (1972)
Đêm chuẩn bị (1974)
Tắm mưa (1969)
Giấc ngủ trên đường ra trận (1965)
b, Giai đoạn sau 1975
Thời kì sau chiến tranh, Hữu Thỉnh viết dưới lăng kính chủ quan của con
người ông đi qua những năm tháng nơi chiến trường khốc liệt và ông có cái
nhìn nhận, hiện thực cuộc chiến một cách toàn diện. Ông đã gửi gắm vào
những trang thơ đầy suy tư và trăn trở về số phận con người đầy giông tố của
cuộc đời. Như vậy, Hữu Thỉnh tìm được tiếng nói riêng của mình trên văn đàn
văn học nước nhà. Các tác phẩm trong giai đoạn này:
Sang thu (thơ 1977)
Âm vang chiến hào (thơ, in chung 1975);
Đường tới thành phố (trường ca, 1979);
Từ chiến hào đến thành phố (trường ca, thơ ngắn, 1985);
Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung, 1985);
Thư mùa đông (thơ, 1994)
Trường ca biển (trường ca, 1994)
Thơ Hữu Thỉnh (thơ tuyển, 1998)
Sức bền của đất (trường ca, 2004)
13
Thương lượng với thời gian.(thơ, 2005)
Mùa xuân trên tháp pháo(bút kí, truyện ngắn, 2009)
Lí do của hi vọng (tiểu luận, phê bình, 2010)
Ngoài ra Hữu Thỉnh còn viết nhiều bút kí văn học, viết báo.
Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng chúng
tôi nhận ra ở ông là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi. Điều đáng khâm
phục, kính lể, của tác giả đối với nhà thơ Hữu Thỉnh là ông đạt được
nhiểu giải thưởng cao trong nền văn học nước nhà.
1.2.2.2. Phong cách thơ của Hữu Thỉnh.
Mỗi người cầm bút đều có những phong cách sáng tác riêng tạo ra những
nét độc đáo mà không có nhà thơ nào có được. Hữu Thỉnh cho rằng làm thơ
trước hết là ghi chép những gì đang xảy ra trong cuộc đời mình “chúng tôi
làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”. Trên đường hành quân đầy gian nan, thử
thách người chiến sĩ - nhà thơ Hữu Thỉnh đã không quên ghi lại những giây
phút, “những khoảnh khắc một đi không trở lại” nơi chiến trường khốc liệt.
Ông cho rằng: “chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất, ở đó lịch sử
chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa là say
mê của chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử sức lâu
dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu sống hết mình trong
thử thách hi sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm bút trung thực. Thơ ca
của thế hệ chống Mĩ là tiếng nói sống động và tự tin của những người trong
cuộc. Người ta bắt gặp rất nhiều trường hợp nhân danh, nhưng mọi sự nhân
danh đều là sự cảm thông của người đọc vì nó đảm bảo bằng chỗ đứng của
người viết. Thơ ở đây được đảm bảo bằng máu” [16]. Dường như, những vần
thơ, trang thơ của Hữu Thỉnh là trang nhật kí vừa đầy đủ, vừa chân thực hơn
của chính người chiến sĩ khỏe khắn, hiên ngang trực tiếp cầm súng ra chiến
trường đồng thời cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong cuộc đời
mình ở thời điểm rất đặc biệt ấy:
14
- Xem thêm -