Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn huyền quang tôn giả từ cuộc đời vào tác phẩm...

Tài liệu Luận văn huyền quang tôn giả từ cuộc đời vào tác phẩm

.PDF
108
104
140

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- NGUYỄN ĐÌNH NGHĨA HUYỀN QUANG TÔN GIẢ TỪ CUỘC ĐỜI VÀO TÁC PHẨM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- NGUYỄN ĐÌNH NGHĨA HUYỀN QUANG TÔN GIẢ TỪ CUỘC ĐỜI VÀO TÁC PHẨM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn Hà Nội – 2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Là một hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hoá, văn học đặc biệt của thời đại nhà Trần, Huyền Quang đã đi vào sử sách từ rất sớm. Đã có không ít công trình nghiên cứu về ông trên nhiều bình diện: tƣ tƣởng triết học, văn hoá dân gian, văn học… Tuy nhiên cho tới nay, chƣa có một công trình nào nghiên cứu về Huyền Quang một cách toàn diện, nhất quán. Xuất phát từ thực tế đó, ở luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu tiểu sử và hành trạng của Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ, đặt trong sự vận động tƣ tƣởng văn hoá, văn học thời Trần để dựng lên bức tranh khái quát, tƣơng đối khách quan về nhân cách lịch sử đặc biệt này, từ đó tiến hành tìm hiểu, phân tích các trƣớc tác của ông hiện còn đƣợc lƣu lại đến nay, cũng nhƣ tìm hiểu, phân tích về ông ở góc độ là một nhân vật trong văn học. Lựa chọn và triển khai đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn tìm hiểu liệu có mối liên hệ xác thực, lôgíc nào đối với Huyền Quang - từ một nhân cách lịch sử vào trong tác phẩm (trong sáng tác của ông, và trong các sáng tác về ông với tƣ cách là một nhân vật văn học) hay không? 2. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là nghiên cứu Huyền Quang ở cấp độ khái quát, nhất quán trên ba phƣơng diện: Huyền Quang - nhân vật lịch sử; Huyền Quang - một thi nhân; Huyền Quang - nhân vật văn học. Từ ba phƣơng diện nghiên cứu về Huyền Quang, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu, cắt nghĩa và lý giải quá Trình Huyền Quang từ một nhân cách lịch sử đã đi vào trong tác phẩm nhƣ thế nào. Liệu nhân vật hiện thực ở ngoài đời khi đƣợc phản ánh vào trong tác phẩm có mối liên hệ lôgíc nội tại hay mâu thuẫn nào không. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu về Huyền Quang ở ba phƣơng diện trên để đƣa ra nhận định tổng quát, nhất quán về hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa văn học độc đáo này. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Các thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử và hành trạng của Huyền Quang có thể kể đến nhƣ Tam tổ thực lục, Tam tổ hành trạng, Thánh đăng ngữ lục… Trƣớc tác của ông cũng đƣợc đƣa vào các bộ sƣu tập: Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Kiến văn tiểu lục, Hoàng Việt thi tuyển…gần đây, các trƣớc tác còn lại 1 của ông đã đƣợc sƣu tập lại trong công trình nghiên cứu Thơ văn Lý - Trần của nhóm tác giả thuộc Viện Văn học. Số lƣợng các công trình nghiên cứu về Huyền Quang không phải là nhỏ. Theo thống kê một cách tƣơng đối của PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn, từ đầu những năm 1970 cho tới nay, có hơn 70 đơn vị thƣ mục tƣ liệu liên quan đến cuộc đời, hành trạng, sự nghiệp, văn tài… của vị tổ thứ ba Thiền phái Trúc Lâm này. Những ngƣời nghiên cứu về Huyền Quang nhiều nhất có thể kể đến nhƣ Thích Thanh Từ, Thích Phƣớc Sơn, Thích Phƣớc An, Nguyễn Lang, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Trần Quốc Vƣợng, Hoàng Xuân Hãn, Lê Mạnh Thát, Trần Thị Băng Thanh, Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Kim Sơn… Phần lớn những đánh giá nghiên cứu này về Huyền Quang chỉ dừng lại ở mức độ của các bài viết. Gần đây mới xuất bản cuốn Huyền Quang- cuộc đời, thơ và đạo do Giáo sƣ Trần Thị Băng Thanh chủ biên. Tuy nhiên, công trình này cũng mới chỉ là sự tập hợp các bài viết về Huyền Quang theo từng phạm vi chủ đề, chứ chƣa phải là một công trình nghiên cứu toàn diện, nhất quán về ông. Các tác giả nhƣ Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hùng Hậu có nhắc tới Huyền Quang nhƣng cũng chỉ đề cập gián tiếp khi nhắc đến văn học giai đoạn Lý - Trần. Các tác giả nhƣ Nguyễn Lang, Nguyễn Duy Hinh và những ngƣời trong giới xuất gia nhƣ Hoà thƣợng Thích Thanh Từ, Thƣợng toạ Thích Quảng Liên, nhóm tác giả ở Việt Triết học, Việt Phật giáo cũng nghiên cứu về Huyền Quang với tƣ cách là đệ tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm của tác giả Nguyễn Hùng Hậu, Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của tác giả Trƣơng Văn Chung, Triết học Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh lại quan tâm tới Huyền Quang ở khía cạnh tƣ tƣởng triết học của ông và của Thiền phái Trúc Lâm. Gần đây nhất là hội thảo về “Bảo tồn và phát huy di sản đệ tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm Huyền Quang và lễ hội Côn Sơn” tại Côn Sơn vào ngày 15 tháng 2 năm 2009 với các bài tham luận của các nhà nghiên cứu Văn - Sử - Triết, các nhà văn, các nhà báo, các Hoà Thƣợng. Những bài tham luận này tập trung đánh giá về phƣơng diện tiểu sử hành trạng, trƣớc tác của Huyền Quang, vai trò và đóng góp của Huyền Quang đối với Thiền phái Trúc Lâm, câu chuyện giữa ông với nàng Điểm Bích, các di sản văn hoá gắn với đệ tam Tổ này. Nhƣ vậy có thể thấy, Huyền Quang đã đƣợc nghiên cứu ở rất nhiều phƣơng diện, cấp độ khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu Huyền Quang ở phƣơng 2 diện từ nhân cách lịch sử đã đƣợc phản ánh nhƣ thế nào vào trong tác phẩm vẫn còn là một hƣớng nghiên cứu mở, hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn và thú vị. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu ở đây là Huyền Quang - một hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hoá văn học đặc biệt của thời Trần. Chúng tôi sẽ khảo sát hiện tƣợng Huyền Quang mà cụ thể là quá trình từ một nhân vật lịch sử đã đƣợc chuyển hóa và phản ánh nhƣ thế nào vào trong tác phẩm văn học. Trong phạm vi của luận văn này, ngƣời viết thông qua các thƣ tịch cổ, tìm hiểu tiểu sử hành trạng của Huyền Quang, từ đó khái quát lên hình ảnh về ông, trên cơ sở con ngƣời lịch sử, chúng tôi đi sâu vào việc phân tích thơ văn của Huyền Quang, cũng nhƣ tìm hiểu hình ảnh của ông ở góc độ một nhân vật văn học. Nghiên cứu về Huyền Quang trên cơ tƣ liệu ghi chép về ông có nhiều điểm còn chƣa đƣợc thống nhất, hơn nữa các trƣớc tác còn lại của ông cho đến nay cũng không còn nhiều. Vì vậy, chúng tôi một mặt dựa vào các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử hành trạng và các trƣớc tác của ông, đồng thời cũng dựa trên sự vận động tƣ tƣởng văn hoá và văn học thời Trần với mong muốn đƣa ra những kiến giải tƣơng đối khách quan, thống nhất về hiện tuợng đặc biệt này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp khảo sát văn bản - Phƣơng pháp thống kê - phân loại - Phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, - Phƣơng pháp loại hình học, phƣơng pháp nghiên cứu văn bản liên ngành. 6. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung luận văn gồm có 3 chƣơng: + Chƣơng 1: Tiều sử và hành trạng Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ + Chƣơng 2: Nhà thơ Lý Đạo Tái và Tôn giả Huyền Quang + Chƣơng 3: Huyền Quang tôn giả - nhân vật văn học và những kết tinh huyền thoại, giai thoại. 3 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG HUYỀN QUANG QUA CÁC NGUỒN THƢ TỊCH CỔ Là một hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hóa, văn học đặc biệt ở giai đoạn Lý Trần nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung, Huyền Quang tôn giả đã đi vào sử sách từ rất sớm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ông ở các góc độ khác nhau: lịch sử tƣ tƣởng, văn hóa dân gian, văn học… Hầu hết các công trình nghiên cứu đều đánh giá cao Huyền Quang ở nhiều phƣơng diện: một nhà tƣ tƣởng lớn, một thiền gia – thi nhân, một nhân vật văn học độc đáo. Trong chƣơng đầu của luận văn, chúng tôi muốn dựng lên một bức chân phác họa, khái quát về vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm dựa trên các ngồn thƣ tịch cổ, đồng thời cũng đặt đối tƣợng nghiên cứu trong sự vận động tƣ tƣởng văn hóa, văn học của thời đại, để có đƣợc một cái nhìn tổng quát, khách quan. Qua các nguồn thƣ tịch cổ, chúng tôi nỗ lực dựng lại hình ảnh Huyền Quang ở bốn phƣơng diện theo tiến trình tiểu sử hành trạng của ông, đó là : Hình ảnh một vị trí thức nho sĩ; Hình ảnh một nhà Phật học lỗi lạc – đệ tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm; Hình ảnh một vị ẩn sĩ vả hình ảnh một thi nhân. Chúng tôi hi vọng thông qua việc dựng lên bức chân dung phác họa về Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ, có thể phẩn nào cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn diện, khách quan và thống nhất về hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa, văn học đặc biệt này. Tuy nhiên nhƣ đã đề cập ở phần đầu luận văn, hiện các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang còn có nhiều điểm chƣa thống nhất. Vì vậy, trƣớc khi đi vào việc dựng lại hình ảnh khái quát của Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ, chúng tôi tập trung làm việc làm rõ những vấn phức tạp trong việc nghiên cứu tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của ông. 1.1. Vấn đề tiểu sử và trước tác của Huyền Quang 1.1.1. Vấn đề tiểu sử Huyền Quang Đƣợc nhìn nhận ở tƣ cách vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, một đơn vị tác gia văn học, một danh nhân văn hóa - lịch sử, tên tuổi, tiểu sử hành trạng 4 và trƣớc tác của Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả đã đƣợc lƣu lại từ rất sớm qua nhiều nguồn thƣ tịch khác nhau. Những thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang có thể kể đến nhƣ: 1. Tam tổ thực lục - Khuyết danh 2. Tam tổ hành trạng - Khuyết danh 3. Thiền tông bản hạnh - Khuyết danh 4. Việt Nam cao tăng lục - Khuyết danh 5. Thánh đăng ngữ lục - Khuyết danh 6. Đinh kế lịch triều đăng khoa lục - Khuyết danh 7. Lịch triều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú 8. Kiến văn tiểu lục - Lê Quý Đôn 9. Hoàng Việt thi tuyển - Bùi Huy Bích 10. Toàn Việt thi lục - Lê Quý Đôn 11. Trích diễm thi tập - Hoàng Đức Lƣơng 12. Việt âm thi tập - Phan Phu Tiên 13. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh - Ngô Thì Nhậm 14. Tân đính Lĩnh Nam trích quái - Vũ Quỳnh 15. Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ 16. Sơn cư tạp thuật - Đan Sơn Từ kết quả liệt kê nhƣ trên, có thể thấy các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang không phải là ít . Tuy nhiên, những ghi chép về tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của ông trong các nguồn thƣ tịch cổ còn có nhiều điểm chƣa đƣợc thống nhất. Điều này đã gây không ít khó khăn cho các nhà nghiên cứu trong việc tìm hiểu, đƣa ra những nhận xét, đánh giá mang tính khách quan, nhất quán về hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hóa, văn học đặc biệt này. Trong các nguồn thƣ tịch cổ mà chúng tôi đã liệt kê ở trên, thƣ tịch ghi chép về Huyền Quang đƣợc xem là chính thống và đầy đủ hơn cả là bản Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục. Tổ gia thực lục nói riêng và Tam tổ thực lục nói chung đều không có tên tác giả và ngƣời hiệu khảo. Theo lời dẫn in ở cuối bản Tam tổ thực lục thì “Quyển Tổ gia thực lục này, vào khoảng niên hiệu Tuyên Đức (1426 - 1435) đời nhà Minh, Thƣợng thƣ Hoàng Phúc thấy đƣợc, liền mang 5 về nhà Minh (…). Đến khoảng năm Gia Tĩnh (1522 - 1558) nhà Minh, Tô Xuyên Hầu đi sứ sang nhà Minh, tới 19 năm sƣ giả mới trở về. Cháu bốn đời của Hoàng Phúc là Hoàng Thừa Tổ, làm quan chuyển vận (…) đã gửi cho Tô Xuyên Hầu đem về (…). Trình Tuyền Hầu (Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) nhân đến chúc mừng đoàn sứ giả về nƣớc, bèn nhận sách đem về. Sau đó Trình Tuyền Hầu có làm văn chú thích sách này”. [56, tr. 90] Nhƣ vậy, Tổ gia thực lục sau khi đƣợc tìm thấy đã đƣợc ghép với hai phần trƣớc chép về Điều Ngự Giác Hoàng – Trúc Lâm đệ nhất Tổ và Pháp Loa – đệ nhị Tổ (khoảng thế kỷ thứ XIV) để thành ra sách Tam Tổ thực lục và đƣợc lƣu hành vào khoảng giữa thế kỷ XVI. Theo Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục thì Huyền Quang sinh năm Giáp dần (1254): “Tổ ở phía Đông Nam chùa Ngọc Hoàng, tại Lang Am, làng Vạn Tải, hạ lƣu sông Bắc Giang (khoảng năm Hồng Đức (1470 - 1497) đổi thành huyện Gia Định, xã Vạn Tƣ (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Lƣơng, tỉnh Bắc Ninh); tổ tiên chín đời của Tổ là Lý Ôn Hoà làm quan Hành khiển dƣới triều vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Ôn Hoà sinh Lƣơng, Lƣơng sinh Nhƣợng, Nhƣợng sinh Minh Doãn, Minh Doãn sinh Khâm, Khâm sinh Quang Dụ (làm quan chuyển vận đời Trần), Quang Dụ sinh 4 ngƣời con trai: ngƣời trƣởng tên là Tráng, ngƣời kế tên Tƣớng, ngƣời thứ ba tên Thành và ngƣời út tên Tuệ Tổ. Tuệ Tổ là Tổ phụ của Tổ sƣ. Lúc còn làm học trò, nhân Chiêm Thành sang cƣớp phá, ông đánh giặc có công, nhƣng không ra làm quan, chỉ vui thú điền viên, ƣu du qua ngày tháng, lại thích xem sách hay và chuyện lạ. Mẹ Tổ là Lê Thị, vốn là ngƣời đàn bà hiền đức, chiều chuộng chồng con, kính thờ cha mẹ chồng” [56, tr. 77-78]. Theo Tổ gia thực lục thì Huyền Quang xuất thân từ một gia đình thi thƣ, có khiếu văn chƣơng từ nhỏ. Năm 20 tuổi, ông đỗ thi Hƣơng, năm 21 tuổi ông thi tiếp khoa thi Hội và đỗ Trạng nguyên. Sau khi thi đỗ, ông đƣợc bổ làm việc trong viện Hàn lâm, phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc. Năm 1305, nhân đi theo vua Anh Tông (1293 - 1314) đến chùa Vĩnh Nghiêm, thấy quốc sƣ Pháp Loa (1284 1330) đang hành đạo, lòng sinh ngƣỡng mộ, nhớ lại duyên xƣa, ông bùi ngùi cảm thán rằng: “Làm quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phƣơng là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hạ, há nên lƣu luyến mãi” [56, tr. 80]. Nhân đó ông dâng biểu xin 6 từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Cũng theo Tổ gia thực lục thì ông thọ giáo với Thiền sƣ Pháp Loa và đƣợc pháp hiệu là Huyền Quang. Sau đó Huyền Quang phụng mệnh đệ nhất tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đến trụ trì ở chùa Vân Yên (đến đời Hồng Đức (1470 - 1497) đổi tên thành chùa Hoa Yên) núi Yên Tử. Với học vấn sâu rộng lại tinh thông Phật pháp, Tăng, Ni theo học ông đông đến hàng nghìn ngƣời. Điều Ngự còn sai ông biên soạn Chư phẩm kinh, Công văn tập và các sách khác…Ông đƣợc Điều Ngự hết sức yêu quý và đánh giá rất cao về trình độ học vấn. Sau khi Điều Ngự mất, ông đã phò tá Pháp Loa hơn hai mƣơi năm (1309 – 1330) và đóng góp không nhỏ cho sự hƣng thịnh của Thiền phái Trúc Lâm. Năm 1330, Pháp Loa mất, ông nối tiếp làm vị Tổ thứ ba của dòng Thiền Trúc Lâm. Về cuối đời, Huyền Quang cƣ trú ở núi Thanh Mai sáu năm, rồi về trụ trì ở Côn Sơn. Ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn, thọ 80 tuổi. Đến ngày 24, tin tức mới về tới làng Vạn Tải, nên dân làng lấy ngày này làm ngày giỗ của ông. Mặc dù Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục đƣợc xem là nguồn thƣ tịch ghi chép tƣơng đối đầy đủ và chính thống hơn cả về tiểu sử và hành trạng của Huyền Quang (Các nguồn thƣ tịch ghi chép về Huyền Quang vể sau cũng thƣờng dựa vào bản Tổ gia thực lục này), nhƣng tính xác thực nó cũng chỉ dừng lại ở đôi ba điểm mốc quan trọng trong tiểu sử hành trạng của Huyền Quang, bên cạnh những sự kiện khác còn gây nhiều tranh cãi và nghi hoặc. Qua Tổ gia thực lục, chúng ta cũng mới chỉ xác định đƣợc quê quán, gia thế, năm sinh năm mất của Huyền Quang. Ông đƣợc sinh ra trong một gia đình có truyền thống thi thƣ, từng kinh qua cửa Khổng sân Trình, nhƣng sau đó ông xuất gia. Với học thuật uyên thâm, ông trở thành vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm và có những đóng góp rất quan trọng cho sự hƣng thịnh của Thiền phái này. Tổ gia thực lục nói riêng và Tam tổ thực lục nói chung, trong quá trình ghi chép tiểu sử, với mục đích đề cao tài năng và phẩm hạnh của của các vị Tổ, đã thần thánh hóa họ bằng vô số những yếu tố kỳ ảo. Điều này đã “vi phạm”, mục đích biên soạn “thực lục” - ghi chép đúng sự thực. Các vị Tổ Trúc Lâm, đặc biệt là Tam Tổ Huyền Quang đã đƣợc thần thánh hóa bằng những yếu tố kỳ ảo, những vầng hào quang huyền diệu xung quanh tiểu sử hành trạng một cách đậm đặc. Chính vì vậy mà Tổ gia thực lục nói riêng và Tam tổ thực lục nói chung đã 7 chứa đựng những yếu tố vƣợt khỏi chức năng tôn giáo, ghi chép tiểu sử các vị thiền sƣ, tạo mầm mống cho việc hình thành những văn bản mang đậm chất văn học đích thực về sau. Các tác giả trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII do Đinh Gia Khánh chủ biên đã có nhận xét rất đúng: So với Thiền uyển tập anh, thì Tam tổ thực lục ít có giá trị sử học hơn. Điều này cũng đƣợc tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận - Nguyễn Lang khẳng định, đặc biệt là với bản Tổ gia thực lục. Theo Nguyễn Lang thì: Tổ gia thực lục có ghi nhiều chi tiết về những sự kiện liên hệ tới Huyền Quang, ví dụ nhƣ tên họ của tổ tiên ông từ đời Lý Thần Tông, khiến ta có thể tin rằng sách đã viết trên những căn cứ xác thực. Tuy nhiên vì tác giả dựa trên những điều thuật lại mà không căn cứ vào thƣ tịch có trƣớc, cho nên sách cũng có một số chi tiết không phù hợp với sự thật. So với hai phần trƣớc trong sách Tam tổ thực lục, giá trị lịch sử của phần này hẳn là kém hơn một bực. Nhƣ Nguyễn Lang nhận xét, ở bản Tổ gia thực lục, bên cạnh những điểm tƣơng đối xác thực về tiểu sử hành trạng của Huyền Quang còn có không ít những điểm còn gây nhiều tranh cãi, ghi ngờ hoặc nhầm lẫn nhƣ: Huyền Quang “dâng biểu đến ba lần xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Thuở ấy vua đang tôn sùng Phật giáo, nên ngƣời chấp nhận. Khi đƣợc phép vua, Tổ liền thọ giáo với Thiền sƣ Pháp Loa, đƣợc pháp hiệu là Huyền Quang” [Tam tổ, tr.80]. Thực ra thì sau khi xuất gia, Huyền Quang thọ giáo với Bão Phác, là đệ tử của Bảo Phác ở chùa Vũ Ninh, điều này đã đƣợc ghi rất rõ trong bản tiểu sử của Pháp Loa ở Tam tổ thực lục. Việc ông đỗ khoa thi Hƣơng năm 20 tuổi và thủ khoa kì thi Hội năm sau đó rồi đƣợc bổ vào chức quan Hàn lâm… cũng rất khó xác định. Hơn thế nữa, bủa vây xung quanh tiểu sử hành trạng của ông là hàng loạt những truyền thuyết, huyền thoại và giai thoại nhƣ các chi tiết: mẹ ông đến núi Chu Sơn hái thuốc, gặp lúc trời hè nắng gắt, ngồi nghỉ dƣới bóng chùa Ma Cô tiên, mơ thấy một con khỉ lớn, đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng bào, ôm mặt trời hồng ném vào lòng, bà giật mình tỉnh giấc, thấy lòng rung động và có thai… khi ông sinh ra có tia sáng mờ ảo, mùi hƣơng thơm phức… rồi đến câu chuyện hƣ hƣ thực thực giữa ông và nàng Bích, chi tiết ông dùng pháp thuật để giải toả mối nghi oan và chứng tỏ cho đạo hạnh của mình… tất cả những yếu tố kỳ ảo này đã hoàn toàn vƣợt khỏi phạm vi sử liệu và chức năng của một văn bản tôn 8 giáo, đồng thời đem đến cho Tổ gia thực lục những yếu tố, dấu ấn văn học khá đậm nét. Việc tiểu sử hành trạng của Huyền Quang đƣợc bao phủ bởi những truyền thuyết, huyền thoại và giai thoại một cách đậm đặc nhƣ vậy đã làm cho tính xác thực của những tƣ liệu ghi chép về ông có không ít điều cần phải bàn xét. Đối chiếu các thƣ tịch chép về Huyền Quang, chúng ta thấy một số điểm không đồng nhất nhƣ: Về tên gọi, theo Tam tổ thực lục (Thế kỷ XIV) tên ông là Lý Tải Đạo; theo Tân đính Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh -1505), tên ông là Lý Kiên Cƣơng; theo Toàn Việt thi lục (Lê Quý Đôn - 1786), tên ông lại là Trần Đạo Tái… Theo Tam tổ thực lục, năm 20 tuổi ông đỗ khoa thi Hƣơng, năm 21 tuổi tham gia kì thi Hội và đỗ Trạng nguyên, sau khi đậu, ông đƣợc bổ vào chức quan Hàn lâm, phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc, làm quan đến năm 51 tuổi mới xuất gia. Theo sách Đỉnh kế lịch triều đăng khoa lục, sau khi thi đỗ, ông đƣợc cử làm quan ở Viện Nội hàn, nhƣng không lâu thì xin từ chức và đi tu. Theo sách Tam tổ hành trạng, ông có thi đỗ Trạng nguyên, song không chịu làm quan mà xin vua Trần cho xuất gia vào núi tu hành. Theo Hoàng Việt thi văn tuyển của Bùi Huy Bích thì ông họ Trần, 9 tuổi đã biết làm văn thơ, 19 tuổi vào chùa tu hành, đƣợc Trần Anh Tông đặt hiệu là vị tổ Trúc Lâm thứ ba… Theo “Huyền Quang hành” trong Yên Tử sơn tự tăng (Sƣ chùa núi Yên Tử) của Đan Sơn thì “Huyền Quang là ngƣời Vạn Tải, huyện Gia Định. Năm Anh Tông thứ năm (1297), ông thi Hƣơng đỗ Giải nguyên; năm thứ sáu (1298) thi Hội đỗ Tiến sĩ, Trạng nguyên cập đệ” [80, tr. 185]. Và cũng theo tác giả Đan Sơn thì “Xét quốc sử và Đăng khoa lục thì không có kỳ thi Hội nào vào năm Anh Tông thứ sáu. Câu chuyện do thế tục truyền tụng so với những điều ghi chép ở đây là hoàn toàn khác nhau” [80, tr. 186]. Việc Huyền Quang - Lý Đạo Tái có đỗ Trạng hay không và nếu đỗ thì là vào năm nào? Hiện vẫn chƣa có tài liệu nào ghi chép đƣợc rõ ràng. Theo PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư thì “hai năm Quý Dậu, Giáp Tuất (1273/1274), không có thi Hƣơng, thi Hội. Mãi đến năm Ất Hợi (1275) triều đình mới mở khoa thi tuyển ngƣời, lấy đỗ Trạng nguyên Đào Tiêu, Thám hoa Lang Quách Nhẫn và 27 Thái học sinh. Nhƣ vậy nếu Huyền 9 Quang đi thi thì tên ông chỉ có thể nằm trong danh sách 27 Thái học sinh đó chứ không đỗ Trạng” [80, tr. 39]. Cũng theo bà Băng Thanh thì nếu Lý Đạo Tái sau khi thi đỗ, đƣợc bổ sung vào chức quan Hàn lâm, phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc thì sao lại không có tên ông? Trong khi thời kỳ này cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta và nhà Nguyên rất gay gắt, làm nảy sinh mảng văn xuôi dƣới dạng thƣ từ biểu tấu rất giàu chất nghị luận, Các bậc cầm bút có công nhƣ Đinh Củng Viên… đều đƣợc ghi trong sử sách? Có thể các nhà chép sử đã bỏ sót tên Huyền Quang nhƣng cũng có thể “Huyền Quang không phải là một nhân vật nổi tiếng trong quan trƣờng đƣơng thời. Ông không đỗ cao khoa, cũng không mặn mà với đƣờng khoa hoạn. Ông đã là một bậc “đại ẩn” ngay từ khi giữ công việc từ hàn” [80, tr. 39]. Các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về Huyền Quang nhìn chung khá vắn tắt, bên cạnh đấy lại còn có không ít những điểm mờ khó xác định. Hơn thế nữa, tiểu sử hành trạng của Huyền Quang lại hầu nhƣ không đƣợc chép trong chính sử. Cả Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí đều không chép gì về Huyền Quang. Với đặc điểm “văn - sử - triết bất phân” trong văn học trung đại phƣơng Đông nói chung và văn học trung đại Việt Nam nói riêng, hiện tƣợng một nhân vật lịch sử nhƣ Huyền Quang với tiểu sử hành trạng có nhiều điểm chƣa thật rõ ràng qua các nguồn thƣ tịch không phải là một trƣờng hợp ngoại lệ cá biệt. Ngay đến Lão Tử, một nhà tƣ tƣởng lớn của Trung Quốc sống ở thời nhà Chu, cho đến nay, việc xác định ông sinh năm nào, mất ở đâu, thọ bao nhiêu tuổi vẫn chỉ là ƣớc lệ... Ở Việt Nam, thiền sƣ Vạn Hạnh - ngƣời có công rất lớn trong việc kiến tạo nên vƣơng triều nhà Lý, ngƣời ta mới chỉ xác định đƣợc năm ông mất (1018) mà chƣa rõ ông sinh là năm nào. Hay nhƣ Chu Văn An, ngƣời đƣợc coi là bậc “đại nho quán thế” trong lịch sử nƣớc ta, sau khi mất, ông đƣợc rƣớc vào thờ ở Văn Miếu, cũng chỉ mới xác định đƣợc năm mất (1370) mà chƣa rõ năm sinh (Có tƣ liệu cho rằng ông sin năm 1292?)… Đây là một nét khá đặc thù trong văn hóa văn học phƣơng Đông Trung đại do tình trạng lƣu trữ, bảo quản yếu kém về tƣ liệu, việc giữ gìn văn hiến văn hóa chƣa đƣợc đặt ra một cách nghiêm mật. Hiện tƣợng Huyền Quang cũng không nằm ngoài tình trạng trên. 10 Vấn đề tiểu sử hành trạng Huyền Quang đƣợc Huyền thoại hóa, giai thoại hóa cũng không nằm ngoài quy luật phổ biến đối với các nhân vật nổi tiếng xƣa nay ở cả Đông lẫn Tây. Tuy vậy, Huyền Quang là một trong số rất ít những tên tuổi mà tiểu sử và hành trạng lại đƣợc huyền thoại hóa và đặc biệt đƣợc giai thoại hóa ở mức cực cao và đậm đặc đến nhƣ vậy. Điều này càng có ý nghĩa lớn khi đặt Huyền Quang trong bối cảnh của sự chuyển giao tƣ tƣởng, văn hóa, văn học Trung đại ở thế kỷ XIV - XV. Rõ ràng đến thời đại Huyền Quang, trong văn học đã ẩn chứa một sự vận động nào đó trong tâm lý sáng tạo và thƣởng thức. Những thƣ tịch ghi chép về Huyền Quang không còn chỉ dừng lại ở những văn bản mang chức năng tôn giáo, ghi chép tiểu sử các vị thiền sƣ, mà nó đã thể hiện nhiều hơn ở những yếu tố văn học, tiến gần hơn tới một văn bản mang chức năng văn học, hƣớng tới đáp ứng những yều cầu của sự sáng tạo, tiếp nhận và thƣởng thức văn học. Chính vị vậy, qua các nguồn thƣ tịch cổ, Huyền Quang không chỉ đơn thuần là nhân vật lịch sử, ở một phƣơng diện nhất định nào đấy ông còn là hình ảnh của một nhân vật văn học thực thụ. Chính sự giao thoa giữa nhân vật lịch sử và nhân vật văn học đã tạo nên những “bất khả giải” đối với các nhà nghiên cứu trên đƣờng hƣớng kiếm tìm và khẳng định những yếu tố xác thực, tin cậy về Huyền Quang ở phƣơng diện con ngƣời lịch sử. Ở Việt Nam từ thế kỷ thứ XIV – XV (thế kỷ của sự vận động và chuyển giao những yếu tố đặc trƣng của dòng văn học Phật giáo sang dòng văn học Nho giáo) đã xuất hiện nhiều thể loại văn học với nhiều phƣơng thức phản ánh khác với thời kỳ trƣớc đó. Nhân vật trung tâm mà văn học phản ánh không còn đơn thuần là những nhà sƣ nữa mà là cả quý tộc - võ tƣớng và đặc biệt là hình ảnh ngƣời trí thức nho sĩ – nhân vật đang tiến dần trên tiến trình trở thành nhân vật trung tâm, độc tôn của văn học trung đại. Sự vận động và giao thoa trong các nhân cách trí thức trên tiến trình hƣớng tới một nhân cách trí thức đơn trị đã đƣa đến những phƣơng thức phản ánh mới so với giai đoạn trƣớc. Những hình thức ghi chép, phản ánh của văn học Phật giáo không còn phù hợp và dần bị phân hóa, thay thế bằng những hình thức ghi chép và phản ánh mang nhiều đặc trƣng của một dòng văn học mới – dòng văn học Nho giáo với sự vận hành theo những yêu cầu tất yếu của thời đại lịch sử. Bên cạnh những thể loại và phƣơng thức phản ảnh mới, các phƣơng thức phản ảnh truyền thống cũ đã bị thu hẹp và tản 11 mát dần ra vùng biên trong quá trình độc tôn của văn chƣơng Nho giáo. Là một nhân cách văn hóa đa trị, một trí thức vừa tinh thông Nho học vừa uyên thâm về Phật học, nhân vật lịch sử - nhân vật văn học Huyền Quang đã đƣợc ghi chép, phản ánh theo cả phƣơng thức của dòng văn học Phật giáo và phƣơng thức của dòng văn học Nho giáo, lại ở thời điểm giao thoa giữa hai dòng văn học này, trong sự vận động từ dòng văn học Phật giáo sang dòng văn học Nho giáo. Những cách ghi chép và phản ánh mang đặc trƣng riêng của hai dòng văn học này đã dẫn đến những chi tiết và sự kiện không khớp nhau trong tiểu sử hành trạng của Huyền Quang ở các nguồn thƣ tịch cổ và gây “nhiễu” cho các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu về tiểu sử hành trạng của ông. 1.1.2. Vấn đề trước tác của Huyền Quang Theo các nguồn thƣ tịch cổ, trƣớc tác của Huyền Quang gồm có: Chư phẩm kinh, Công văn tập, Thích khoa giáo, Ngọc tiên tập, Vịnh Vân Yên tự phú... Trong đó, các tác phẩm nhƣ Chư phẩm khinh, Công văn tập, Thích khoa giáo đều đã thất lạc. Hiện trƣớc tác của Huyền Quang chỉ còn hơn 20 bài thơ chữ Hán trong tập Ngọc tiên và bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự phú. Các tác phẩm này cũng không còn văn bản gốc và chủ yếu đƣợc ghi chép lại trong các nguồn thƣ tịch cổ nhƣ Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển... Tất cả những tác phẩm của Huyền Quang còn lại cho đến nay đều đƣợc tập hợp trong bộ sách Thơ văn Lý - Trần và công trình Huyền Quang - cuộc đời, thơ và đạo do Trần Thị Băng Thanh chủ biên. Trƣớc tác của Huyền Quang còn lại đến nay là không nhiều. Và theo nhƣ sự tập hợp trong bộ sách Thơ văn Lý – Trần thì các bài thơ đều có rất nhiều dị bản (dù mỗi dị bản chỉ khác nhau một đôi chữ), thêm vào đó lại có nhiều điều chƣa rõ ràng và đang còn gây nhiều tranh cãi nhƣ trƣờng hợp về bản quyền của bài Xuân nhật tức sự… Bài thơ Xuân nhật tức sự đã đƣợc Lê Mạnh Thát trong bài Về tác giả bài thơ “Xuân nhật tức sự” đăng trên Tạp chí Văn học (số 1 - 1984) xác định là của thiền sƣ Ảo Đƣờng Trung Nhân (? - 1203). Theo Lê Mạnh Thát thì ông đã tìm thấy bài thơ này trong một số sách chép về Thiền sƣ Trung Hoa đời Tống. Với bài thơ trên, hiện tại có hai thái cực: Một số nhà nghiên cứu về Huyền Quang, trong đó có Lê Mạnh Thát cho rằng nên trả lại bài thơ cho tác giả của nó; một số nhà nghiên cứu khác trong đó có Thích Thanh Từ, Thích Phƣớc An, Trần Thị Băng Thanh… lại cho rằng: mặc dù đã tìm thấy 12 xuất xứ xƣa nhất của bài thơ trong thơ Thiền đời Tống, nhƣng khi đối chiếu văn bản vẫn có một số chữ sai dị so với bài thơ gốc. Do đó cũng có thể nêu thêm một giả thuyết là biết đâu Huyền Quang chẳng đã mƣợn bài thơ gốc của Ảo Đƣờng Trung Nhân rồi chỉnh lý lại chút ít để biểu đạt cảm hứng Thiền thâm thuý của mình? Nhƣ vậy thì bài thơ vẫn phản ánh một phần tâm tƣ của ông. Khảo lại vấn đề bản quyền trong văn học Trung đại Việt Nam, chúng ta thấy không chỉ có vấn đề bản quyền đối với bài Xuân nhật tức sự đƣợc ghi trong tập Ngọc tiên của Huyền Quang, mà còn có khá nhiều bài thơ khác từng tồn tại về vấn đề bản quyền. Bài Nam quốc sơn hà trƣớc đây vẫn đƣợc xem là của Lý Thƣờng Kiệt, nhƣng theo Bùi Duy Tân trong cuốn Theo dòng khảo luận văn học trung đại thì: “Thực sự Lý Thƣờng Kiệt có thể là ngƣời sử dụng một cách sáng tạo bài thơ đã lƣu truyền từ lâu, để cổ vũ tinh thần chiến đấu của binh sĩ, chứ chắc chắn không phải là tác giả của bài thơ” [72, tr. 154]. Hay bài Ngư nhàn từng đƣợc gắn với tác giả là Thiền sư Dương Không Lộ (thực ra bài thơ này là của Hàn Ô - một nhà thơ Trung Quốc). Trong cuốn Theo dòng khảo luận văn học trung đại, PGS. Bùi Duy Tân đã so sánh bài thơ Ngư nhàn của Dƣơng Không Lộ với bài thơ Tuý trước trong Toàn Đường thi của Hàn Ô. Và cũng theo Bùi Duy Tân thì bài Ngư nhàn nên trả lại cho Hàn Ô, với tên đích thực của bài thơ là Tuý trước. Bên cạnh những tranh luận về bản quyền của bài Xuân nhật tức sự, cũng có không ít những bàn cãi về bài Vịnh Vân Yên tự phú. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ngôn ngữ văn học trong bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự khó có thể xuất hiện ở đời Trần, tuy nhiên theo nhƣ một số ý kiến khác thì ở đời Trần, chữ Nôm và các tác phẩm thơ Nôm thời Trần đã đạt đến một trình độ nhất định, đủ sức để biểu đạt những phong phú của đời sống thời bấy giờ. Điều đó có thể chứng minh qua các tác phẩm Nôm nổi tiếng nhƣ Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông (1258 – 1380); Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi (1284-1361)… hơn nữa hiện nay vẫn chƣa có bằng chứng xác thực nào chứng minh đƣợc Huyền Quang không phải là tác giả của bài phú này. Theo PGS.TS Nguyễn Duy Hinh đã dẫn trong cuốn Triết học Phật giáo Việt Nam thì “bài Vịnh Hoa Yên tự theo Hoàng Xuân Hãn. Tên chùa Hoa Yên đƣợc đặt ra dƣới thời Hồng Đức nhà Lê, vốn là Vân Yên Tự. Đầu đề này chứng tỏ văn 13 bản đã đƣợc biên tập lại vào thời nhà Lê, chứ không hoàn toàn nguyên tác”. [41, tr. 510]. Việc nhầm lẫn tác giả bản quyền trong văn học Trung đại phƣơng Đông nói chung và văn học Việt Nam nói riêng không phải là chuyện hiếm, khi vấn đề sở hữu văn bản, bảo lƣu văn bản văn hóa văn hiến ở giai đoạn này chƣa đƣợc ý thức và thực hiện một cách nghiêm ngặt, chặt chẽ. Điều này đã dẫn đến tình trạng thất lạc văn bản gốc cũng nhƣ tình trạng dị bản tƣơng đối phổ biến. Với thực trạng nhƣ vậy, việc một tác giả trung đại, nhất là tác giả thuộc giai đoạn Lý - Trần có đôi chỗ còn tồn tại vấn đề về văn bản gốc và bản quyền nhƣ Huyền Quang cũng là điều dễ hiểu. Trƣớc vấn đề tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang nhƣ đã trình bầy ở trên, để tránh đi vào bế tắc, không triệt để, chúng tôi một mặt tiến hành khảo sát toàn bộ những tác phẩm của ông đƣợc ghi trong bộ sách Thơ văn Lý - Trần và công trình Huyền Quang- cuộc đời thơ, và đạo do Trần Thị Băng Thanh chủ biên, mặc khác cũng tiến hành khảo sát các tác phẩm thời Lý - Trần với mục đích đặt các trƣớc tác của Huyền Quang trong sự vận động của văn học giai đoạn này nhằm cắt nghĩa và đánh giá một cách khách quan những giá trị đặc trƣng trong các sáng tác của ông. Bên cạnh đó, căn cứ vào các nguồn thƣ tịch ghi chép về Huyền Quang, chúng tôi cũng cố gắng phác hoạ hình ảnh khái quát về ông, đồng thời cũng dựa vào bối cảnh vận động chuyển giao của các hệ tƣ tƣởng thời đại để lý giải và soi sáng hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa, văn học đặc biệt này. 1.2. Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả qua các nguồn thư tịch cổ 1.2.1.Huyền Quang - Lý Đạo Tái – một trí thức nho sĩ Nếu nhƣ ở thời nhà Lý, thời đại mà Phật giáo đƣợc đặt lên vị trí quốc giáo với những trí thức chủ yếu của thời đại là các nhà sƣ, thì đến giai đoạn đầu thời nhà Trần, với sự vận động mạnh mẽ của các hệ tƣ tƣởng, đặt biệt là hệ tƣ tƣởng Nho giáo, xã hội Đại Việt đã chứng kiến sự lớn mạnh không ngừng của các tầng lớp, trí thức khác nhƣ nho sĩ và quý tộc. Với những đặc thù của giai đoạn đầu thời đại nhà Trần, đã diễn ra sự đồng tồn tại của nhiều lực lƣợng, nhiều loại nhân cách trí thức với nhiều ý thức hệ khác nhau. Trong đó, lực lƣợng nho sĩ với những ƣu thế vƣợt trội so với các lực lƣợng khác trong việc quản lý và điều hành đất nƣớc đã có cơ hội thuận lợi để phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng, vị trí 14 của họ trong triều đình, và xã hội ngày càng đƣợc củng cố và trở nên quan trọng hơn. Đến đầu thời nhà Trần chế độ khoa cử đã đƣợc mở rộng. Nhà Trần đã tiếp nối công việc xây dựng chế độ khoa cử còn đang ở dạng sơ khai của nhà Lý và dần từng bƣớc đƣa nó vào quy củ. Mặc dù chế độ khoa cử ở thời Trần vẫn chƣa phát triển tới mức độ trở thành một hệ thống quy củ, chặt chẽ nhƣng nó đã đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo cũng nhƣ lực lƣợng nho sĩ ở Việt Nam. Việc phổ biến cách thức chọn ngƣời tài cho nhà nƣớc thông qua con đƣờng thi của Nho giáo đƣơng nhiên dẫn đến việc gia tăng ảnh hƣởng của nó trong xã hội. Khoa cử vốn là một hệ thống phƣơng thức lựa chọn ngƣời tài giúp việc cho quốc gia đã khá hoàn chỉnh ở Trung Quốc. Ở nƣớc ta, ngay sau thời kỳ độc lập, với yêu cầu cần những nhân tài cho sự phát triển của đất nƣớc đã tiếp nhận và sử dụng chế độ khoa cử này. Tuy nhiên các khoa thi cho đến cuối thời Trần vẫn chƣa đƣợc tổ chức đều đặn, định kỳ nhƣ một phƣơng thức chủ yếu để lựa chọn ngƣời tài giúp việc cho quốc gia, mà vẫn chỉ mang tính tuỳ hứng ở mọi phƣơng diện: mục đích, cách thức, nội dung, thời gian… Sự phát triển của các trƣờng học kể cả nhà nƣớc và tƣ nhân, cùng với số lƣợng các kỳ thi ngày càng tăng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tầng lớp nho sĩ không ngừng lớn mạnh về số lƣợng và chất lƣợng, ngày càng có cơ hội thuận lợi đề khẳng định những ƣ thế vƣợt trội của mình. Đến thời vua Trần Anh Tông, nho sĩ đã đƣợc đứng trong hàng phẩm cao cấp của triều đình, giữ những chức vụ quan trọng, trở thành cận thần đƣợc vua tin dùng. Đến thời vua Trần Minh Tông thì nho sĩ đã thực sự đủ trƣởng thành để khẳng định tên tuổi của mình với sự xuất nhiện của hàng loạt các danh nho. Đội ngũ nho sĩ trong triều đã khá hùng hậu: “Bấy giờ quan ở trong triều nhƣ bọn Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ Thiên Hứa, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Phạm Sƣ Mạnh (…), Trƣơng Hán Siêu, Lê Cự Nhân, nối nhau làm quan, nhân tài đầy rẫy” [55 tr. 125]. Nếu nhƣ vào đầu thời Trần, vai trò của nho sĩ vẫn chỉ dừng lại ở vị trí những kẻ giúp việc cho tầng lớp quý tộc trong triều thì từ giữa giai đoạn nhà Trần trở về sau, đặc biệt là từ thời vua Trần Anh Tông trở đi, thân phận nho sĩ đã dần dần đƣợc đổi khác. Họ ngày càng đƣợc vua tin dùng và giao những trọng trách lớn hơn trong chốn triều đình. 15 Lý Đạo Tái sinh ra và lớn lên trong không khí của thời kỳ Thịnh Trần, thời đại của hào khí Đông A và cũng là thời đại của không khí phóng khoáng, khoan hoà của giai đoạn “tam giáo tịnh hành”. Ở giai đoạn này, Nho giáo cũng đã phát triển đến những mức độ nhất định để có thể sản sinh ra những đại diện ƣu tú của mình. Có thể kể tên một loạt các danh Nho thời kỳ này nhƣ Trần Thì Kiến, Trƣơng Hán Siêu, Nguyễn Thế Trƣờng, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài… Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ mà các hệ tƣ tƣởng đang có sự vận động chuẩn bị cho những bƣớc chuyển giao mạnh mẽ với xu hƣớng từ Phật giáo sang Nho giáo, Lý Đạo Tái với những yếu tố khách quan, cùng tƣ chất thiên bẩm đã xuất thân nhập thế theo phong cách nhà nho. Theo Tam tổ thực lục thì Lý Đạo Tái xuất thân từ một gia đình dòng dõi thi thƣ. Vị tổ thứ bảy là Lý Ôn Hoà từng làm chức Hành khiển dƣới triều vua Lý Thần Tông; ông nội làm Chuyển vận sứ đời Trần; cha từng tòng quân đánh giặc có công nhƣng không ra làm quan mà trở về quê vui thú điền viên. Quê hƣơng Lý Đạo Tái cũng từng là một trung tâm văn hóa lớn nhất của cả nƣớc. Nhắc đến xứ Kinh Bắc cũng là nhắc đến một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, là cái nôi của những nho sĩ tài năng, là vùng quê của “một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn”. Và vùng đất này cũng chính là quê hƣơng của Lê Văn Thịnh “trạng nguyên khai quốc của thời Đại Việt” (1075). Không chỉ đƣợc sinh ra ở vùng quê có nền văn hóa văn hiến lâu đời, ngay từ nhỏ, Lý Đạo Tái đã sớm bộ lộ khuynh hƣớng và tƣ chất của một vị nho sĩ đầy tài năng. Sách Tam tổ thực lục ghi: “Khi Tổ sinh ra, là một đứa bé trai cứng cáp. Đến tuổi đồng ấu, thể mạo Tổ dị thƣờng, có chí của bậc trác việt vĩ nhân, cha mẹ đều yêu thƣơng, dạy cho học nghề” [56, tr. 23]. Còn về tên gọi Đạo Tái, theo cách giải thích của dân gian thì “Tổ nghe một hiểu mƣời, có tài nhƣ Nhan Hồi Á Thánh, nên đƣợc gọi là Tải Đạo”. Tân đính Lĩnh Nam chích quái cũng ghi “khi em lớn, dáng mạo rất lạ. Em có chí lớn, cha mẹ rất yêu quý và xa gần đồn đại. Bởi tài năng đó, nên em mới đƣợc đổi tên là Đạo Tải” [65, tr. ]. Theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn thì “ông lên 9 tuổi đã biết làm thơ, học tập chuyên về cử nghiệp”. [ 22, tr. 393]. Theo Tam Tổ thực lục: “Năm 20 tuổi, Tổ dự khoa thi Hƣơng và đỗ đạt. Vì triều đình chọn ngƣời đều dùng những bậc đại khoa, nên Tổ phải đợi đến khoa thi lớn gọi là thị Hội năm sau. Kết quả Tổ đậu đƣợc thủ khoa” [91, tr. 23]. Tân đính 16 Lĩnh Nam chích quái thì ghi sự kiện Đạo Tái đỗ Trạng một cách cụ thể hơn: “Năm hai mƣơi tuổi, Đạo Tải đi thi Hƣơng đỗ giải Nguyên, năm sau đó thi khoa đại tỷ (tức thi Hội) đỗ đầu, đó là năm Đinh Dậu, niên hiệu Hƣng Long thứ năm, đời Trần Anh Tông” [65, tr. 238]. Việc Huyền Quang có đỗ Trạng hay không chƣa có sách sử nào minh chứng đƣợc xác thực. Nhƣng trong nhãn quan của dân gian ông là một vị học rộng tài cao, và đỗ đạt từ rất sớm - một vị quan Trạng. Bằng chứng là trong dân gian vẫn còn lƣu truyền lại câu ca cảm thán về tình cảnh éo le của ông: Khó khăn thì chẳng ai nhìn Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên Theo truyền thuyết dân gian thì Lý Đạo Tái có đỗ Trạng nguyên, từng đi sứ Trung Quốc, đồng thời đỗ Trạng nguyên ở cả hai nƣớc Việt Nam và Trung Quốc. Hiện ở Chùa Tổ vẫn ghi bốn chữ lớn sơn son thiếp vàng: “Lƣỡng quốc trạng nguyên” (Trạng nguyên hai nƣớc). Không chỉ là vị quan Trạng trong “ký ức của dân gian”, mà ngay trong mắt các trí thức sĩ phu Nho học hậu thế, Lý Đạo Tái cũng đƣợc nhìn nhận, đánh giá trƣớc hết ở tƣ cách một nho sĩ hay chữ và đỗ đạt cao. Rõ ràng từ thời Huyền Quang trở đi, hình ảnh nhân vật trí thức đƣợc đề cao trong xã hội không còn là những nhà sƣ nữa. Hình ảnh những nho sĩ với sự nghiệp học hành thi cử và đỗ đạt cao (Trạng nguyên) đã trở thành hình ảnh trung tâm của thời đại, và cũng là hình ảnh tƣợng trƣng cho tầng lớp trí thức cao nhất của thời đại. Cũng rất có thể việc đỗ Trạng của Lý Đạo Tái (điểm gây ra tranh cãi, nghi hoặc cho giới nghiên cứu khoa học) lại chỉ là cách gọi “tôn lên” của dân gian và trí thức Nho sĩ đối với những nhân vật lớn từng kinh qua của Khổng sân Trình nhƣ trƣờng hợp gọi Phùng Khắc Khoan là Trạng Bùng (trong khi ông này chỉ đỗ thứ hai Hoàng giáp). Các thƣ tịch cổ chép về việc Huyền Quang đỗ Trạng có thể kể đến nhƣ: Tam tổ thực lục; Đinh kế lịch triều đăng khoa lục; Tam tổ hành trạng… và hiện văn bia ở đền Trạng nguyên thuộc thôn Phúc Lộc, Vạn Tƣ, Gia Bình (Thái Bảo, Bắc Ninh) do ông Nguyễn Phẩm Phó bảng soạn, dựng năm Tự Đức 18 (1865) còn ghi “Năm ông đỗ Trạng mới 21 tuổi”. Nếu theo đúng nhƣ Tổ gia thực lục ghi chép thì Lý Đạo Tái là một trí thức nho sĩ có trình độ văn hóa, vị trí và uy tín rất cao. Tổ gia thực lục cho biết, sau 17 khi ông thi đỗ “đƣợc bổ vào chức quan Hàn lâm, Tổ phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc, văn thƣ qua lại, trích dẫn kinh nghĩa, ứng đối lƣu loát. Văn chƣơng ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các nƣớc lân bang” [56, tr. 80]. Theo Đỉnh kế lịch triều đăng khoa lục thì sau khi thi đỗ, Lý Đạo Tái đƣợc cử làm quan ở Viện nội hàn. Còn văn bia ở đền Trạng nguyên (Bắc Ninh) lại ghi sau khi ông đỗ Trạng, có “nhận chức Thị Nội văn hàn, từng đi sứ sang Trung Quốc”. Bức Đại tự ở Chùa Tổ cũng xác nhận ông có đi sứ Trung Quốc, đồng thời còn đỗ Trạng nguyên của cả hai nƣớc. Qua các nguồn thƣ tịch và trong nhãn quan của dân gian, Lý Đạo Tái Huyền Quang không chỉ là một vị quan Trạng - nấc thang cao nhất về sự đỗ đạt của trí thức nho sĩ trong con đƣờng khoa cử, mà ở ông còn có những dấu ấn đậm nét của lối hành xử theo kiểu nhà nho. Tam tổ thực lục có ghi lại: “Buổi chiều, Sƣ trở về Tăng phòng Thiền định, bỗng thấy một đôi chim khách trắng từ đâu bay đến, đậu trên cây trƣớc sân, vừa lƣợn qua lƣợn lại vừa kêu, dƣờng nhƣ có điềm vui. Sƣ liền ngâm một bài Tây giang nguyệt: “Chim thước muốn báo điềm chi, Bay đến kêu vang đầu ngõ? Con hiếu ngày xưa có Tăng Sâm Loài chim ba chân mi trội nhất” Và nói riêng với học trò: “ (…). Cha mẹ, ông bà là Phật, ân nặng nhớ mãi trong lòng”. Sƣ liền sắm sửa hành trang, dâng biểu xin phép về làng thăm viếng” [56, tr. 82]. Có thể thấy ở đây, bên cạnh tấm lòng từ bi của đạo Phật, còn có cả tấm lòng hiếu thảo theo đạo lý của Nho gia. Khi nghe Thị Bích giải bầy hoàn cảnh éo le của mình và mong đƣợc giúp đỡ, Huyền Quang “ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Ngày xƣa, Hán Văn Đế cảm thƣơng lời tâu của nàng Đề Oanh mà bỏ nhục hình. Đƣờng Thái Tông trông bản đồ Minh đƣờng mà dẹp cấm đài. Hai vua ấy đều theo đức hiếu sinh của thƣợng đế nên con cháu hƣởng lộc lâu dài đến ba, bốn trăm năm. Không có ân đức mà đƣợc nhƣ thế sao? Ta phải vì ngƣơi mà về triều tâu rõ việc ấy, ngõ hầu quảng bá đức hiếu sinh của Hoàng đế mà cũng là phƣơng tiện cứu khổ tốt đẹp vậy”. Ta cũng bắt gặp ở đây hình ảnh của một trung thần hết lời ca tụng công đức “vua sáng tôi hiền”, bày tỏ chí hƣớng của kẻ sĩ “chí quân trạch dân” 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan