Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nghiên cứu yếu tố kỳ ảo qua cách sử dụng từ điệp âm trong truyền kỳ mạn...

Tài liệu Luận văn nghiên cứu yếu tố kỳ ảo qua cách sử dụng từ điệp âm trong truyền kỳ mạn lục của nguyễn dữ

.PDF
67
100
74

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TẠ THỊ HUỆ NGHIÊN CỨU YẾU TỐ KỲ ẢO QUA CÁCH SỬ DỤNG TỪ ĐIỆP ÂM TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ THANH VÂN HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, em đã nhận được sự giúp đỡ từ những tấm lòng mà em trân trọng tri ân: em xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thanh Vân, giảng viên trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, người hướng dẫn khóa luận. Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện và động viên em trong thời gian vừa qua. Hà Nội, ngày 5 tháng 4 năm 2017 Sinh viên thực hiện Tạ Thị Huệ LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thanh Vân. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Hà Nội, ngày 5 tháng 4 năm 2017 Sinh viên thực hiện Tạ Thị Huệ MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 6 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7 6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 8 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 9 1.1.Xã hội Việt Nam thế kỷ XVI, tác giả và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục 9 1.1.1. Xã hội Việt Nam thế kỷ XVI .................................................................... 9 1.1.2.Tác giả và tác phẩm ............................................................................... 12 1.2. Giới thuyết về yếu tố “kỳ ảo” và từ điệp âm ....................................... 15 1.2.1. Khái niệm “kì ảo” và yếu tố “kì ảo” trong văn học Việt Nam qua các thời kì văn học ................................................................................................. 15 1.2.2.Khái niệm và tác dụng từ điệp âm ......................................................... 23 CHƢƠNG 2. BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO QUA CÁCH SỬ DỤNG TỪ ĐIỆP ÂM TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ .... 27 2.1. Công năng ngữ dụng của từ điệp âm trong việc miêu tả yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục ............................................................................... 27 2.1.1 Dùng hình tượng sinh động để miêu tả con người................................. 27 2.1.2.Dùng hình tượng sinh động để miêu tả cảnh vật ................................... 32 2.2. Biểu hiện kỳ ảo của nhân vật trong thế giới siêu thực........................ 34 2.2.1. Nhân vật thần tiên trong thế giới tiên cảnh .......................................... 35 2.2.2. Nhân vật ma quái trong thế giới âm phủ. ............................................. 43 2.3. Không gian, thời gian nghệ thuật ......................................................... 49 2.3.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 49 2.3.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 52 2.4. Ngôn ngữ ................................................................................................. 54 2.4.1. Ngôn ngữ trần thuật .............................................................................. 54 2.4.2. Ngôn ngữ miêu tả .................................................................................. 55 KẾT LUẬN .................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 60 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong chặng đường hình thành và phát triển, văn học trung đại đã đóng góp cho nền văn học nước nhà khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại gắn với nhiều tên tuổi lớn. Mặc dù yếu tố thời đại đã thay đổi nhưng ngày nay, sau hàng trăm năm nhưng nhiều tác phẩm vẫn cho thấy sức ảnh hưởng của mình. Điều làm nên sự bất diệt cho các tác phẩm đó không chỉ bởi nội dung mang tính nhân văn, nhân đạo cao hay hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật mà bởi vì các tác giả đã chắp thêm đôi cánh kì lạ, ảo diệu cho những đứa con tinh thần của mình. Và đó chính là yếu tố “kì ảo” - yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và tạo cho tác phẩm vẻ hấp dẫn, sức mê hoặc diệu kì. Không riêng gì văn học Việt Nam, văn học của các nước trên thế giới từ cổ đại, trung đại, cận đại cũng sử dụng yếu tố kì ảo như một thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Yếu tố kì ảo xuất hiện trong rất nhiều các tác phẩm văn chương trung đại đặc biệt là văn học từ thế kỉ XV trở đi. Các nhà văn trung đại sử dụng yếu tố kì ảo thể hiện cho quan điểm về thế sự, nhân sinh, con người của mình, đồng thời giúp nhà văn trong việc biểu hiện và khám phá hiện thực. Với sự có mặt của yếu tố kì ảo, người đọc sẽ có những cảm hứng mới lạ hơn, thỏa sức tưởng tượng về một thế giới hư thực đan xen. Người đọc vừa có thể hiểu được cuộc sống thực tại lại có thể mơ về một thế giới màu hồng lí tưởng. Yếu tố kì ảo xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học với phương thức khác nhau. Việc sử dụng các từ điệp âm tạo nên yếu tố kì ảo là một phương thức trong đó. Từ điệp âm với đặc trưng riêng của mình nhằm làm nổi bật ý, tạo âm hưởng, nhịp điệu và tăng giá trị biểu cảm cho câu văn, câu thơ. Từ điệp âm là một trong số những phương thức giúp cho yếu tố kì ảo hiện diện với nhiều màu sắc nhất. 1 Trong văn học nói chung và văn học trung đại nói riêng, yếu tố kì ảo được sử dụng trong nhiều thể loại như truyện nôm, truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi…trong các thể loại trên thể loại sử dụng nhiều và thành công yếu tố kì ảo nhất chính là truyện truyền kì với các tác phẩm có giá trị: Việt điện u linh tập, Lĩnh nam chích quái lục, Thánh tông di thảo, Truyền kì tân phả, Truyền kì mạn lục…Trong đó, Truyền kì mạn lục được biết đến nhiều nhất, đặc biệt qua hai văn bản: Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được trích dẫn và trở thành các tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ Văn phổ thông. Điều đó cũng phần nào cho thấy tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của tác phẩm trong xã hội hiện nay. Và một trong số những yếu tố làm nên sự thành công và trường tồn của tác phẩm chính là việc sử dụng phép điệp âm tạo nên yếu tố kì ảo đa màu sắc của Nguyễn Dữ. Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong Truyền kì mạn lục. Tuy nhiên các công trình khoa học này thường nghiên cứu yếu tố kì ảo của tác phẩm này trong việc đối sánh với một tác phẩm khác, hoặc tìm hiểu yếu tố kì ảo trong một văn bản được trích từ tác phẩm, hoặc tìm hiểu yếu tố kì ảo thông qua nội dung mà ít chú ý đến hình thức của tác phẩm. Khi tìm hiểu yếu tố kì ảo người nghiên cứu thường làm việc với các bản dịch mà bỏ qua nguyên tác chữ Hán của tác phẩm. Trong khi đó, bản nguyên tác mới chính là cái gốc là nơi thể hiện nhiều tinh hoa nhất của tác phẩm, khi những bản dịch ít nhiều đã làm mất đi những dụng ý ban đầu của tác giả. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu yếu tố kì ảo qua cách sử dụng từ điệp âm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” để giúp bạn đọc có thể có cái nhìn toàn diện hơn về ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong tác phẩm ở mọi khía cạnh: từ nội dung đến hình thức và đặc biệt là việc sử dụng từ điệp âm xây dựng yếu tố kì ảo trên nền nguyên tác chữ Hán của tác phẩm. 2 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Xung quanh đề tài “Nghiên cứu yếu tố kì ảo qua cách sử dụng từ điệp âm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” trong phạm vi tư liệu sưu tầm đã có các công trình nghiên cứu: Về yếu tố kì ảo, vấn đề này đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước từ những thập niên đầu của thế kỉ XIX. Công trình nghiên cứu về yếu tố kì ảo được biết đến đầu tiên và nhiều nhất có lẽ là công trình nghiên cứu của Todorov từ những năm 1970. Nghiên cứu của ông được ghi lại trong công trình Dẫn luận về văn chương kì ảo theo ông cái kì ảo là “sự kiện không thể giải thích được bằng những quy luật của chính cái thế giới quen thuộc này…cái kì ảo đó là sự lưỡng lự cảm nhận bởi một con người chỉ biết có những quy luật tự nhiên, đối diện với một hiện tượng bên ngoài mang tính siêu nhiên” [29;34]. Như vậy dường như theo Todorov ông đang hạn định giới hạn của kì ảo. Theo ông kì ảo chính là những quy luật tự nhiên không thể giải thích, vậy khi những quy luật ấy được giải thích phải chăng yếu tố kì ảo sẽ mất đi? Rõ ràng nội hàm của khái niệm kì ảo không hề nằm trong giới hạn nhỏ bé như vậy! Tiếp bước Todorov nhiều nhà văn nước ngoài khác cũng đưa ra quan điểm của mình về khái niệm kì ảo dưới nhiều cái tên khác nhau như: văn học huyễn ảo, chủ nghĩa huyền ảo…tất cả các bài viết đã phần nào cung cấp khái quát về nguyên tắc, khái niệm, đặc điểm của cái kì ảo trong văn chương. Ở Việt Nam, yếu tố kì ảo chỉ được bàn luận vào sau những năm 1975 và thực sự sôi nổi vào những năm đầu thế kỉ XXI. Có thể kể đến bài viết “Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học” của Lê Nguyên Long. Bài viết đã bước đầu thể hiện sự quan tâm đến văn học kì ảo và khái niệm cái kì ảo. Bằng cách tổng hợp và đưa ra nhiều quan điểm về thuật ngữ kì ảo của các nhà nghiên cứu đi trước, 3 ông đưa ra quan điểm của mình về khái niệm kì ảo: “Cái kì ảo là cái không thể cắt nghĩa được bằng lí tính từ điểm nhìn của chúng ta với tầm nhận thức hiện tại” [20;30]. Bên cạnh đó còn có công trình “Cái kì ảo và văn học huyễn ảo” của Lê Huy Bắc, tác giả đã đề xuất dùng khái niệm “văn học huyễn ảo” với mục đích nhằm “bao quát cả một lịch sử sáng tạo văn chương nơi xuất hiện sự đan cài của hai yếu tố thực và ảo mà hàm lượng bao giờ cũng nghiêng qua phần ảo”[2]. Thuật ngữ huyễn ảo của ông bao quát các dạng thức văn học thần ma, kinh dị, kì ảo…sau đó, cũng trong công trình này, ông trình bày các giai đoạn của văn học huyễn ảo. Khái niệm mà Lê Huy Bắc đưa ra rõ ràng, mạch lạc, bao quát được các khái niệm của các nhà nghiên cứu đi trước. Dù khái niệm ông đưa ra là huyễn ảo, song nội hàm và ngoại diên của khái niệm này lại trùng với khái niệm kì ảo. Vì vậy, chúng ta có thể coi khái niệm về huyễn ảo của ông chính là khái niệm kì ảo. Ngoài ra còn có nhiều công trình Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại của Vũ Thanh, Tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học cổ trung đại và cận đại Đông Tây của Nguyễn Huệ Chi…Các bài viết đã giới thiệu cho bạn đọc cách hiểu khái niệm “kì ảo” có những bài viết như: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại thế kỉ XV đến thế kỉ XIX của Lê Thùy Dung, Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam của Vũ Thanh, Yếu tố kì ảo trong Thánh Tông di thảo của Lê Nhật Ký, … Các bài viết trên đã đưa ra những nhận định, phân tích, lý giải yếu tố kì ở những góc nhìn khác nhau. Về nghiên cứu yếu tố kì ảo trong một tác phẩm tiêu biểu thì có khá nhiều công trình nghiên cứu, một số bài viết đáng quan tâm như: Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục của Trần Ích Nguyên, ở công trình này người nghiên cứu không đi tìm hiểu tác phẩm riêng lẻ, mà 4 nghiên cứu những nét tương đồng, khác biệt của Truyền kì mạn lục với một tác phẩm nước ngoài. Từ đó khẳng định tinh thần dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Dữ và sự sáng tạo sủa ông. Đã có một số khóa luận tốt nghiệp của các anh (chị) sinh viên khoa Ngữ Văn (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2) khóa trước tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm Truyền kì mạn lục ở nhiều phương diện khác nhau. Trong đó có một vài công trình nghiên cứu ít nhiều có đề cập đến yếu tố kì ảo trong tác phẩm Truyền kì mạn lục dưới dạng so sánh với một tác phẩm nào đó. Hoặc không nghiên cứu tác phẩm Truyền kì mạn lục thì cũng tìm hiểu yếu tố kì ảo trong một tác phẩm cũng thuộc thể loại truyện truyền kì. Có thể kể đến một số khóa luận: Chức năng nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong Thánh tông di thảo của Nguyễn Thị Thanh Tâm, So sánh nhân vật thần tiên phật trong Truyền kì mạn lục và Thánh tông di thảo của Nguyễn Thị Thúy, So sánh nhân vật kì ảo trong Truyền kì mạn lục và truyện cổ tích Việt Nam của Đặng Thị Thoan … các bài viết đã đưa ra những nhận định, phân tích, lý giải yếu tố kì ảo ở những góc nhìn khác nhau tùy vào các tác phẩm mà người nghiên cứu chọn. Các bài nghiên cứu thường tìm hiểu yếu tố kì ảo qua một số các yếu tố: nhân vật, cốt truyện, môtip, thời gian, không gian…Tuy nhiên, các bài viết cũng dừng lại ở việc so sánh đối xứng giữa các tác phẩm hoặc nghiên cứu yếu tố kì ảo thông qua một mặt nào đó của tác phẩm, người nghiên cứu thường chú ý vào tìm hiểu nhân vật kì ảo, hoặc nghệ thuật xây dựng nhân vật mà không tìm hiểu yếu tố kì ảo một cách toàn diện trên phạm vi toàn tác phẩm. Về cách sử dụng từ điệp âm và giá trị nghệ thuật của việc sử dụng từ điệp âm trong Truyền kì mạn lục chưa từng được nhắc đến. Cũng vì thế việc nghiên cứu từ điệp âm trong mối quan hệ với yếu tố kì ảo chưa có công trình nào nghiên cứu. Vì vậy, ở nội dung bài nghiên cứu của chúng tôi xin đi sâu, 5 tìm hiểu yếu tố kì ảo trong riêng tác phẩm Truyền kì mạn lục qua cách sử dụng từ điệp âm. Thay vì chỉ làm việc với bản dịch, bài nghiên cứu của tôi kết hợp với việc so sánh đối chiếu tác phẩm đã dịch với bản phiên âm chữ Hán của tác phẩm. Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực chủ quan, tôi chưa thể tiếp cận và thống kê thật đầy đủ các bài viết, công trình nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong văn học đã được công bố. Trong phạm vi của một khóa luận tôi rất trân trọng những ý kiến, quan điểm, đánh giá, nhận xét của các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quý báu đó đã giúp tôi có những định hướng đúng đắn, vững chắc về mặt phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn thành mục tiêu đề ra của khóa luận. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Khảo sát, phân tích lý giải những biểu hiện của yếu tố kì ảo thông qua cách sử dụng từ điệp âm trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và tìm ra những giá trị thẩm mĩ đặc sắc mà những yếu tố kì ảo đó mang lại. Nhiệm vụ nghiên cứu: làm sáng tỏ giá trị, ý nghĩa của yếu tố kì ảo qua việc sử dụng từ điệp âm một cách toàn diện nhất, ở tất cả các khía cạnh từ nội dung đến hình thức và đặc biệt chú ý đến ngôn ngữ mà tác giả sử dụng: chữ Hán. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: yếu tố kì ảo qua cách sử dụng từ điệp âm và ý nghĩa của việc sử dụng yếu tố kì ảo. Phạm vi nghiên cứu: gồm 20 tác phẩm truyện trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là: 1. Câu chuyện ở đền Hạng Vương (Hạng Vương từ kí) 6 2. Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (Khoái Châu nghĩa phụ truyện) 3. Chuyện cây gạo (Mộc miên thụ truyện) 4. Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Trà đồng giáng đản lục) 5. Chuyện kì ngộ ở trại Tây (Tây viên kì ngộ ký) 6. Chuyện đối tụng ở Long cung (Long đình đối tụng lục) 7. Chuyện nghiệp oan của Đào thị (Đào thị nghiệp oan ký) 8. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục) 9. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Từ Thức tiên hôn lục) 10. Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào (Phạm Tử Hư du thiên tào lục) 11.Chuyện yêu quái ở Xương Giang (Xương Giang yêu quái lục) 12.Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na (Na sơn tiều đối lục) 13.Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Đông Triều phế tự lục) 14.Chuyện nàng Thúy Tiêu (Thúy Tiêu truyện) 15.Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang (Đà Giang dạ ẩm ký) 16.Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử lục) 17.Chuyện Lý tướng quân (Lý tướng quân truyện) 18.Chuyện Lệ Nương (Lệ Nương truyện) 19.Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Kim Hoa thi thoại ký) 20.Chuyện tướng Dạ Xoa (Dạ Xoa bộ soái lục) 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu phù hợp với đối tượng nghiên cứu của mình, tôi sử dụng một số phương pháp: - Phương pháp nghiên cứu thi pháp học (vận dụng lí thuyết thi pháp về không gian và thời gian nghệ thuật và thi pháp nhân vật để làm sáng tỏ yếu tố kì ảo trong tác phẩm Truyền kì mạn lục). - Phương pháp hệ thống, thống kê, khảo sát (nhằm nhận biết những biểu hiện kì ảo trong một số tác phẩm văn xuôi trung đại làm cơ sở để hệ thống 7 hóa thành những luận điểm khoa học của vấn đề). - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh (làm rõ những đặc điểm và giá trị thẩm mĩ của các yếu tố kì ảo trong tác phẩm Truyền kì mạn lục). - Phương pháp lịch sử - xã hội (lí giải các yếu tố kì ảo trong văn học một thời đại)… 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được tổ chức thành 2 chương: Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Biểu hiện của yếu tố “kì ảo” qua cách sử dụng từ điệp âm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ 8 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1.Xã hội Việt Nam thế kỷ XVI, tác giả và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục 1.1.1. Xã hội Việt Nam thế kỷ XVI Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Các truyện hầu hết ở thời Lí, Trần, Hồ, Lê Sơ, và đều có yếu tố hoang đường, nhưng đằng sau những yếu tố hoang đường đó chính là hiện thực xã hội phong kiến đương thời với đầy rẫy những tệ trạng mà tác giả muốn vạch trần và phê phán. Nguyễn Dữ sống ở trong khoảng cuối thế kỷ XV, nửa đầu thế kỷ XVI. Tính từ khi Lê Thánh Tông mất (năm 1497) đến khi nhà Mạc thay nhà Lê (năm 1527) thì xã hội Việt Nam đã trải qua 30 năm, triều đại phong kiến nhanh chóng bước vào thời kỳ suy thoái. Kể từ khi Lê Uy Mục (1505) lên ngôi, quan hệ sản xuất phong kiến với quyền sở hữu ruộng đất tối cao của nhà vua và quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ đã dần dần bộc lộ nhiều tính chất tiêu cực, lạc hậu của nó trước yêu cầu phát triển mới của nền sản xuất xã hội. Giai cấp phong kiến sau khi đã ổn định địa vị thống trị của mình thì xa hoa hưởng lạc, tìm mọi cách bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Quý tộc, quan lại và dòng dõi nhà Lê mỗi khi nhận chức ở các địa phương, thường dựa vào quyền lực cướp ruộng đất của thôn xã để lập trang trại. Ngay cả triều đình cũng không thể chịu nổi trước sự bạo hành của của đẳng cấp mình, bèn ban hành Trị bình bảo phạm (1511) trong đó có nhiều điều khoản cấm quan lại không được cướp đoạt ruộng đất và cướp thóc lúa hoa màu của nhân dân. Thời kỳ nhà Lê, kể từ khi Lê Thánh Tông mất (1497) trải qua sự trị vì của 6 vị vua. Lê Hiển Tông lên ngôi từ 1498 đến 1504, thọ 44 tuổi; Lê Túc Tông lên ngôi chỉ gần 1 năm (1504) thọ 17 tuổi. Lê Uy Mục làm vua 5 năm (1505 - 1509) thọ 22 tuổi; Lê Tương Dực làm vua 7 năm (1510 1516), thọ 24 tuổi; Lê Chiêu Tông làm vua 7 năm (1516 - 1522) thọ 26 tuổi; 9 vua Lê Cung Hoàng làm vua 6 năm (1522 - 1527) thọ 21 tuổi. Đây là thời kỳ mà dân gian thường gọi là “Vua quỷ” và “Vua lợn”. Thái độ thiếu tôn trọng người đứng đầu xã tắc đó bắt nguồn từ một thực tế nhà vua hoang dâm vô độ, nguyên nhân đó dẫn đến kết quả là đoản thọ, trừ Lê Hiến Tông, còn trong 23 năm có 5 đời vua đều chết trẻ. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm là thời điểm loạn lạc, không còn sự bình yên hưng thịnh nữa mà chế độ phong kiến đã có những khủng hoảng dẫn đến nội chiến và đất nước bị chia cắt. Khi chiến tranh nổ ra, các thế lực tranh giành ngôi vị, bao khốn khổ đổ hết lên đầu những người dân vô tội: nạn phu phen, thuế má, bắt lính khiến vợ phải xa chồng, con lìa cha mẹ…Qua đó Nguyễn Dữ đã xây dựng nên những nhân vật thuộc tầng lớp đáy của xã hội, cho người đọc thấy sự khổ đau, cùng cực của họ. Trong xã hội rối ren ấy, mọi giá trị bị đảo lộn, đạo đức bị băng hoại, vua không ra vua, quan không ra quan: “… đem hết sức dân xây dựng cung điện, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền là mua được, kẻ dâng lời ngay thì phải chết, kẻ nói điều dở thì được thưởng”Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na. Vua đã vậy, bọn quan tham càng được nước lấn tới, trên không nghiêm dưới tất loạn. Bọn tham quan dựa vào lũ trộm cướp như lòng ruột, thích sắc đẹp, ham tiền tài, khinh người trọng của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, quan nhỏ thì làm việc dối vua, quan lớn thì làm điều bán nước. Một xã hội mà những kẻ bề trên không quan tâm đến đời sống nhân dân, chỉ chăm lo lợi ích bản thân, dẫn đến kết cục đời sống nhân dân điêu đứng, khốn cùng: “bốn phương kém miếng, chiếc bóng nhờ người, con khóc lóc đói lòng, vợ than thân rét cật, về thì thiếu túp lều chắn gió, đi thì không chiếc nón che mưa”, “đói không thứ gì cấp dưỡng, lui không có chỗ nào tựa nương.”… trong hoàn cảnh đầy rẫy những bất công và tai ương ấy, đã có những người 10 dám đứng lên chống trả. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra: Khởi nghĩa Trần Tuân (đầu năm 1511) ở Hưng Hóa và Sơn Tây, nghĩa quân có đến hàng vạn người tiến về Từ Liêm uy hiếp kinh thành Thăng Long. Khởi nghĩa Lê Hy, Trịnh Hưng (năm 1512) ở Nghệ An và phát triển ra Thanh Hóa. Khởi nghĩa ở Phùng Chương (năm 1515) diễn ra ở Tam Đảo. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo (năm 1516) ở Đông Triều (Quảng Ninh) nghĩa quân cạo trọc đầu chỉ để 3 chỏm tóc, gọi là quân “ba chỏm” nghĩa quân ba lần tấn công thành Thăng Long, có lần chiếm được kinh thành, vua quan nhà Lê phải chạy vào Thanh Hóa. Tuy nhiên, tất cả các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Trong tình trạng đạo đức suy đồi, nhân tình thế thái đảo điên đang trở thành một hiện thực phổ biến nhức nhối khiến con người không thể tìm được hạnh phúc và bến đỗ hạnh phúc họ có thể tìm được có lẽ là trong mái ấm gia đình. Thế nhưng, ngay cả trong gia đình con người vẫn đau đớn, tủi cực. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, trong xã hội thối nát ấy, gia đình không thể ấm êm được. Tư tưởng nam quyền, thần quyền ngự trị trong mỗi thành viên gia đình, người chồng người cha là người có quyền sinh sát trong tay, người bất hạnh nhất là những người phụ nữ chân yếu tay mềm, luôn phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Nguyễn Dữ đã phác họa lên những người phụ nữ đẹp từ khuôn dung đến đức hạnh. Nhưng tất cả họ đều phải chịu sự bất công, không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, có khi phải quyên sinh. Đó là nàng Nhị Khanh, nàng Vũ Nương…hàng năm trời chăm sóc gia đình, chung thủy chờ chồng. Nhưng khi chồng trở về, bi kịch cuộc đời mới thật sự xảy ra với hai nàng. Nhị Khanh đợi Trọng Quỳ trở về, nhưng chồng nàng lại là kẻ quen tính chơi bời, ham mê cờ bạc, dùng nàng làm vật đánh cược khiến nàng phải tự vẫn. Vũ Nương cũng vì sự ghen tuông mù quáng của chồng mà phải tuẫn tiết chứng minh cho sự trinh bạch của mình. Trong xã hội ấy, đâu chỉ có Vũ Nương hay Nhị Khanh mà còn biết bao người phụ nữ giống như họ, đều 11 không hạnh phúc trong mái ấm gia đình. Sống giữa bối cảnh lịch sử xã hội như vậy, là một trí thức có tâm huyết, Nguvễn Dữ đã không thể không lên tiếng. Truyền kì mạn lục chính là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của ông đối với hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Ông mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, mượn chuyện thần linh ma quái để nói chuyện người, mượn chuyện cõi âm để nói chuyện cõi dương, cõi trần từ đó thể hiện tất cả những suy nghĩ, thái độ, quan điểm của mình về con người, về xã hội. Tác phẩm còn thể hiện ý thức xây dựng, bảo vệ tình cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Ông tập trung ca ngợi sự gắn bó chung thủy trong tình cảm vợ chồng, đặc biệt ông dành nhiều cảm hứng để đồng cảm với những bất hạnh và đề cao phẩm chất tốt đẹp ở những người phụ nữ. Bao trùm lên tất cả những vấn đề là mơ ước về một xã hội công bằng, lí tưởng, là khát vọng về hạnh phúc cho con người của nhà văn nói riêng và nhân dân lao động nói chung. 1.1.2.Tác giả và tác phẩm 1.1.2.1. Tác giả Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, chưa rõ năm sinh năm mất, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông xuất thân trong gia đình khoa bảng (cha đỗ Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông ), từng đi thi và đã ra làm quan, nhưng không bao lâu thì lui về ẩn dật và sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Các ghi chép về Nguyễn Dữ còn lại không nhiều, bài tựa Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm 1547 có thể là tài liệu ghi chép sớm nhất. “Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm chỉ lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền. Mới được một năm ông đã từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý”. Tuy nhiên, 12 Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục cho rằng: “Vì Ngụy Mạc cướp ngôi vua, Nguyễn Dữ thề không ra làm quan, ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ để chân đến đất thị thành”. Như vậy, có thể thấy rằng, Nguyễn Dữ về ở ẩn không chỉ vì lí do chăm mẹ già mà còn vì bất mãn với kẻ cầm quyền. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Trải qua mấy năm không đặt chân đến nơi đô hội, Nguyễn Dữ miệt mài ghi chép để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm Truyền kì mạn lục, qua tác phẩm có thể thấy được quan điểm sống và tấm lòng của tác giả với cuộc đời. Mượn các hình tượng nhân vật thần tiên, ma quái, loài vật, cây cỏ..., Nguyễn Dữ muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông, họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở 13 thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Nguyễn Dữ với tài năng của mình đã xây dựng nên bức tranh muôn màu sắc về con người và cuộc sống của họ trong xã hội đương thời. 1.1.2.2. Tác phẩm Truyền kì mạn lục là tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Truyền kì mạn lục được coi là áng thiên cổ tùy bút, tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ, được chia làm 4 quyển, viết theo thể loại truyền kỳ. Các truyện được viết bằng văn xuôi có xen văn biền ngẫu và thơ ca. Gần như ở cuối mỗi truyện tác giả đều có lời bình về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm. Tác phẩm thật sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, chau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần. Nguyễn Dữ dựa vào các tích cũ, phần nhiều là các truyện được lưu truyền từ lâu trong xã hội, và được viết nên thành những truyện mới. Các truyện hầu hết lấy bối cảnh là thời Lí, Trần, Hồ, Lê Sơ, và đều có yếu tố hoang đường, kì ảo đó chính là hiện thực xã hội phong kiến với đầy rẫy những tệ trạng mà tác giả muốn vạch trần, phê phán. Truyền kì mạn lục tuy có vẻ là truyện kì lạ xảy ra hàng trăm năm về trước nhưng thực chất lại phản ánh được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời. Qua tác phẩm, người đọc thấy được số phận bi thảm của những con người nhỏ bé trong xã hội, những bi kịch tình yêu mà thiệt thòi thường rơi vào người phụ nữ. Tác phẩm thể hiện tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tự hào về nhân tài, văn hóa nước Việt, đề cao đạo đức nhân hậu, thủy chung. Truyền kì mạn lục vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo cao, vừa là tuyệt tác của thể loại Truyền kì, từng được Vũ Khâm Lân (thế kỉ XVII) khen tặng là “thiên cổ tùy bút”. Truyền kì mạn lục ngay từ khi mới được hoàn thành đã được đón 14 nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời tựa, sau này nhiều học giả tên tuổi Phan Huy Chú, Bùi Huy Ích đều ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm của ông. Nguyễn Dữ chịu nhiều ảnh hưởng của Cù Hựu, nên đôi khi ta bắt gặp sự đồng điệu trong một số chi tiết ở tác phẩm Truyền kì mạn lục của ông và tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu. Song không thể phủ nhận tài năng và công lao của Nguyễn Dữ trong việc sáng tạo nên tuyệt tác này. 1.2. Giới thuyết về yếu tố “kỳ ảo” và từ điệp âm 1.2.1. Khái niệm “kì ảo” và yếu tố “kì ảo” trong văn học Việt Nam qua các thời kì văn học 1.2.1.1. Khái niệm “kì ảo” Về cách hiểu khái niệm kì ảo, có rất nhiều cách hiểu được đưa ra. Trong khóa luận này chúng tôi sưu tầm một số cách hiểu về kì ảo hay yếu tố kì ảo trong văn học. Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “kì ảo” là tính từ, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Phantastitos” chỉ những gì được tạo nên bởi trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế. Trong Hán ngữ đại tự điển, “kì” là “khác thường”, còn “ảo” là “không thực”. Nó thiên về tính chất li kì, hiếm thấy. Trong tiếng Việt, “kì ảo” là từ Hán Việt, “kì” là “lạ lùng”, “ảo” là không có thật. Cái kì ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trong thực tế. Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ cái kì ảo là một học giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác kì ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng ta những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan