Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn phong cách nghệ thuật thơ hoàng trung thông...

Tài liệu Luận văn phong cách nghệ thuật thơ hoàng trung thông

.PDF
110
61
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- PHẠM THỊ YẾN Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Hà Nội - 2005 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- PHẠM THỊ MAI HƢƠNG Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông Chuyên ngành: VĂN HỌC Mã số: 5.04.33 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS: LÊ VĂN LÂN Hà Nội - 2005 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................... 2 CHƢƠNG 1: ......................................................................................... 10 NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG .............................................................................................................. 10 1.1. Đời sống lao động nông nghiệp: ...................................................... 10 1.2 Đời sống chiến đấu: ...................................................................... 22 1.3 Đời sống tình cảm: ........................................................................ 35 CHƢƠNG 2 ........................................................................................... 51 NHỮNG XU HƢỚNG CHÍNH TRONG THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG 51 2.1.1. Xu hƣớng khái quát trong thơ Hoàng Trung Thông trƣớc hết đƣợc thể hiện ở ngay trong một đề tài ở mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng đều đƣợc nhận thức lại và nâng cao hơn. ......................................................... 53 2.1.2. Tuỳ theo đối tƣợng thẩm mỹ, khả năng khám phá mức độ suy nghĩ, tính khái quát đƣợc thể hiện ở nhiều khía cạnh: ở câu chữ, ở đoạn thơ, ở hình ảnh hoặc hình tƣợng thơ, ở kết cấu chủ đề toàn bài. ......................................... 60 2.2 XU HƢỚNG CHÍNH LUẬN ............................................................. 64 2.2.1. Cảm hứng lấy tƣ duy làm điểm tựa.................................................. 65 2.2.2 Triết luận trong thơ Hoàng Trung Thông ..................................... 68 CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 78 MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG ..... 78 3.1. Giọng điệu ....................................................................................... 78 3.1.1. Khái quát về giọng điệu . ................................................................ 78 3.1.2. Đặc sắc trong giọng điệu thơ Hoàng Trung Thông. ......................... 79 3.2. Thể thơ ............................................................................................ 82 3.2.1. Sự thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ. ..................................... 84 3.3. Hình ảnh, mô típ. .............................................................................. 91 3.3.1. Hình ảnh ....................................................................................... 91 3.3.2. Mô típ: Kẻ thù tàn ác, dã man, hèn hạ và tƣ thế hiên ngang của ngƣời dân yêu nƣớc. ....................................................................................... 101 C. PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................... 105 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Hoàng Trung Thông sinh ra trong một gia đình tiểu thƣơng ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lƣu, Nghệ An. Quê hƣơng ông vốn có truyền thống hiếu học và cách mạng, nổi danh với nhiều nhà khoa bảng yêu nƣớc. Tiếp thu truyền thống của quê hƣơng,Hoàng Trung Thông rất chịu khó học và ông cũng tham gia cách mạng từ rất sớm, khi ông còn là học sinh trƣờng tỉnh. Năm 1945, ông tham gia giành chính quyền ở địa phƣơng rồi đi theo kháng chiến. Ông đƣợc kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam năm 1946. Năm 1948 ông tham dự lớp bồi dƣỡng khoá 2 Văn hoá kháng chiến Liên khu IV. Trong thời gian, này ông sáng tác tác phẩm đầu tay Bài ca vỡ đất. Bài thơ mang phong cách chân thực, khỏe khoắn, phù hợp với không khí kháng chiến nên đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Từ đây sự nghiệp sáng tác của Hoàng Trung Thông bắt đầu. Sáng tác của ông chủ yếu là thơ, ngoài thơ trữ tình ông còn viết thơ châm biếm và thơ đả kích. Hoàng Trung Thông thuộc thế hệ cầm bút trƣởng thành trong kháng chiến. Ông đã gặt hái đƣợc nhiều thành công ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Thơ ông giàu tính thời sự, gắn bó với từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thơ ông ghi nhận sự đổi mới của đất nƣớc, ca ngợi vẻ đẹp của đất nƣớc, quê hƣơng và con ngƣời Việt Nam. Nhà thơ đã khẳng định đƣợc bản sắc riêng biệt độc đáo, tạo ra dấu ấn trong phong cách nghệ thuật của mình. Hoàng Trung Thông là một nhà thơ, nhƣng không chỉ vậy ông còn là một nhà dịch thuật, nhà nghiên cứu phê bình văn học. Với tầm hiểu biết rộng và sâu nhất là văn học Trung Quốc, ông đã dịch và giới thiệu nhà thơ lớn của Trung Quốc cũng nhƣ của nhân loại nhƣ Đỗ Phủ, Lý Bạch, Maiacôpxky, Pêtôphi, Adam Mickievich, Henrich Hainơ…. Ngoài ra, những 2 tập tiểu luận phê bình sắc sảo của ông cũng dành không ít cho sự nghiệp nghiên cứu văn học. Hoàng Trung Thông từng đảm nhiệm các chức trách: cán bộ văn nghệ của khu ủy Liên khu IV, tỉnh ủy viên tỉnh Nghệ An, ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ƣơng, Giám đốc Nhà Xuất Bản Văn học, thƣ ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ, thƣ ký tòa soạn báo Văn nghệ, vụ trƣởng Vụ văn nghệ trung ƣơng, ủy viên thƣờng vụ Hội nhà văn, viện trƣởng Viện Văn học, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn học… Từ vai trò và vị thế nói trên, chúng tôi chọn đề tài: Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông nhằm mục đích tìm hiểu một cách đầy đủ và toàn diện sự đóng góp của Hoàng Trung Thông cho thơ ca và cố gắng chỉ ra những dấu hiệu thuộc tính riêng trong nội dung và nghệ thuật của thơ ông, để khẳng định những phƣơng diện cơ bản nhất, bản chất nhất thuộc phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông. 2. Lịch sử vấn đề: Ngay từ sáng tác đầu tay Bài ca vỡ đất (1948) thơ Hoàng Trung Thông đã đƣợc dƣ luận quan tâm, đánh giá nồng nhiệt trong cả giới nghiên cứu phê bình và sáng tác. Sự nghiệp thơ văn Hoàng Trung Thông ngày càng dày dặn thì các ý kiến đánh giá về thơ ông cũng ngày càng sôi nổi. Năm 1964 đã có những cuộc trao đổi về vấn đề phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Tác giả Hồ Tuấn Niêm trong bài viết: Hoàng Trung Thông và “Những cánh buồm”, in trong Tạp chí Văn học số 8 - 1964 đã dành hẳn một mục bàn về “Vấn đề phong cách của thơ Hoàng Trung Thông”. Tác giả viết “Với Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông đã có một phong cách thơ chƣa? Vấn đề này đã từng đƣợc đem trao đổi trong một số ít anh chị em làm 3 công tác phê bình văn học. Qua cuộc trao đổi phần đông đều nghiêng về câu trả lời khẳng định”. [38,tr.22] Rõ ràng, vấn đề phong cách thơ Hoàng Trung Thông đã đƣợc chú ý và đƣợc một số nhà phê bình đánh giá từ rất sớm. Hồ Tuấn Niêm cho rằng: “Tôi nghĩ rằng anh đang tiến dần đến một phong cách thơ chứ chƣa phảỉ đã có một phong cách hoàn chỉnh… Tuy nhiên, căn cứ vào những bài thành công nhất trong thơ Hoàng Trung Thông, chúng ta có thể thấy trƣớc dấu hiệu của một phong cách mới, đó là cái chắc, cái khoẻ đƣợc thể hiện qua những câu thơ rắn rỏi bình dị nhƣ cách ngôn, tục ngữ ”. [38,tr.23] Mấy năm sau cũng chính tác giả Hồ Tuấn Niêm lại tiếp tục bàn về phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Trong bài “Hai mươi năm ấy…” (Nhân đọc tập thơ “Đầu sóng” của Hoàng Trung Thông) cũng đã dành riêng một mục “một phong cách thơ” để bàn về phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Theo đánh giá của tác giả này thì phong cách thơ Hoàng Trung Thông là “Phong cách thực tiễn và chiến đấu. Về nội dung bài nào cũng nhằm một yêu cầu cụ thể. Về hình thức, Hoàng Trung Thông thƣờng dùng những ngôn ngữ đƣợc rút ra từ cách nói giản dị, chắc thật của quần chúng. Tuy nhiên, phong cách của anh vẫn còn nghèo”. [29,tr.79] Nhà nghiên cứu phê bình văn học Hà Minh Đức trong “Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975” xuất bản năm 1983 nhận định rằng phong cách thơ Hoàng Trung Thông là “phong cách thơ ca chân thực, khoẻ khoắn bám sát từ trong cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta”, ông còn nhận xét “Thơ Hoàng Trung Thông khoẻ và có khí thế” [60,tr.156]. Nhận xét của Hà Minh Đức nói trên đã quan tâm đến cả lĩnh vực nội dung và nghệ thuật trong phong cách thơ Hoàng Trung Thông, tuy nhiên, những nhận xét này mới ở mức khái quát chung chung. 4 Trong “Nhà thơ Việt Nam hiện đại” với bài Hoàng Trung Thông, nhà nghiên cứu phê bình văn học Mã Giang Lân nhận xét: “Điều quan trọng ở nhà thơ Hoàng Trung Thông là thơ anh có những nét riêng không lẫn với ai. Đó là một phong cách thơ giàu chất liệu sống, đôn hậu, chắc khoẻ. Thơ anh ít dùng tứ. Cái còn lại trong thơ anh là những xúc động tƣơi sáng chân thành”. [61,tr.299] Phong Lan trong bài: “Nhân đọc Trong gió lửa”, tập thơ thứ tƣ của Hoàng Trung Thông cũng đã có nhận định: “Có thể nói, ở thơ Hoàng Trung Thông, tƣ tƣởng và cảm xúc luôn khoẻ khoắn và trong sáng. Anh nhìn nhận, bình giá thực tế bằng con mắt cách mạng và xây dựng cảm hứng thơ ca trên sự đồng điệu giữa tâm trạng và hiện thực của đời sống. Nhờ vậy, thơ anh chân tình, cởi mở. Mặt khác, những điều anh viết thƣờng đƣợc rút ra từ những sự kiện, cảnh ngộ của đời sống thực nên thơ anh mang nét dân dã, gần gũi của một hồn thơ chân chất mộc mạc” [29,tr.91]. Nhận xét trên của Phong Lan chính là những nhận xét, bình giá về bình diện phong cách thơ Hoàng Trung Thông mặc dù còn dè dặt, khái quát. Nhà phê bình văn học Thiếu Mai khi bàn về thơ Hoàng Trung Thông có viết: “Thơ Hoàng Trung Thông có đặc điểm khá dễ nhận dạng, nghĩa là thơ có bản sắc, một tiếng thơ khỏe, chắc nịch, nhiều nghĩ suy, và nhìn chung thì ít bị nồng cay, song không phải là không có những phút giây mà cảm hứng bừng lên mãnh liệt trong thơ” [30,tr.96]. Bà còn viết: “Nhìn chung suốt cả quá trình hơn 40 năm sáng tác của Hoàng Trung Thông, quả là khó phân biệt rạch ròi từng giai đoạn với những đặc điểm rõ rệt. Tuy nhiên, cũng có một vài nhận xét về đại thể để thấy rõ hơn phong cách thơ anh. Thơ Hoàng Trung Thông khỏe, gân guốc. Cái khỏe, cái gân guốc ở đây không phải do từng câu từng chữ mà cả trong suy nghĩ, cảm hứng của nhà thơ. Mặt khác ngƣời ta cũng thấy thơ anh khô và không phải không ít ngƣời nghĩ rằng vì khỏe nên khô. 5 Tôi không nghĩ vậy. Theo ý tôi, nhiều bài thơ của anh có phần khô là do cảm xúc chƣa đủ mạnh, chƣa cân bằng với lý chí vốn rất mạnh của anh” [30,tr.99]. Ý kiến của Thiếu Mai cũng góp phần chỉ rõ phong cách thơ Hoàng Trung Thông trên nhiều bình diện biểu hiện, đồng thời tác giả cũng chỉ ra những hạn chế của thơ Hoàng Trung Thông. Nhà thơ Nguyễn Bao cũng có nhận xét về nghệ thuật biểu hiện của thơ Hoàng Trung Thông: “Cách nói khỏe khoắn, dung dị, hình ảnh mộc mạc chân chất nhƣng phía sau là những xúc cảm có thật và hết sức chân tình, là bản lĩnh và tri thức, là tính cách một vùng đất…, tất cả tạo nên một “Hoàng Trung Thông - thi sĩ” của xứ Nghệ không dễ lẫn lộn, không hề pha trộn với những phong cách khác” [5,tr.6] Nhà phê bình, nghiên cứu văn học Phan Ngọc nhận xét: “Hoàng Trung Thông chỉ là học giả trong các bài nghiên cứu. Còn trong thơ không ai mộc mạc bằng anh. Anh không thích cái gì bí hiểm triết lý, anh thích cái đơn giản. Toàn từ đơn tiết thuần việt, toàn những hình ảnh mộc mạc. Tôi hiểu mánh khóe này. Với cuộc đời có khi phải đóng kịch. Nhƣng với nghệ thuật ta phải chân thành” [40,tr.129]. Đây cũng là một nhận xét nghiêng về phƣơng diện nghệ thuật biểu hiện trong thơ Hoàng Trung Thông. Nhà nghiên cứu văn học Mai Hƣơng cũng khẳng định một phong cách độc đáo trong thơ Hoàng Trung Thông: “Với những bài, những từ, những câu thơ vừa vạm vỡ, chắc khỏe, vừa hồn hậu, phóng khoáng, giản dị, tựa vững trên nền của hiện thực đời sống Hoàng Trung Thông đã tạo đƣợc một phong cách thơ độc đáo, một dấu ấn riêng không pha trộn và góp phần đáng kể tạo dựng diện mạo mới cho nền thơ chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.[22,tr.137]. 6 Lê Quang Hƣng viết về Hoàng Trung Thông có nhận xét: Thơ Hoàng Trung Thông “bám chắc hiện thực đời sống và gia tăng sự khái quát tính chính luận” [62,tr.338] và “tâm hồn chân chất đôn hậu, tiếng thơ khỏe khoắn tự nhiên” [62,tr.341]. Phải chăng đó chính là những nét biểu hiện của phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Tóm lại, đánh giá về phong cách thơ Hoàng Trung Thông có những ý kiến khác nhau hoặc về phƣơng diện nội dung hoặc về phƣơng diện nghệ thuật. Đó là ý kiến hết sức quí báu nhƣng chƣa có bài viết nào xem xét, đánh giá về phong cách thơ Hoàng Trung Thông một cách toàn diện. Tuy vậy, đây là những ý kiến mang tính chất gợi ý, định hƣớng để chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này. 3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài: 3.1. Mục đích: Đề tài có mục đích tìm hiểu, thẩm định, đánh giá phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông ở cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Chúng tôi hy vọng qua từng phần đánh giá, thẩm định có thể đóng góp cho sự nhận biết gƣơng mặt thơ ca của Hoàng Trung Thông. Cũng mong đây chính là điều đóng góp nhỏ bé của luận văn trong quá trình tiếp cận và giải mã thơ Hoàng Trung Thông. 3.2. Nhiệm vụ: Thực hiện đề tài này ngƣời viết có nhiệm vụ tiếp cận, tìm hiểu phân tích các tác phẩm thơ Hoàng Trung Thông. Mặt khác đề tài còn có nhiệm vụ so sánh với một số nhà thơ đƣơng thời và không cùng thời với ông để thấy rõ bản sắc độc đáo của tác giả này. Tức là phong cách nghệ thuật thơ. “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tƣơng đối ổn định của hệ thống hình tƣợng, của các phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật, nói 7 lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lƣu văn học dân tộc”. [59,tr.256 - Tập 2] 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoàng Trung Thông đƣợc nhiều ngƣời biết đến với tƣ cách là một nhà thơ nhƣng ông còn là cây bút sáng tác văn xuôi, là một dịch giả đồng thời tham gia nghiên cứu phê bình văn học. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đa dạng phong phú. Do điều kiện thời gian và nhiều điều kiện khác nên chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu phong cách nghệ thuật biểu hiện trong thơ của tác giả này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài này là tất cả các tập thơ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Mặt khác chú ý tiếp cận, giải mã cả hai địa hạt thể hiện phong cách là: Nội dung tác phẩm và nghệ thuật biểu hiện. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trên cơ sở văn bản nghệ thuật (các tập thơ của Hoàng Trung Thông) tiến hành thống kê, phân loại một số vấn đề theo định hƣớng, từ đó thâm nhập để phân tích lý giải về giá trị riêng của thơ Hoàng Trung Thông theo từng khu vực đã đƣợc định hình. Chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: 5.1. Phương pháp phân tích tác phẩm: Tìm ra những đặc sắc nghệ thuật của văn bản thơ Hoàng Trung Thông. 5.2. Phương pháp thống kê, phân loại: Giúp cho việc hình thành những luận điểm khoa học. 8 5.3. Phương pháp so sánh (tương đồng hoặc dị biệt): Với một số nhà thơ khác, nhất là những nhà thơ cùng thời để tìm ra những nét riêng biệt của thơ Hoàng Trung Thông. 6. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Chƣơng 2: Những xu hƣớng chính trong thơ Hoàng Trung Thông. Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông. Sau cùng là danh mục tài liệu tham khảo. 9 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG 1.1. Đời sống lao động nông nghiệp: Hoàng Trung Thông là nhà thơ gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn. “Tuổi thơ của Hoàng Trung Thông sống ở nông thôn. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, môi trƣờng công tác của anh cũng ở nông thôn. Anh gắn bó mật thiết với cuộc sống nông thôn” [61,tr.285]. Hoàng Trung Thông không phải là nhà thơ xuất thân từ nông dân nhƣng nhƣ đã từng gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn. Vì vậy, ngay từ bài thơ đầu tiên, ông đã đứng trên cƣơng vị ngƣời nông dân kháng chiến mà thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình và càng về sau càng có nhiều bài thành công theo hƣớng đó. Bài ca vỡ đất đƣợc cất lên từ những ngày đầu kháng chiến, tuy còn đƣợm vẻ thanh bình của vùng tự do, nhƣng đã trở thành tiếng hát lạc quan của ngƣời nông dân đi khai hoang để phục vụ tiền tuyến. Trong những ngày đi vào vùng địch hậu, nhà thơ đã viết Đồng bằng, quê hương chiến đấu. Với tình cảm sôi nổi và lòng tin sắt đá của những ngƣời nông dân mặc áo lính trở về giải phóng đồng bằng, giải phóng quê hƣơng. Trong năm đầu của cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp (1958) ông viết Thăm lúa, Cho lúa ta lên tới ngang trời. Tƣ thế của ngƣời nông dân tập thể đƣợc thể hiện qua ý thơ chắc khỏe và dáng thơ thật phóng khoáng. Nhờ gắn bó sâu sắc với đời sống nông nghiệp và mỗi chặng đƣờng thơ ông đều có những sáng tác xoay quanh đời sống nông nghiệp mà ngƣời đọc cảm nhận rất rõ: Đời sống nông nghiệp là một trong những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Và trong cảm hứng này nhà thơ đã thể hiện khá phong phú các sắc độ, các phƣơng diện của đời sống nông nghiệp. 10 Hoàng Trung Thông thuộc thế hệ các nhà thơ ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Các nhà thơ thuộc thế hệ này có cái may mắn là vừa lớn lên là gặp cách mạng và đi theo Đảng cho nên họ có điều kiện thuận lợi trong sự tiếp thu những tình cảm mới. Tình cảm của quần chúng cách mạng đến với họ tƣơng đối nhanh hơn và trực tiếp hơn, do đó cái lạc quan trong thơ họ thƣờng có tính chất cởi mở, tính chiến đấu trong thơ họ thƣờng mạnh mẽ. Đây là điểm khác với các nhà thơ lớp trƣớc. Ở các nhà thơ lớp trƣớc, “có nhà thơ vì cảm cái vui, cái hùng của hiện tại mà xót thƣơng cho ông cha ta thủa trƣớc đã từng sống trong tâm trạng dằn vặt, tủi cực, hay đã trải qua những cảnh đời oan nghiệt, bất công. Có nhà thơ càng sống với tình cảm rộng lớn nhân đạo của thời đại càng thấy thấm thía cái khổ của tâm hồn bé nhỏ, yếu hèn, bơ vơ thủa trƣớc. Do đó cái vui trong thơ họ có phần chìm lắng hơn là phơi phới, tính chiến đấu trong họ thƣờng biểu hiện ở chỗ giành thắng lợi cho tâm hồn mới với những cái rớt của tình cảm lỗi thời” [38,tr.27]. Qua các trang thơ viết về đời sống lao động nông nghiệp của Hoàng Trung Thông, ngƣời đọc luôn đƣợc sống trong không khí hăng say lao động và trong niềm tự hào về quá khứ và về hiện tại của đất nƣớc. Cả tập thơ nhƣ muốn nói lên với ngƣời đọc rằng: Cuộc sống lao động hoà bình trên miền Bắc thật vui, thật đẹp, thật hùng và cần đƣợc ca ngợi ngàn lần. Trong Những cách buồm ngƣời đọc thấy cái vui ở đây chủ yếu là thấy cái vui của thế hệ trẻ đang lao động quên mình vì Tổ quốc. Ở Bài ca vỡ đất đó là một tiếng ca reo vui của ngƣời lao động nhƣng vẫn còn có phần vắng lặng. Ở đây, ta gặp cái hào hứng đến sôi nổi của nhà thơ trong Đường chúng ta đi: “Mặt trời chiều má đỏ hây hây Gió thổi hƣơng đồng sực nức Đi thăm lúa nhƣ cờ bay trƣớc ngực. 11 ...Đi bên lúa nhƣ bên ngọn lửa Mừng đƣợc mùa bếp đỏ cơm thơm.” (Thăm lúa) Nắng thu vàng tháng tám. Gió heo may giải đồng. Bờ tre cò liệng trắng. Lúa vờn xanh mênh mông Câu ca tung cánh bổng Mồ hôi đầm áo manh Yêu bao nhiêu cuộc sống Khoẻ nhƣ màu áo xanh. (Đồng tháng tám) Tiếng kẻng bay dồn nhƣ gió vang Nghe vui sao khúc nhạc xóm làng Nghìn năm mơ ƣớc giờ trông thấy Ruộng đất cày chung cấy tập đoàn. (Trên gác chùa Keo). Ngƣời cán bộ ở xóm thôn là linh hồn và trụ cột của phong trào. Trong cuộc sống họ là những ngƣời luôn lo toan tất bật với công việc xóm làng. Họ ít đƣợc nghỉ ngơi, sống không giờ giấc, khó khăn ở đâu cũng gọi tới, phúc lợi lại ít đƣợc chia phần. Hoàng Trung Thông đã dựng đƣợc hình ảnh chân thực 12 về anh chủ nhiệm trong thơ. Đến với Anh chủ nhiệm ngƣời đọc không chỉ thấy cái tƣ thế làm chủ, năng nổ tận tụy trong công việc của ngƣời nông dân cốt cán: Có mùa mạ cháy đồng khô cạn Mƣời bậc nƣớc leo lên ruộng hạn. Có mùa lúa chín, lụt tràn qua Lại phải nghiêng đồng hắt nƣớc ra. Ngƣời nhiều, ruộng ít, trâu bò ít. Chạy ngƣợc chạy xuôi, lo rối rít. Ngoài ba mƣơi tuổi máu đƣơng sôi Không chịu khoanh tay đứng ngó trời… (Anh chủ nhiệm) Không phải chỉ là sự tháo vát năng động mà sâu sắc hơn là tinh thần cách mạng tiến công và niềm thiết tha mơ ƣớc thấm sâu vào trong suy nghĩ. Chi phối hành động của anh chủ nhiệm. Cảm hứng về tƣơng lai đã đến khá rõ nét từ trong những vất vả lo toan của cuộc sống hiện tại: Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh Vẽ cả ngày mai thành bức tranh: (…) …Chân vẫn bƣớc đều, miệng vẫn nói, Phơi phới lòng anh cơn gió thổi. (Anh chủ nhiệm) 13 Hoàng Trung Thông nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang lên đâm chồi nảy lộc trong nông thôn hợp tác hóa. Tác giả không đứng ngoài cuộc mà nhìn ngắm thăm dò. Ông cũng không thi vị hóa nông thôn đang vƣợt qua những thử thách nặng nề. Hiện thực cuộc sống đi vào thơ Hoàng Trung Thông qua những mạch chìm sâu và chắt lọc. Khi nói đến kết quả nhà thơ thƣờng chú ý đến nguyên nhân, nói về niềm vui thắng lợi lại nói đến những gian truân, nói về ngày mai từ những xây đắp cho cuộc sống hôm nay. Trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hoàng Trung Thông lại có những đóng góp mới đặc biệt qua mảng đề tài trên. Tác giả chú ý đến phần thú vị của cuộc sống nhƣng trƣớc hết vẫn là sự nhạy cảm với những khó khăn và trách nhiệm. Nông thôn trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội bề bộn sự sống và gợi nhiều cảm hứng thi ca. Huy Cận miêu tả một nông thôn đang lao động cần cù và sáng tạo, một nông thôn đang sinh sôi nảy nở không ngừng. Những con gà béo tròn, mẹ gà ấp ủ đàn con, những chú nghé vui chơi nhảy nhót… Có lúc suy nghĩ về sự hoà hợp giữa con ngƣời và thiên nhiên đƣợc thể hiện trong niềm vui lao động, trong cảnh trời nƣớc mênh mông. Cảnh trong bài Đoàn thuyền đánh cá óng ánh nhƣ một bức tranh sơn mài: Cá nụ, cá chim, cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở sao lùa nƣớc Hạ Long. (Đoàn thuyền đánh cá) Hoàng Trung Thông cũng nói về nhịp sống đang lên đó. Hình ảnh huyện ủy miền núi về họp từ các nơi trong không khí nhộn nhịp, vui vẻ để rồi lại trở về trong những trách nhiệm khác nhau: Huyện ủy chia nhau về bản 14 Gấp gấp vó ngựa lên đƣờng Ngƣời về lũng xa chống hạn Ngƣời lên biên giới mua lƣơng. (Huyện ủy miền núi). Ông nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang đâm chồi nảy lộc trong phong trào nông thôn hợp tác hóa: Anh trỏ: Đây ruộng mình hợp tác Lúa tƣơi vàng nhƣ dáng nhƣ mây Tôi nói lúa làm chung phải khác Hạt mẩy bông dài cây sát cây Mặt trời chiếu má đỏ hây hây Gió thổi hƣơng đồng sực nức Đi thăm lúa nhƣ cờ bay trƣớc ngực Xắn tay lên ta gặt mùa đầu. (Thăm lúa) “Khi viết về con ngƣời mới, cuộc sống mới, nhà thơ tỏ ra có nhiều suy nghĩ. Cái mới mà tác giả ca ngợi, khẳng định đã có sức thuyết phục. Bao hợp tác xã có đƣợc những dòng suối thóc lấp lánh” là vì đã trải qua bao đêm “Chong đèn giải quyết việc vào ra” và bao ngày “cày vỡ vai trâu tát thủng gầu” (Gửi Thái Thụy). Bao đồng chí chủ nhiệm đã kiên trì vật lộn với nhiều khó khăn để cùng xã viên “Xốc cả phong trào vững tiến lên” (Anh chủ nhiệm). Tác giả đã giải thích (bằng thơ) rằng cái mới ngày nay vốn có quan hệ với truyền thống đấu tranh sản xuất [38,tr.69]. Nhƣng con ngƣời trong phong trào hợp tác hóa ấy chính là những con ngƣời nông dân tập thể. Con ngƣời 15 nông dân ngày nay chính là hiện thân của Tài Ngào, một nhân vật thần thoại tiêu biểu cho truyền thống lao động vì nhân dân: Có sức nào bằng sức ngƣời hợp tác Có thác gì bằng ngọn thác cần lao? Cảm ơn ông hỡi ông Tài Ngào! Ông có một trái tim nóng hổi Ông đem sức đào khe đục núi Mà không vì lợi lộc riêng tây. (Nói chuyện với ông Tài Ngào). Viết về đời sống nông thôn, về lao động nông nghiệp, Hoàng Trung Thông không chỉ ca ngợi cuộc sống đang lên với những niềm vui phơi phới, ca ngợi những con ngƣời lao động mới, con ngƣời nông dân tập thể mà ông còn chú ý đến những nỗi gian khổ, nhọc nhằn. Lớn lên trong thực tế chiến đấu và xây dựng của dân tộc, lại sẵn có niềm vui trong lòng, Hoàng Trung Thông có cách nhìn, cách cảm đúng đắn trƣớc cuộc sống còn nhiều khó khăn gian khổ, mà cũng thấy đƣợc sức ta, thế ta, lòng ta lạc quan phấn chấn: Ôi cái đất này vất vả sao Đồng chua nƣớc mặn thấp liền cao Vùng kế bên hạn muôn tay chống Cày vỡ vai trâu tát thủng gầu. Hay: Có đêm nằm nghĩ cảnh gieo neo Vợ yếu con đông chƣa hết nghèo. Nhƣng rồi thấy rõ đƣờng đi tới Nƣớc nổi lo chi bèo chẳng nổi. 16 Lại lao vào việc lòng say sƣa Hết sớm thôi chiều, nắng lại mƣa. (Anh chủ nhiệm) Không phải chỉ Hoàng Trung Thông mới có cảm hứng về đời sống nông nghiệp. Nhiều nhà thơ khác cũng có cảm hứng này. Trần Hữu Thung cũng có những câu thơ gắn với đồng ruộng, với chuyện đƣợc mất của mùa màng: Gió mƣa chi rứa Trời hỡi là trời Lúa ba tháng xểnh mất rồi Miếng ăn toan đổ vô nồi trật đi. Trần Hữu Thung cũng là cây bút “nhập cuộc” ( có cách nói trực tiếp của ngƣời trong cuộc) nên đã nói đƣợc những lời gan ruột của bà con trong một lối phô diễn tự nhiên. Phải chăng Hoàng Trung Thông và Trần Hữu Thung đã gặp nhau ở điểm này. Tuy vậy, giữa hai tác giả này vẫn mỗi ngƣời, mỗi vẻ. Trần Hữu Thung có những câu thơ gắn bó với đồng ruộng nhƣng nặng về tuyên truyền cách mạng. Còn “Hoàng Trung Thông viết về đất đai đồng ruộng với bao tình nghĩa chan hoà với đất, gửi vào đất những yêu thƣơng hy vọng” [61,tr.292]. Có lẽ vì thế mà viết về đời sống nông nghiệp đã trở thành một nguồn cảm hứng trong thơ ông. có lẽ cũng vì thế mà Hoàng Trung Thông viết những câu thơ về đất thƣờng sâu sắc hơn những câu thơ viết về trời. Trong cảm hứng viết về đời sống nông nghiệp còn “một mảng thơ đáng chú ý khác ở Hoàng Trung Thông là thơ viết về những đổi thay và nhịp sống lao động xây dựng ở miền núi” [61,tr.296]. Nhà thơ thƣờng sáng tác ngay 17 trong mỗi chuyến đi và “Mỗi đoạn đƣờng rung một tứ thơ”. Trong mảng thơ này nét tƣơi tắn nhất là khi miêu tả thiên nhiên. “Yêu đời và nhạy cảm, anh dễ dàng nhập vào đƣợc với không khí và con ngƣời nơi anh đến, dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tránh đƣợc hời hợt, chông chênh. Ở đây nhiều bài già dặn cổ kính mang âm hƣởng của đƣờng thi. Tả nhƣng rất gợi. Nhà thơ toả tâm hồn mình vào cảnh vật. Chi tiết không nhiều nhƣng đắt và say. Gửi Việt Bắc, Trên hồ Ba Bể, Huyện uỷ miền núi, Thác Bản Dốc, Tiếng đàn, Đêm văn chải, Xoè, Lũng cú, Chợ Pakha… ” [61,tr.297]. Chợ là nơi trao đổi, buôn bán hàng hoá, là bộ mặt kinh tế của một vùng, miền. Viết về những đổi thay và nhịp sống lao động dựng xây ở miền núi không gì hơn bằng viết về những đổi thay ở chợ. Đây là cảnh chợ huyện Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng: Chợ Cô - sầu Chẳng có ai sầu Khăn thêu thổ cẩm, vải khoe mầu. Ngƣời đi trẩy hội hay đi chợ Anh đợi em hoài em ở đâu? Bài thơ kết cấu trùng trùng điệp điệp gồm 4 đoạn. Đoạn hai, đoạn ba là cảnh vui tƣơi náo nức của cuộc sống miền núi đã có sự thay đổi da thịt: Chợ Cô - sầu Chẳng có ai sầu Gà vịt nhiều hơn khoai với nâu. Nón tre, túi vải ngƣời nhƣ nƣớc Anh đợi lâu rồi em đứng đâu?. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan