Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Luận văn phong cách thơ lưu trọng lư

.PDF
107
65
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ===    === LÊ THỊ NHUNG (màu XC14, 2 quyển, 100 trang) PHONG CÁCH THƠ LƯU TRỌNG LƯ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 Hà Nội – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ===    === LÊ THỊ NHUNG (màu XC14, 2 quyển, 100 trang) PHONG CÁCH THƠ LƯU TRỌNG LƯ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 NGƯỜ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS LÝ HOÀI THU Hà Nội - 2012 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 3 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 8 5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 8 PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................... 9 Chương 1 VẤN ĐỀ PHONG CÁCH VÀ HÀNH TRÌNH THƠ LƯU TRỌNG LƯ ........ 9 1.1. Khái niệm phong cách ............................................................................... 9 1.1.1. Phong cách tác giả ............................................................................. 10 1.1.2. Phong cách thời đại ........................................................................... 12 1.1.3. Phong cách thể loại ............................................................................ 13 1.2. Hành trình thơ Lưu Trọng Lư ............................................................... 14 1.3. Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Trọng Lư .................. 19 Chương 2 ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHÍNH TRONG THƠ ......... 27 LƯU TRỌNG LƯ ...................................................................................................... 27 2.1. Tình yêu đôi lứa ....................................................................................... 27 2.2. Tình yêu thiên nhiên ................................................................................ 37 2.3. Tình yêu đất nước và con người .................................................... 43 Chương 3 PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA THƠ LƯU TRỌNG LƯ ....................... 59 3.1.Thể thơ ....................................................................................................... 59 3.2. Hình ảnh, ngôn ngữ ................................................................................. 64 3.3. Nhạc điệu .................................................................................................. 74 3.4. Giọng điệu ................................................................................................ 81 3.5. Không gian, thời gian .............................................................................. 86 3.5.1.Thời gian ............................................................................................. 86 3.5.2. Không gian ......................................................................................... 94 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 104 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thơ mới (1932 -1945) đã thổi một luồng mới lạ, làm xôn xao và đánh thức cả một nền thơ đang “triền miên trong cõi chết” - Lưu Trọng Lư. Là một người nhiệt thành ủng hộ Thơ mới và có những sáng tác đăng báo ngay từ những ngày đầu tiên, ông đã trở thành một trong những chủ soái của phong trào Thơ mới trong cuộc chiến chống lại thơ cũ. Vừa là một nhà thơ có tài, lại vừa là một chủ tướng dũng cảm, Lưu Trọng Lư đã góp một phần không nhỏ làm nên chiến thắng cho Thơ mới. Vai trò tiên phong của Lưu Trọng Lư đã được ghi nhận qua nhiều bài báo, bài phê bình và những công trình nghiên cứu về Thơ mới cũng như về riêng sáng tác của Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư – một tâm hồn say mê sáng tạo, ông đến và gắn bó cuộc đời mình với thơ như một định mệnh, một duyên nghiệp đã được sắp đặt. Dẫu cuộc đời của thi sĩ không êm ả, bằng phẳng, dẫu có lúc ông đã phải tận nếm đến cùng những đắng cay, chua chát,… nhưng người thơ ấy vẫn không lúc nào hết đam mê sáng tạo. Những cơn lốc mạnh đi qua đời ông không cuốn đi tài năng sáng tạo thiên bẩm, và ngay cả bản thân nhà thơ, có đến mấy thập kỉ cùng gia đình chống chọi trong cảnh khó khăn, cơ cực,… nhưng đáng trân trọng và khâm phục thay khi trái tim người nghệ sĩ không vì thế mà lạc đi nhịp đập, dòng thơ vô tận trong tâm hồn thơ ấy vẫn mãi miết chảy và không lúc nào đi chệch ra ngoài hai tiếng: Yêu thương. Là nhà thơ xuất hiện ở thời kì đầu của phong trào Thơ mới, đi qua chặng đường sáng tác khá dài trên 50 năm. Lưu Trọng Lư đã để lại nhiều tác phẩm thực sự có giá trị. Ông sáng tác nhiều thể loại : tiểu thuyết, truyện, kịch thơ, ký sự, hồi ký văn học, nghị luận văn chương,... Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp mang dấu ấn riêng, nhưng lại nổi tiếng với danh hiệu là nhà thơ. Không kể thơ viết trên các bài báo Phụ nữ tân văn, Phong hóa,…Ông có bốn tập thơ : Tiếng thu (1939), Tỏa sáng đôi bờ (1959), Người con gái sông Gianh (1966), và Từ đất này (1971). Có thể khẳng định, Lưu Trọng Lư đã có nhiều cống hiến trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, thúc đẩy sự phát triển đa dạng của thơ ca Việt Nam hiện đại. Với sự đột phá trong thơ, Lưu Trọng Lư đã dành được sự mến mộ từ phía người đọc, và tình yêu ấy như là một sự chia sẻ, một dư âm sâu lắng để ngâm 3 nga, để suy ngẫm chứ không phải để phô bày, hưởng ứng một cách ồn ã, hời hợt. Sự nghiệp sáng tạo phong phú và đột phá của Lưu Trọng Lư đã trở thành đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của giới lý luận phê bình từ rất sớm. Nhưng để tìm hiểu về vấn đề phong cách thơ Lưu Trọng Lư thì dường như vẫn còn bỏ ngỏ... Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Phong cách thơ Lưu Trọng Lư” như một lời tri âm và khẳng định của chúng tôi về vị trí, đóng góp xứng đáng của nhà thơ Lưu Trọng Lư trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Lưu Trọng Lư là một trong những bông hoa nở sớm của phong trào Thơ mới, nên ít nhiều cũng đã khẳng định được bản sắc của mình. Tập thơ đầu tay Tiếng thu ra đời (1939), đã được công nhận là một trong những tập thơ hay nhất và quan trọng nhất của thời tiền chiến. Đánh giá cao tài năng của nhà thơ trẻ này, là nhà văn Hoài Thanh trong Một thời đại thi ca (1941), mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam tác giả viết : “Tôi muốn xếp riêng vào một dòng những nhà thơ tuy có chịu ảnh hưởng của phương Tây nhưng rất ít và cũng không chịu ảnh hưởng của thơ Đường. Thơ của họ mang tính cách Việt Nam rõ rệt. Đứng đầu dòng này là Lưu Trọng Lư ”. Và cũng trong Thi nhân Việt Nam, khi giới thiệu Lưu Trọng Lư với lối phân tích say mê và hóm hỉnh về thơ của một con người hơn cả thi sĩ này, cuối cùng, Hoài Thanh thú nhận : “Tôi chỉ biết dẫu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hàng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.[61; 303]. Hoài Thành còn viết :“Tôi thấy Lưu Trọng Lư là một người tinh tế, Lưu Trọng Lư đã nhạy cảm và đồng cảm khi lắng nghe được âm thanh của mùa thu. Khi những ngày nắng hạ vừa tắt lửa, những cơn gió heo may thổi về, thiên nhiên đã vào buổi giao mùa. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như những điệu huyền bay lạc khắp thôn – Từng nhà đây đó hẹn nhau buồn” [61;323-324]. Và “Nét đặc sắc nhất của thơ Lưu Trọng Lư chính là từ những kỉ niệm tươi sáng về người mẹ đã khuất, cho đến bao nhiêu buồn thương, bao nhiêu chán nản, bao nhiêu đau khổ về tình yêu, cả cái cảnh giá lạnh của đôi vợ chồng lúc “Tình đã xế bóng”, cùng cái thú ngây ngất của cuộc đời “Giang hồ”, Lư đều kể cho ta nghe một cách rất cảm động”. Nhận xét về Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ mới, Hoài Thanh viết “Tôi biết có kẻ 4 trách Lư cẩu thả, lười biếng, không chọn chữ, không chịu gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lên trên mặt giấy. Tình đã gửi trong lời thơ, Lư không đoái hoài đến nữa…” . Tác giả còn mạnh dạn khẳng định : “Tình già, Trên đường đời, Vắng khách thơ là những bài thơ được đăng trên báo trước nhất. Trong ba bài ấy thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Bài thứ ba còn có tên Xuân về là của Lưu Trọng Lư” [61;324 -325]. Là một người sáng tác cần mẫn và đều đặn, sau Cách mạng Lưu Trọng Lư liên tiếp cho ra đời những đứa con tinh thần của mình : Tỏa sáng đôi bờ (1959), Người con gái sông Gianh (1966), Từ đất này (1971), hầu như mỗi tập thơ của ông ra đời sau đó đều xuất hiện những bài phê bình kịp thời và công phu, điểm qua một số bài viết dọc theo đường thơ Lưu Trọng Lư có thể thấy rõ điều này. Bài viết của Minh Dương (1959), với tập thơ Tỏa sáng đôi bờ, trên Tạp chí Văn nghệ, (số 31). Tác giả đã cảm nhận : “Nếu văn tức là Người. Thì đọc Tỏa sáng đôi bờ ta có thể thấy rõ con đường tiến lên của Lưu Trọng Lư về tư tưởng cũng như về nghệ thuật”. Bài viết của Hà Minh Đức (1971), với Người con gái sông Gianh, trên Tạp chí Văn học. Tác giả nhận định : “ Với tập Người con gái sông Gianh, Lưu Trọng Lư đánh dấu một chặng đường mới của tác giả. Tất cả những gì tưởng đã lùi vào quá khứ, giờ đây vụt sống trở lại. Một cảm xúc khá rồi dào và có phần tươi trẻ vẫn hiện lên khi bộc lộ khi tiềm tàng ẩn kín sau mỗi dòng thơ. Anh muốn đem lời thơ như đem tấm lòng của mình để ngợi ca sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc, ca ngợi những con người anh hùng vừa đẹp trong tâm hồn lại đẹp trong hành động”. Và sau khi Lưu Trọng Lư đã có phong cách định hình và được khẳng định trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại thì chúng tôi thấy liên tiếp xuất hiện ngày càng nhiều các bài viết, bài thẩm bình về tác phẩm thơ của ông hoặc nhìn nhận lại một chặng đường thơ cũng như đi vào những chủ đề đặc sắc trong thơ ông. Có thể liệt kê ra một số bài viết tiêu biểu này : Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, Tác giả đã rất tinh tế khi cảm nhận rằng : “Thơ Lưu Trọng Lư là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta. Xuất phát từ tiếng lòng ấy thơ Lưu Trọng Lư còn là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với đất nước, với dân tộc”. Nguyễn Văn Long với Đường thơ Lưu Trọng Lư cũng đã nhận định : “Cùng với nhiệt tình trẻ, điểm quy tụ những giá trị trong thơ Lưu Trọng Lư chính là tình nghĩa. Tâm hồn ấy sống bằng tình nghĩa :Trước kia tình 5 yêu và lòng thương cảm dù còn mơ hồ và yếu đuối nhưng cũng đã giữ cho tâm hồn ấy một khoảng trời trong lành trong cuộc sống nhiều buông thả, phóng đãng và chán chường. Đến với Cách mạng, điều mà Lưu Trọng Lư thấm thía nhất vẫn là nghĩa tình của Cách mạng, tình nghĩa của con người trong Cách mạng, trong cuộc đời mới.“Một chiến khu Hòa Mỹ, một dòng sông Hiền Lương, một khoảng vườn Cự Nẫm, một dãi Trường Sơn đối với tôi là những chùm sao long lanh tình nghĩa”. Tình trong thơ văn của Lưu Trọng Lư đã mở rộng và đổi mới, chan hòa trong mối quan hệ đẹp nghĩa tình giữa người với người trong xã hội mới. Chủ nghĩa nhân đạo mới thấm nhuần trong sáng tác của Lưu Trọng Lư, hòa nhập với lòng nhân ái truyền thống, tạo nên vẻ đẹp giá trị của những tác phẩm thành công của nhà thơ. Tình nghĩa ấy là điều Lưu Trọng Lư tâm niệm trong cuộc đời và trong nghệ thuật, nhà thơ “sớm tối không rời một chữ thương”. Vũ Ngọc Phan trong công trình Nhà văn hiện đại Việt Nam (1994), nhân định : “Lưu Trọng Lư là một thi sĩ có tài… Tiếng thu là bài thơ hay của thơ ca Việt Nam và ở bài thơ này, đã khẳng định giá trị của nhà thơ Lưu Trọng Lư” [55;283], điệu hồn thơ riêng ấy của ông cũng được Vũ Ngọc Phan nắm bắt tinh tế :“Một linh hồn thơ tinh tế, giàu cảm xúc. Ông say xưa tất cả những cái đẹp của người và của tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, trí não ông lúc nào cũng mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, thổ lộ lên những lời thơ huyền ảo vô cùng”. Và “Tiếng thu thật không khác gì những tiếng đàn thu não nùng của Verlaine trong Bài hát thu về. Thật nó nhẹ nhàng từ âm điệu đến ý tưởng, nó cám dỗ ta bằng sự mơn man, rồi thấm dần vào trong cõi lòng ta, khiến ta phải ngây ngất về cái hiu quạnh ở bên sự sống của loài người. Người mẹ hiền, Người cô phụ, con nai vàng, chiếc cáng điều và bất cứ người hay vật, đã góp phần vào cuộc sống thì phải rạo rực, ngơ ngác về cái tiếng thổn thức của mùa thu dưới ánh trăng mờ, là những tiếng trong suốt và ngân nga như tiếng sếu lưng trời sắp vào đông. Tập Tiếng thu chính là tiếng lòng thổn thức của nhà thơ” [55;284]. Tiếp theo là bài viết của Ngô Văn Phú (2001), với “Tiếng thu – một dấu son trong phong trào Thơ mới”. Trên Báo Văn nghệ, (số tưởng niệm 90 năm ngày sinh Lưu Trọng Lư). Tác giả viết : “Tôi nhận ra trong Tiếng thu Lưu Trọng Lư có một bút pháp riêng. Đó là lối viết theo dòng cảm hứng. Tiếng thu là một thứ tùy bút bằng thơ, khi cảm về một điều gì, một khoảng khắc nào, một chuyện đã qua hay một điều gì mơ hồ sẽ tới. Nhà thơ viết trong sự đắm chìm khá 6 tập trung trong cảm hứng … Thi sĩ nói hết điều mình nghĩ, mình tưởng, mình nhớ, mình thương, mình ăn năn hối hận, mình mường tượng nhận ra, như một thứ thổ lộ tâm tình. Lúc nào thấy không muốn nói nữa thì thơ cũng hết. Đó là lối viết bằng nội tâm, bằng trực cảm, mà chính bây giờ nhà thơ hiện đại đang nói đến, đang muốn thể hiện theo trang lứa của mình”. Sau bài viết của Ngô Văn Phú phải kể đến bài viết của Hà Minh Đức (2002), trong Một thời đại thi ca, Nxb. Giáo dục. Tác giả cảm nhận về tập thơ Tiếng thu : Thơ của Lưu Trọng Lư là “Khúc đàn bình dị, khúc đàn xưa”. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư thiên về chất nhạc bên trong, tiếng thì thầm, lời tâm sự, nguyện cầu. Và tác giả còn viết : “Tiếng thu, đi qua nửa thế kỉ nay, vẫn ngân, vẫn ca hát trong trái tim người người, tiếng mùa thu“thổn thức”, tiếng trái tim “rạo rực” của người cô phụ, tiếng “xào xạc” của lá vàng rừng thu”. Văn Thị Minh Tư (2003), với “Tiếng thu – một nỗi niềm tha thiết với cuộc đời”, trên Tạp chí Khoa học (số 6). Bằng sự cảm thụ tinh tế của nhà thơ đã nêu được nét đặc sắc của Tiếng thu trên nhiều phương diện :“Đến với Tiếng thu là đến với thế giới của mộng và tình. Mộng và tình là cảm hứng bao bọc, xuyên thấm thế giới nghệ thuật Tiếng thu, đem lại cho thế giới ấy một không khí mơ màng, sương khói. Trong mộng có tình, trong tình lại có mộng, hồn thi nhân cứ từ giấc mộng này sang cơn mơ kia, đưa ta đến giấc mộng giang hồ với những cuộc tình đứt nối của giấc mơ tình ái đầy xao xuyến vấn vương. Và điều đáng quý hơn cả không chỉ đắm chìm trong những mối sầu riêng tư mà ở nhà thơ ấy, vẫn luôn day dứt một nỗi niềm tha thiết với cuộc đời”. Ngoài ra, còn một số bài viết nhỏ, lẻ bình phẩm vẻ đẹp của Tiếng thu qua tác phẩm Nắng mới có giá trị như bài viết của Lê Quang Hưng (1998), trong Tinh hoa thơ mới – Thẩm bình và suy ngẫm, Nxb. Giáo dục. Vũ Quần Phương (1999), trong Thơ với lời bình, Nxb. Giáo dục. Và Trần Trung (2001), trên Tạp chí gia đình. Nhìn lại, toàn bộ những công trình và những bài viết trên, chúng tôi nhìn thấy hầu hết các nhà phê bình văn học đều đã cố gắng làm nổi bật những thành công của Lưu Trọng Lư về nội dung và nghệ thuật cùng các mặt hạn chế, đồng thời cũng làm nổi bật vị trí của từng tập thơ trong hành trình sáng tạo của ông. Song vẫn còn rất khiêm tốn, chưa thật tương xứng với sự nghiệp thơ ca và những đóng góp của Lưu Trọng Lư. Đa số các bài viết chỉ là những lời giới thiệu đánh giá thẩm bình chung chung hoặc dừng lại ở việc phân tích vẻ đẹp của một bài 7 thơ riêng biệt mà chưa có một công trình nghiên cứu tỉ mỉ và hệ thống về phong cách thơ Lưu Trọng Lư. Vì vậy, để có cái nhìn tổng thể, toàn diện và khoa học hơn. Chúng tôi chọn đề tài Phong cách thơ Lưu Trọng Lư làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn của mình, với mong muốn cho người đọc hiểu hơn về một tài năng thơ. Một Lưu Trọng Lư với tư cách là một nhà thơ, một phong cách thơ độc đáo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Phong cách thơ Lưu Trọng Lư”. - Phạm vi khảo sát là toàn bộ hệ thống sáng tác của Lưu Trọng Lư trong Tuyển tập thơ Lưu Trọng Lư do Hà Minh Đức và Nguyễn Văn Thành tuyển chọn và giới thiệu năm 1997, Nxb. Văn học. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm sáng tác của một số nhà thơ khác để có căn cứ làm sáng rõ hơn các đặc điểm của phong cách thơ Lưu Trọng Lư. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp cơ bản sau đây : - Phương pháp nghiên cứu tác giả - Phương pháp phân tích - Phương pháp tổng hợp, thống kê - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp tiếp cận của thi pháp học 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1 : Vấn đề phong cách và hành trình thơ Lưu Trọng Lư Chương 2 : Đề tài và những nguồn cảm hứng chính trong thơ Lưu Trọng Lư Chương 3 : Phương thức biểu hiện của thơ Lưu Trọng Lư 8 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 VẤN ĐỀ PHONG CÁCH VÀ HÀNH TRÌNH THƠ LƯU TRỌNG LƯ 1.1. Khái niệm phong cách Không phải đến xã hội hiện đại như ngày nay thuật ngữ về phong cách mới được nói đến mà ngay từ xa xưa, phương Tây cũng như phương Đông đã có quan niệm : Phong cách là bản thân con người, hay nói ngắn gọn hơn, Văn tức là người (Văn như kỳ nhân) tính chất cá thể ở đó vô cùng rõ nét. Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm về phong cách xuất hiện từ thời kì Hy Lạp và La Mã cổ đại cùng với sự xuất hiện của khoa học về hùng biện. Phong cách ngôn ngữ là sự kết hợp của hai nhân tố : “Nói gì ” và “nói như thế nào”, có nghĩa đây là sự tổng hòa các phương tiện ngôn ngữ. “Nói gì ” là phạm trù về nội dung và “nói như thế nào” là phạm trù về hình thức. Trong Thuật ngữ văn học Lại Nguyên Ân cho rằng : “Phong cách là những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống hình tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng văn học, một nền văn học nào đó… Phong cách có sự thể hiện cụ thể trực tiếp : những đặc điểm của phong cách dường như hiện diện ở bề mặt tác phẩm, như một sự thống nhất hiển thị và cảm giác được của tất cả các yếu tố chủ yếu của hình thức nghệ thuật. Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm, khiến tác phẩm có tính chỉnh thể, có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt” [2;18]. Như vậy, phong cách không phải là một đặc điểm lẻ tẻ, biểu hiện một cách rời rạc mà vô cùng chặt chẽ và khăng khít với nhau, nó là một đặc tính “Tất lẽ dĩ ngẫu” của văn học nghệ thuật. Sự hiển thị và là dấu hiệu nhận biết nó nằm chính trong những thủ pháp nghệ thuật, trong cách thức sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng, trong cả quan niệm về cuộc sống … Và tất cả cùng kết hợp nhuần nhuyễn trong một chỉnh thể thống nhất, nó tiêu biểu cho từng chủ thể sáng tạo riêng trong từng thời kì lịch sử. Theo giáo sư Phan Ngọc : “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựu chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại hay một tác giả” [53;22]. 9 Đây cũng là một quan niệm rất thú vị và đầy đủ bao quát về phong cách. Sự quan trọng nằm trong hai cụm từ “kiểu tiêu biểu lựa chọn ” và “nhận diện ”. Phong cách của nhà văn nằm ở sự lựa chọn của nhà văn đó trước một vốn chất liệu của cuộc sống như nhau. Nhưng cái khác biệt là bản thân “cái tạng ” của nhà văn đã “lựa chọn ” cách đi, cách viết, cách sáng tạo như thế nào, để tạo nên sự độc đáo và khác biệt của mình. Đồng thời, nỗ lực lao động nghệ thuật nghiêm túc sẽ phải luôn ý thức tìm tòi sự mới mẻ, “Khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có” (Nam Cao). Đôi khi hiện thực đời sống chỉ có vậy nhưng tái tạo nó lên trang viết thì lại phụ thuộc vào cách nhìn, cách cảm và cách nghĩ của chính nhà văn. Trong mối quan hệ biện chứng, chính những “sự lựa chọn tiêu biểu ” ấy đã hình thành nên những nét riêng biệt, những đặc điểm phong cách mà người ta có thể soi rọi vào đó để phân biệt tác giả này với tác giả khác, thời đại này với thời đại khác. “Sự lựa chọn tiêu biểu ” là thuộc về tác giả, còn “sự nhận diện ” lại thuộc về bạn đọc và thước đo của thời gian. Đỗ Lai Thúy quan niệm : “Phong cách là cá tính của chủ thể sáng tạo, và sự tự do lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ để thể hiện nó trong tác phẩm. Cá tính, cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy, là tất cả” … “Phong cách cũng là chỗ đặc dị, nơi chứa đựng mật số của tác phẩm văn chương”… [66;22]. Như vậy, có thể nói rằng, dù bề ngoài từ ngữ có thể chưa trùng khít, và dù tiếp cận có khác nhau, nhưng vấn đề nội hàm khái niệm “Phong cách” trong lí luận văn học dường như đã có một sự thống nhất nhất định. “Phong cách là nét riêng biệt, là sự khu biệt, bản sắc của cá nhân, một tác phẩm hay một thời đại”. Phong cách học, bộ môn của khoa học ra đời với vai trò nghiên cứu phong cách vẫn đang trên tiến trình hoàn thiện những khái niệm cơ sở của phong cách như phong cách thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả. Tìm hiểu phong cách, chúng ta cũng làm rõ thêm khái niệm và mối quan hệ biện chứng của chúng. 1.1.1. Phong cách tác giả Mác – Xen Prút nói : “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì mỗi lần thế giới lại được tạo lập”. Chính cái độc đáo ấy đã tạo nên phong cách văn học, dấu hiệu trưởng thành về bản lĩnh của một nhà văn. 10 Phong cách nghệ thuật là nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trên tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Nói cách khác, phong cách là sự thể hiện tài năng của một người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo. “Phong cách chính là người” theo quan niệm của (Buy – Phông). Trong đời sống văn học Việt Nam cũng không thiếu những trường hợp mà phong cách không chỉ nhận biết, mà còn có thể gọi thành tên. Thời kì Thơ mới, Hoài Thanh đã “gọi tên” phong cách của các nhà thơ vô cùng chuẩn mực “Tôi quả quyết rằng trong lịch sử thơ Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên, và thiết tha, rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu” [61;6]. Điều đó chứng minh một điều rằng trong dòng chung của Thơ mới, mỗi nhà thơ đều có âm điệu riêng, một độc đáo mới lạ, điều đó tạo nên một phong cách riêng, bởi sự độc đáo đó làm cho diện mạo nền văn học thay đổi, đa dạng, phong phú hơn, đồng thời nó cũng kích thích sự đổi mới và vận động của cả một thời kì văn học đó. Phong cách không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, tự phát mà là cả một quá trình vận động, biến đổi thậm chí có những thay đổi nhưng thực sự bên trong thường chứa đựng những nét thống nhất, ổn định, xuyên suốt phong cách một khi đã định hình thì thường có tính bền vững. Tạo ra phong cách ngoài yếu tố thế giới quan, còn có những yếu tố khác nữa như truyền thống gia đình, hoàn cảnh sống, môi trường văn hóa, cách suy nghĩ cảm thụ và cái tạng riêng của mỗi nhà văn. Độc đáo, bền vững là những phẩm chất căn bản của phong cách nghệ thuật nhưng phong cách nghệ thuật theo đúng nghĩa của nó đòi hỏi phải có chất thẩm mỹ, nghĩa là nó phải đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ mỹ cảm dồi dào qua những tác phẩm giàu tính nghệ thuật, hay sinh động, hấp dẫn. Chỉ khi đó dấu ấn của phong cách trong quá trình văn học mới được ghi nhớ mãi mãi. Đỗ Lai Thúy trong Con mắt thơ đã tổng kết rằng : “Nếu cái nhìn nghệ thuật chung của cả dòng thơ như là một chuẩn, một phong cách chung cho cả 11 “Một thời đại thi ca”, thì mỗi cái nhìn nghệ thuật riêng của mỗi thi nhân là một lệch chuẩn tạo nên phong cách riêng cho mỗi nhà văn, nhà thơ” [66;12]. Và chính những nhận định này, cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa phong cách tác giả và phong cách thơ Lưu Trọng Lư. 1.1.2. Phong cách thời đại Cũng giống như phong cách tác giả, có thể thấy rằng phong cách thời đại in đậm trong các sáng tác của tác giả, thời đại nào thì phong cách đó. Tuy nhiên, từng thời điểm, từng lịch sử, từng giai đoạn văn học khác nhau cũng quy định những phong cách thời đại khác nhau và có dấu ấn riêng. Nhưng nó chỉ trở thành phong cách thời đại khi nó tựu trung lại những điểm độc đáo và nổi bật mà người ta không tìm thấy ở một thời đại khác. “Mỗi một thời đại chỉ có được phong cách của mình sau khi đã có được một cách khám phá riêng cho nó mà đời chưa có” [53;23]. Phong cách thời đại là một khái niệm rộng lớn, nó bao hàm diện mạo của cả một thời kì văn học kéo dài. Cũng như vậy, nó phải là sự tập trung nhất, chắt lọc cô đọng nhất những đặc điểm thống nhất bền vững của nhiều những phong cách cá nhân khác nhau. Khi nghiên cứu tác giả chúng ta bao giờ cũng đặt trong một trục biện chứng mối quan hệ tương tác với phong cách thời đại, cũng như Phan Ngọc đã nói: “Phong cách nhà văn, dù vĩ đại đến đâu cũng phải nằm trong phản ánh của phong cách thời đại ” [53;25]. Đó là một tất yếu. Thời đại và lịch sử khơi gợi nguồn cảm hứng của các cây bút, trao cho họ những đề tài, những chất liệu cuộc sống. Đặc biệt, tạo ra những tác phẩm của cả một thời kì có một nền tảng bền vững tương đối giống nhau về tư tưởng, màu sắc, xu hướng và sự vận động. Nhưng cũng thấy một điều ngược lại rằng, từ vai trò của người sáng tác, với ý thức về sự sáng tạo, chính họ đã tạo nên diện mạo của thời đại, với từng vai trò của cá nhân từng mảng màu, từng sự độc đáo. Từ rất nhiều sự riêng biệt, họ vẫn tạo thành một nét chung thống nhất của thời đại. Cho đến nay các công trình nghiên cứu về phong cách một tác giả, phong cách một trào lưu, phong cách một thời đại đã có những thành công rất đáng ghi nhận. Cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử đã cho thấy những hướng đi để tiếp cận thơ Tố Hữu rất thi vị và rất ấn tượng. Khi nhắc tới điều này, không thể không nhắc tới Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều của Phan Ngọc. Ngay từ khi vừa ra đời cuốn sách đã gây sự chú ý cho giới nghiên 12 cứu cũng như độc giả và tác giả đã đưa ra một cách tiếp cận phong cách tác giả hết sức khoa học. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau : Thứ nhất : Xét tần số lặp đi lặp lại của một hiện tượng. Một hiện tượng lặp đi lặp lại đến một tần số nhất định mới được chú ý. Đó là vì phong cách là sự lặp đi lặp lại của những chùm những nét khu biệt. Thứ hai : Sau khi rút ra một nét khu biệt, nét này sẽ được nghiên cứu phân tích trên hai trục, là trục lịch sử và trục thời đại. Bởi lẽ, như một quá trình biện chứng, phong cách các cá nhân sẽ tạo nên màu sắc, phong cách chung của thời đại. Từ đó, phong cách thời đại để lại dấu ấn trực tiếp trên phong cách cá nhân. Như vậy, có thể thấy mối quan hệ biện chứng, của những phong cách cá nhân đã làm nên phong cách thời đại, nó trao cho họ một nền tảng chung để họ tự tìm nên những biến số của mình. Sự tác động qua lại không ngừng giữa cá nhân – thời đại, đó chính là động lực phát triển trong văn học. 1.1.3. Phong cách thể loại Thể loại, bản thân nó cũng trải qua một quá trình ra đời, phát triển, đổi mới, hoàn chỉnh, đạt đến “Một cách nhìn riêng”, lúc đó mới có phong cách. Nhìn trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ song thất lục bát xuất hiện từ thế kỉ XV, nhưng phải đến giữa thế kỉ XVIII, nó mới trở thành phong cách với những tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều,… Lục bát thì đã có từ lâu trong dân gian, nhưng nó chỉ trở thành đỉnh cao, chuẩn mực khi vào tay Nguyễn Du. Thơ ngũ ngôn xuất hiện trong dân gian dưới dạng vè đã từ lâu nhưng cũng phải tới những năm 30 của thế kỉ XX thì mới có phong cách ngũ ngôn thực sự, khi nó trở thành bài hát, một khúc ca nội tâm với sự kết hợp của nhạc lý, điệp từ và vần điệu. Cũng như thể loại văn chính luận tuy xuất hiện với tần xuất thấp nhưng nó chỉ trở thành chính nó với phong cách riêng biệt trong tay của Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Thép Mới, Nguyễn Khải, … Như vậy, có thể thấy phải qua một cuộc hành trình, mỗi thể loại mới tìm được cách thể hiện phù hợp nhất với cái nhìn của thể loại. Thể loại, là một yếu tố của hình thức. Nhưng đặt ra hình thức thì dễ mà xây dựng nó thì không đơn giản chút nào, nó đòi hỏi một sự lao động nghệ thuật nghiêm chỉnh và khổ luyện, mẫn cảm. Người sáng tác khi cầm bút thông thường không có sự băn khoăn về thể loại, bởi lẽ tự thân họ đã biết mình phù hợp với thể loại nào nhất. Nhưng nhiều khi chính nội dung truyền tải đã lựa chọn thể loại hình thức cho nó, bởi phong cách 13 thể loại phù hợp được với điều mà tác giả định nói (và ở cách biểu hiện này rất đúng với trường hợp của Lưu Trong Lư). Phong cách thể loại trong mối quan hệ với phong cách tác giả và phong cách thời đại cũng như mối quan hệ biện chứng, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phong cách thể loại là một phần tạo nên phong cách tác giả như khi nói tới Nguyễn Công Hoan người ta nhớ đến truyện ngắn, nói tới Nguyễn Tuân là nhớ tới tùy bút, còn nói tới phóng sự thì ông vua phóng sự đất Bắc Vũ Trọng Phụng … đồng thời chính phong cách thể loại cũng góp phần làm nên những mảng màu đa dạng của phong cách thời đại. Đối với văn học Việt Nam, thơ là một thể loại văn học truyền thống, đạt được nhiều thành tựu. Là một thể loại nằm trong phương thức trữ tình, nhưng bản chất thơ lại rất đa dạng, với nhiều biến đổi và màu sắc phong phú. “Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống và bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp tạo nên cảm xúc, vừa gián tiếp gợi nên những liên tưởng” [2;165]. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, biến hóa qua nhiều sắc thái bất ngờ … Và ở thể loại này, thời đại nào cũng có phong cách tác giả ghi dấu ấn những lứa thế hệ kế tiếp nhau không ngừng … 1.2. Hành trình thơ Lưu Trọng Lư Những giới thuyết khái niệm ở trên, là cơ sở để chứng minh cho phong cách thơ Lưu Trọng Lư. Khác hẳn với các nhà văn, nhà thơ khác. Lưu Trọng Lư còn là nhà viết tiểu thuyết, kịch nói, kịch thơ, sân khấu, là tác giả của nhiều bài hồi kí, bút kí, phê bình văn học,… Do đó, ông có rất nhiều bài diễn thuyết, tranh luận bảo vệ Thơ mới, và cả những công trình nghiên cứu về thơ, điều đó càng khẳng định phong cách thơ Lưu Trọng Lư là một phong cách độc đáo mà không nằm ngoài dòng chảy của thơ ca hiện đại Việt Nam. Lưu Trọng Lư sinh ngày 19/6/ 1911, quê xã Bắc Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Ông học trường Quốc học Huế đến năm thứ ba, bỏ ra Hà Nội học tư rồi bỏ học đi làm báo, viết văn. Trong kháng chiến (1945 – 1954) hoạt động tuyên truyền và văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên Khu IV. Sau năm 1954, là Vụ trưởng Vụ sân khấu Bộ văn hóa, ủy viên ban chấp hành Hội Việt – Trung hữu nghị. Năm 1971 là Tổng thư kí Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Tổng biên tập Tạp chí sân khấu, là ủy viên ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (Khóa II). Từ 1983, là uỷ 14 viên Hội đồng cố vấn của Hội nhà văn và Hội nghệ sĩ sân khấu. Năm 1985, được nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng ba, năm 1990, được tặng Huân chương Độc lập hạng nhất vào năm 2000, sau khi ông mất được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Mang tâm trạng chung của thế hệ mình, Lưu Trọng Lư đến với thơ bằng cả một tâm hồn sầu mộng. Từ thuở nhỏ cậu thiếu niên ấy đã cảm nhận được nỗi buồn của người mẹ giàu tình thương và nhiều nước mắt, nỗi u hoài của người cha – một ông quan huyện bất đắc chí về nghỉ ở làng. Bước vào tuổi thanh niên, vào Huế học, từng gặp gỡ nhà nho và nhà giáo khí tiết Võ Liêm Sơn và cụ Phan Bội Châu, lúc này đang bị “an trí ” ở Huế. “Ông già bến Ngự” lúc này vẫn được thanh niên kính trọng, nhưng đã không còn có thể cho họ một con đường đi. Còn với cụ Võ, ấn tượng sâu sắc nhất để lại trong Lưu Trọng Lư là tiếng ngâm thơ “trời sầu đất thảm” của cụ, một bài tứ khúc trong Cỏ lâu mộng. Trời khó hỏi Đất khó hỏi Sự thế đảo điên Kiếp người chìm nổi … Thôi, thôi ! Thôi thánh hiền, thôi tiên phật Thôi hào kiệt, thôi anh hùng Nghìn năm sự nghiệp nước về đông … Hăm hở đến với thơ Lưu Trọng Lư tưởng như tìm thấy một con đường giải thoát bằng nghệ thuật cho tâm trạng của mình và của cả thế hệ thanh niên đương thời. Trong sự mơ hồ về nhận thức chính trị và đầy ảo tưởng về vai trò của thơ, Lưu Trọng Lư viết : “Ai cũng biết người thanh niên Việt Nam ngày nay đã chán nản về những chính trị ồn ào mà vô hiệu, đã thất vọng về những cái mộng tưởng mĩ miều và giả dối. Người thanh niên Việt Nam ngày nay chỉ ao ước có một điều, một điều mà thiết tha hơn trăm nghìn điều khác là được có một nhà thi nhân hiểu thấu mình và an ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tận tâm hồn của mình, đến chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín miệng uất ức …”. Cái ý tưởng tìm đến thơ như một cứu cánh ấy thực chất là một khao khát đi tìm sự cảm thông, và một đòi hỏi được nói lên những tâm tư u hoài, những xúc cảm mới mẻ của một thế hệ. “Người thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người 15 thi nhân của mình như con đi tìm mẹ”. Nhưng chính các nhà thơ cũng không thoát khỏi sự bơ vơ bởi họ cũng không tìm được con đường đi cho mình và thế hệ mình. Lưu Trọng Lư là người công kích thơ cũ rất hăng hái. Không chỉ công kích thơ cũ, mà còn công kích luôn cả những người làm thơ cũ và nhiều khi hơi quá đà và “xốc nổi ” (Bài thơ Thách họa cụ đồ nho là một ví dụ). Trong những ngày đầu của Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã đưa ra những lý lẽ xác đáng bênh vực cho Thơ mới và nói lên những suy nghĩ, tình cảm của bản thân, của thế hệ trẻ trong sự đối sánh với “các cụ xưa” : “… các cụ chỉ thích cái bóng trăng vàng giọi trên mặt nước, chúng ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui vẻ trên đầu ngọn tre. Các cụ bâng khuâng vì những tiếng trùng khuya, ta lại nao nao vì những tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ chỉ là sự hôn nhân nhưng đối với ta thì trăm hình muôn vẻ, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình giây phút, cái tình ngàn thu,…” (trích bài diễn thuyết tại nhà Hội học Quy Nhơn). Lưu Trọng Lư đã chỉ ra sự khác nhau giữa hai thế hệ, khác nhau về tâm hồn là vậy, ông vẫn hô hào : “Hình thức của thơ phải mới, mới luôn, cho hợp với tâm hồn của ta, tâm hồn phiền phức của ta trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới lại càng thêm phiền phức …”. Ngay từ bức thư đầu gửi Phan Khôi, Lưu Trọng Lư đã dự báo : “Một ngày kia thành thục rồi, thơ sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối rộng rãi hơn, tự do hơn …”. Tuy công kích thơ cũ (có khi tràn lan) nhưng Lưu Trọng Lư trong thực tế sáng tác lại rất trân trọng đối với những giá trị cũ. Ông tâm sự với Tản Đà rằng “dù Thơ mới có sản sinh ra được những bậc tài ba lỗi lạc ông cũng không vì thế mà rẻ rúng một Nguyễn Du bất diệt, nhà thi sĩ của muôn đời”. Có phải vì thế mà Lưu Trọng Lư không thích tham gia vào những cuộc “thí nghiệm” về thể loại lúc bấy giờ mà chỉ hài lòng trong khuôn khổ những thể thơ đã có từ trước đó. Cũng trong bức thư gửi lên Khê Thượng, nói chuyện thơ với Tản Đà, Lưu Trọng Lư cũng trình bày quan điểm của mình về điệu thơ. “Cái điệu phải hợp với thi tình, thi tứ mà cũng cần phải hợp với luật pháp nhất định của thanh âm, có như thế “mới hòng đi vào lòng ta, bằng không nó chỉ đi lên trí ta làm cho ta suy nghĩ mà không cảm xúc”. Lưu Trọng Lư vẫn có ý thức giữ lại những đường giây tiếp nối giữa truyền thống, quá khứ và hiện đại. Rồi Thơ mới đã giành được quyền sống, đã “hòa 16 giải với truyền thống” (Trần Đình Hượu). Người ta không còn phân biệt Thơ mới, thơ cũ nữa mà chỉ xét những bài thơ hay, dở,... Trong sự gần gũi với tiếng nói chung của các nhà Thơ mới lớp đầu như Thế Lữ, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Lưu Trọng Lư có một tâm hồn sầu mộng, đa tình, một sự nhạy cảm tinh tế về nhạc điệu, tạo được một “điệu tâm hồn” riêng, một tiếng đàn riêng có sức thu hút với công chúng rộng rãi của thơ lúc ấy. Sáng tác trong hai giai đoạn trước và sau Cách mạng. Lưu Trọng Lư thực sự đã tạo nên một dấu ấn riêng, một phong cách thơ độc đáo, và cho ra đời những tác phẩm thơ thật sự có giá trị. Năm 1932 – 1933, ông có thơ đăng trên báo Phụ nữ tân văn, Phong hóa, như Hoàng hôn, Xuân về, Trên bãi biển,… Năm 1939 ra đời tập thơ đầu tay Tiếng thu, người ta không có lí lẽ nào để phủ nhận sự góp công quan trọng của Lưu Trọng Lư bằng những dòng thơ trong sáng, đượm buồn với một nhạc điệu vấn vương, êm đềm. Tập thơ gồm 38 bài như một tổ khúc trầm đều, đã chiếm trọn tình cảm nồng nhiệt và lòng ngưỡng mộ của độc giả yêu thơ, đồng thời nó củng cố ngôi vị nhà thơ trên thi đàn Việt Nam. Với Tiếng thu ông xứng đáng là “con chim đầu đàn”, là một trong những “chủ tướng ” của phong trào Thơ mới. Hơn nữa, hơn nửa thế kỉ nay, Tiếng thu vẫn ngân vang trong trái tim nhiều độc giả. Họ tìm đến Tiếng thu và gặp gỡ chính lòng mình ở đó. Thi nhân nói hộ chúng ta bao điều, nói hộ cho một thế hệ trẻ những thành thực, những tình cảm sâu xa, những rung động tinh tế của lòng người. Đến năm 1945, tại Huế, Lưu Trọng Lư đã tham gia Văn hóa Cứu quốc ngay từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám. Trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đảm nhiệm chức trách Phó giám đốc Khu tuyên truyền Văn nghệ, chi hội trưởng Chi Hội Văn nghệ Liên khu Bốn, khi ở Chiến khu Hòa Mỹ (Thừa Thiên), lúc ở chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) trong những năm khói lửa gian khổ này, thơ Lưu Trọng Lư tiếp tục được khơi nguồn trẻ, phơi phới tuổi thanh xuân. Đã cho ra đời những bài thơ Ngò cải đơm hoa, O tiếp tế, Tiếng hát thanh niên,... Những năm đất nước bị chia cắt, chặng đường sáng tác thơ của ông lại in một dấu ấn tiếp theo đối với độc giả đó là việc cho ra đời tập thơ Tỏa sáng đôi bờ, năm 1958. Cả tập thơ gồm có 15 bài, nhưng không chỉ là kết quả của chuyến xâm nhập thực tế mà còn là cả một tâm sự gắn bó với quê hương, với sông Hiền 17 Lương, bờ Bến Hải. Sự chia cắt ngang trái đất nước nơi giới tuyến và cả những tâm tư, hình ảnh, tiếng gọi gắn bó của đôi bờ Bến Hải như là một nỗi ám ảnh thường trực, do đó tập thơ ra đời như muốn nói hộ lòng ông với quê hương xứ sở và những tình cảm chân thành dành cho quê hương. Không dừng lại ở đó, những năm kháng chiến chống Mỹ, mặc dù tuổi đã cao, nhưng cùng với nhiều văn nghệ sĩ, nhà thơ vẫn tha thiết với vùng tuyến lửa Khu Bốn, để thâm nhập thực tế và sáng tác. Chuyến đi vào sông Gianh, Quảng Bình năm 1966, ông viết về Người con gái sông Gianh với một niềm tự hào sâu sắc về độ cao sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sự bộc lộ rực rỡ chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tinh thần của con người Việt Nam. Ở nơi tuyến lửa, hàng ngày có bao nhiêu câu chuyện bình dị mà rất cao đẹp, rất anh hùng của những con người quả cảm. Tập thơ Người con gái sông Gianh ra đời, cả tập thơ gồm 15 bài, nhưng là quê hương đấy, là ân tình đấy. Năm 1971, tiếp tục chủ đề ca ngợi tinh thần chiến đấu cho độc lập tự do, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Do vậy, tập thơ Từ đất này ra đời, cả tập thơ gồm 14 bài nhưng lại in đậm dấu ấn quê hương và cả những vùng đất nơi nhà thơ đã đặt chân đến. Từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ Lưu Trọng Lư vẫn thể hiện một nhiệt tình gắn bó với cuộc sống, một thái độ “nhập cuộc”, đáng quý. Với sự ra đời của những bài thơ Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi (1975), Điệp khúc biển trời, Lẽ nào anh chết (1981), Giữa ổ rơm (1982), Bài thơ tình không đứt đoạn (1986), Lại lên đường (1986), Đi giữa vườn nhân (1994), Hồn lân xác, Chải lại đời anh, và Nhật ký đọc Kiều (1996),… Như vậy, qua việc tìm hiểu sơ qua quá trình sáng tác thơ của Lưu Trọng Lư chúng tôi thấy thơ ông có sự vận động hết sức mạnh mẽ hợp với quy luật phát triển của thơ ca đó là đi từ hướng nội ra hướng ngoại rồi lại trở về với hướng nội mà ngay nhan đề tập thơ Tiếng thu cũng đã cho chúng ta cảm nhận một phần nào đó về con người cũng như thơ ông. Ông quan niệm về thơ hết sức độc đáo “Thơ không phải là nhạc. Nhưng nhạc điệu trong thơ là một ngôn ngữ cực kỳ phong phú, tuyệt nhiên đó không phải là niêm luật thành khuôn phép đã sáo mòn”. Có thể thấy qua quan niệm về thơ đó chúng ta đã hiểu được một phần nào về con người nhà thơ và thơ của ông. Và không chỉ có những quan niệm về thơ hết sức độc đáo mà ngay cả trong quan niệm về sáng tác thơ, ông cũng có những cái nhìn hết sức mới lạ. Thơ tôi 18 nói : “Dăm chàng trai trẻ sầu biêng biếc – Mộng nở trong lòng sắc đỏ hoe”, và riêng tôi, là một người làm thơ, tôi muốn tìm những hình thức thoải mái, tự do, gọi là thơ mới, để tự thể hiện mình một cách chân thật nhất. Thể hiện một tâm hồn tiểu tư sản. Dẫu yếu hèn thế nào, bé nhỏ thế nào, lạc lõng thế nào, thật sự tôi muốn có một tiếng nói từ trái tim, một tiếng lòng. Tôi tạo cho mình một nhạc điệu riêng, một âm hưởng riêng…” . Điều đó thật đúng và có ý nghĩa muốn nhấn mạnh vai trò sáng tác cũng như phải hiểu được vai trò của thơ như trong bài Trước gương mà nhà thơ đã viết : Giữa đường “Từ ấy” đến “Từ góc sân nhà em” Ta không muốn làm lão thơ đầu bạc Con ve sầu lột xác Giữa mùa ve xin dâng trọn tiếng ve Ta không muốn ru mình trong một nhịp điệu quá mòn quá cũ Bằng lòng với những điều đã có Và tự ngắm mình như một con công. (Trước gương) Hơn 50 năm cầm bút, Lưu Trọng Lư đã có nhiều thành công gặt hái trên con đường thi ca, những cảm xúc thật trong trẻo tinh tế đã làm cho ông khác hẳn những nhà thơ khác cùng thế hệ. Những quan niệm về thơ là kim chỉ nam soi đường chỉ lối cho Lưu Trọng Lư sáng tác thơ. Chính những quan niệm và sáng tác đó đã đưa thơ Lưu Trọng Lư thành một phong cách lớn, một sự độc đáo mà không thể lẫn với một phong cách thơ nào khác. 1.3. Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Trọng Lư Chặng đường sáng tác khá dài trên 50 mươi năm với trên 4 tập thơ, Lưu Trọng Lư đã thể hiện cuộc hành trình của cái tôi khá là trung thực. Năm hai mươi hai tuổi gia nhập phong trào Thơ mới, lúc này nhà thơ còn rất trẻ. Ông háo hức bước vào cuộc đời và lao vào làng thơ với trọn vẹn nhiệt tình của một chàng trai thanh niên mới lớn. Với bản chất chân thật giàu cảm xúc và cách nhìn đời trong trẻo đằm thắm và tinh tế, Lưu Trọng Lư cho ra đời tập thơ đầu tay Tiếng thu (1939). Tập thơ Tiếng thu đã được giới phê bình và nghiên cứu văn học đánh giá cao. Xem là một trong những công trình văn nghệ được nhiều tiếng vang nhất trong những năm nửa đầu thế kỷ XX bởi chất thơ quyến rũ, đắm say của nó. Trong những vần thơ này, Lưu Trọng Lư viết về những kỉ niệm thời ấu thơ, về quê hương, dòng sông, chiếc cáng điều, về một phút phân tâm hay một 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan