ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------
NGUYỄN THỊ HẢI YẾN
PHONG CÁCH THƠ VÂN LONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI – 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------
NGUYỄN THỊ HẢI YẾN
PHONG CÁCH THƠ VÂN LONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LƯU KHÁNH THƠ
HÀ NỘI – 2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
3.1 Đối tượng nghiên cứu
5
3.2 Phạm vi tư liệu khảo sát
6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
5. Phương pháp nghiên cứu
6
6. Cấu trúc luận văn
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ
7
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA VÂN LONG
1. Một số vấn đề lí luận về phong cách nghệ thuật
7
2. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Vân Long
13
2.1 Chặng thơ thứ nhất
16
2.2
18
Chặng thơ thứ hai
3. Vân Long với quan niệm về cuộc đời và nghệ thuật
22
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ TRONG
THƠ VÂN LONG.
29
1. Những miền đất đi vào thơ Vân Long
29
2. Hình ảnh con người trong thơ Vân Long
40
3.
46
Cảnh sắc thiên nhiên trong thơ Vân Long.
4. Thơ viết cho thiếu nhi
55
4
CHƯƠNG III; NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TRONG
60
THƠ VÂN LONG.
1. Thể thơ
60
1.1 Thể thơ tự do - Thế mạnh của thơ Vân Long
61
1.2 Thơ bảy chữ
65
1.3 Thơ năm chữ, bốn chữ
66
2. Nghệ thuật cấu tứ
68
3. Giọng điệu
72
3.1 Giọng điệu thiết tha, sâu lắng
73
3.2 Giọng điệu triết lí, suy tưởng
76
4. Ngôn ngữ thơ
81
4.1 Ngôn ngữ thơ đậm chất văn xuôi
81
4.2 Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, sự sáng tạo trong ngôn
84
ngữ thơ
KẾT LUẬN
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
83
86
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tìm hiểu phong cách nghệ thuật của một tác giả thực chất là tìm hiểu
cái “riêng”, tìm hiểu những cống hiến nghệ thuật mà nghệ sĩ đó đóng góp cho
văn học, xác định cách nhìn cuộc sống, cách xây dựng một thế giới nghệ thuật
độc đáo, riêng biệt thể hiện trong các hệ thống cảm hứng, nhân vật, ngôn từ...
Nghiên cứu một phong cách nghệ thuật, còn là việc tìm hiểu vẻ đẹp thẩm mĩ
độc đáo của tác giả trong tiến trình văn học nói chung, qua đó góp phần khẳng
định những tài năng nghệ thuật trên con đường phát triển vừa phong phú, vừa
đa dạng của lịch sử văn học.
Nhà thơ Vân Long sinh ngày 6/3/1934 tại Hà Nội, xuất thân là một
thanh niên tầng lớp trung lưu, quê ở Việt Hòa, Khoái Châu, Hưng Yên. Vân
Long một nhà thơ có sức sáng tạo bền bỉ, mạnh mẽ qua các giai đoạn từ
những năm sau Hòa bình lập lại (1954) đến kháng chiến chống Mỹ và tiếp
những năm đổi mới cho đến hôm nay, giai đoạn đất nước đang trên đà phát
triển và hội nhập. Vào cái tuổi gần bát thập, Vân Long vẫn tiếp nối cuộc hành
trình duyên nợ với thơ . Trong thế hệ nhà thơ sau 1954, Vân Long được xuất
bản sớm nhất tập thơ đầu tay ở NXB Văn học với tập Tia nắng (1962). Theo
thống kê, hiện nay nhà thơ Vân Long là tác giả của trên 30 đầu sách gồm: thơ
11 cuốn, chân dung, tiểu luận, biên soạn 12 cuốn và sách cho các em thiếu nhi
là 11 cuốn. Ông được trao hàng chục giải thưởng Văn học trong đó có ba giải
thưởng đáng lưu ý với những đặc điểm như sau:
Một là giải thưởng Văn học Công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, 5 năm trao một lần, riêng giai đoạn 1975-1980 lại có ý nghĩa tổng
kết giai đoạn văn học thể hiện cuộc chiến đấu chống lại các hình thức chiến
tranh phá hoại của Mỹ mà Hải Phòng là nơi phải đương đầu với những thủ
6
đoạn tàn khốc không nơi nào có: bom nổ chậm ném vào phố đông dân, thủy
lôi phong tỏa khu vực biểu vào các luồng lạch Cảng Hải Phòng, bom 52 vào
trung tâm thành phố (12 ngày đêm tháng 12/ 1972). Tác giả đã rời môi trường
nghệ thuật hàn lâm ( Nhà hát giao hưởng hợp xướng Ca múa kịch) Hà Nội để
hòa mình vào cuộc sống sản xuất, chiến đấu của những người lao động Hải
Phòng mong có những trang viết sôi động chân thực (trong 10 năm từ năm
1965- 1975). Ông được coi là một trong số không nhiều những nhà thơ chủ
lực của thành phố Cảng mà giải thưởng Văn học Công nhân 1975-1980 ghi
nhận.
Hai là giải thưởng Văn học Nghệ thuật Hà Nội 5 năm ( 1986-1990) của
Hội Liên Hiệp Văn Học nghệ thuật nhằm phát hiện, đánh giá thành tựu 5 năm
đầu thời kỳ Đổi Mới của Văn học nghệ thuật thủ đô. Giải thưởng đó có hai
giải Đặc biệt (trong đó có một giải dành cho toàn bộ các tác phẩm nghiên cứu
về Hà Nội của cụ Hoàng Đạo Thúy), các hội chuyên ngành đều có giải nhất,
như họa sĩ Lương Xuân Nhị với họa phẩm Chợ Tết, nhạc sĩ Hoàng Hiệp với
ca khúc Nhớ Hà Nội, Hoàng Kim Đáng với bức ảnh Thăng Long – Hà Nội,
nhà văn Trần Chiến với cuốn Con bụi, Vân Long với tập thơ Vào
thu…Nhưng sau, để làm rõ giá trị toàn bộ công trình và vị trí đóng góp lớn
của cụ Hoàng Đạo Thúy (giải đặc biệt thứ hai là của ông Hoàng Tích Chù với
hai tác phẩm Giã gạo xóm ngoại thành và Tiếng hát hòa bình), Ban tổ chức
đổi tên Giải đặc biệt thành giải Nhất, nên các giải Nhất đầu bảng các hội
chuyên ngành đều đổi tên thành giải Nhì. có nghĩa những tập thơ ra đời 5 năm
sau đổi mới ở Hà Nội chưa tập nào vượt tập Vào thu).
Ba là giải thưởng hàng năm của Hội nhà văn Hà Nội từ năm 2001 có
quy chế: trao cho mỗi thể loại một giải: thơ, truyện và chân dung văn học.
Giải thưởng chân dung văn học 2001- 2002 là tập Những gương mặt – những
trang đời của Vân Long.
7
Những giải thưởng đã ghi nhận sức sáng tạo bền bỉ của thơ Vân Long
trong nền thi ca hiện đại Việt Nam. Đó không chỉ là sức sống của một trái tim
đa cảm, giàu trí tuệ mà còn là sức sống của một phong cách gần gũi, đậm chất
suy tư, chân mộc mà vẫn tinh tế của người Hà Nội. Tìm đến với thơ Vân
Long sẽ đem đến cho bạn đọc nhiều điều thú vị, sẽ được khám phá tâm hồn
của một tài năng – một nhà thơ nội tâm sâu lắng.
Chọn đề tài nghiên cứu thơ Vân Long người viết mong muốn ứng
dụng những lí luận về phong cách tác giả để góp thêm một tiếng nói khẳng
định vẻ đẹp và những giá trị riêng biệt của một hồn thơ đa cảm, giàu bản lĩnh
trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Qua đó, chỉ ra con đường vận động,
biến đổi không ngừng của thơ nói riêng trong dòng chảy văn học dân tộc nói
chung.
2. Lịch sử vấn đề
Vân Long thuộc lớp nhà thơ chính thức xuất hiện sau năm một 1954 cùng
với Bùi Minh Quốc, Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Nguyên Bao…Ông đã có
rất nhiều cống hiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, người đời
nhắc tới ông nhưng không nhiều và chưa tương xứng với lượng sách nhà thơ
đã viết, những việc ông đã làm cho đời sống văn học.Thơ Vân Long chưa
thực sự được nghiên cứu một cách đầy đủ và chặt chẽ trên hai phương diện tư
tưởng nghệ thuật và hình thức biểu hiện. Nhưng nếu ai đã đọc và tìm hiểu thơ
Vân Long lại thấy vô cùng tâm đắc như thể tác giả tri âm với mình, thấy được
sự day dứt, được mênh mang, thăng hoa với vùng tâm cảm. Hiện nay thơ Vân
Long đã và đang được nhiều bạn đọc quan tâm, chú ý như một tác giả có sức
sáng tạo bền bỉ, mạnh mẽ qua các giai đoạn từ những năm sau Hòa bình lập
lại (1954) đến kháng chiến chống Mỹ và tiếp những năm đổi mới cho đến
hôm nay, giai đoạn đất nước đang trên đà phát triển và hội nhập. Vào cái tuổi
gần bát thập, Vân Long vẫn tiếp nối cuộc hành trình duyên nợ với thơ bằng
những sáng tác mới và bằng cả những tâm sự nghề nghiệp, những nhận xét,
8
bàn bạc theo dòng thời sự thơ đang bộn bề, thách thức. Ông là một trong hiếm
hoi thi sĩ đích thực, lấy ngọn đèn và trang giấy làm lý do tồn tại trên đời. Thơ
ông đã chiếm trọn trái tim bạn đọc và để lại niềm cảm phục cùng sự trân trọng
trong lòng bè bạn.
Vân Long được trao tặng đó là giải thưởng Văn học Công nhân 19751980. Đây giải thưởng đã ghi nhận những cống hiến của ông cho những trang
thơ ông viết dành tặng thành phố Cảng với tập thơ Qua những miền đất. Với
tập thơ này đã có một số bài viết nghiên cứu và đánh giá như:
Đọc tập thơ Qua những miền đất tác giả Nguyễn Viết Lãm đã tinh tế
phát hiện ra được “Những tình cảm kính phục và yêu thương đối với con
người trên thành phố Cảng trong thơ Vân Long. Họ là những con người sẵn
sang hy sinh để giữ cho ngọn đèn biển Long Châu không bao giờ tắt, là anh
thuyền trưởng biết theo con đường của Đảng vạch cho, luôn luôn sáng tạo và
tự tin trên đại dương mênh mông”.
Trần Lê Văn, ở tập Qua những miền đất đã khám phá ra một đặc điểm
tiêu biểu cho sáng tác của Vân Long qua tập thơ này : “Vân Long luôn trân
trọng, cần cù quan sát, cảm nhận, ngưỡng mộ, ngợi ca. Có khi anh ghi chép
thực tế giống như một phóng sự thơ, bút ký thơ. Có khi anh nhào nhuyễn thực
tế giống như một nhà nghệ thuật để tạo nên một sản phẩm ảo mà thật. Dù
bằng bút pháp nào, Vân Long cũng đạt được một hiệu quả là làm cho chúng ta
thấy một Hải Phòng vốn đã đẹp lại càng đẹp trong gian lao thử thách.”
Trong tập thơ Vào thu tác giả Trúc Thông cho rằng đây là tập thơ “nổi
lên sự quan sát sắc xói chính mình, phơi bày những góc sâu tối trong mình,
bắt thóp những bâng quơ, mơ hồ của mình. Vân Long cựa quẫy, tự vật lộn,
gắng trung thành và tự do với chính mình, diễn đạt với một nỗ lực đầy lương
tâm nghề nghiệp, nghĩa là chăm lo một cách khá nghiêm cẩn đến hoạt động
đổi mới hệ thống thi pháp của mình”
9
Hay với tập thơ Dưới lá xanh tác giả Đỗ Ngọc Yên đã nhận xét “Dưới
lá xanh là sự thao thức của một người không thích ồn ã, sự thao thức của anh
là để cho con người và cuộc đời này thêm tốt đẹp hơn. Sự thao thức ấy dường
như còn quá thiếu ở thơ ca đương đại. Thơ anh viết cho mình, nhủ lòng mình
hơn là khuyên răn người khác. Đây chính là một trong những phẩm chất đích
thực của thi ca và cũng là cốt cách sống của anh Vân Long.”
Nhìn một cách tổng quát, hầu hết các bài viết, bài nghiên cứu đều nhận
thấy ở Vân Long là một nhà thơ có phong cách sáng tạo. Tác giả Băng Sơn đã
nhận xét về Vân Long như sau: “ông không đi tìm thơ mà thơ tự đến. Nó tự
nhiên như nụ cười hồ ly tinh bất chợt của cô gái qua đường, như dòng sông
không ai đẩy mà tự chảy, như chiếc lá tự xòe ra trong nắng sớm…”.Vân Long
luôn có ý thức khai thác chiều sâu của cuộc sống, dồn tâm lực, tài năng cho
việc tìm kiếm sáng tạo cái mới.
Trong quá trình khảo sát và điểm qua một số công trình nghiên cứu thơ
Vân Long, người viết tự nhận thấy:
Việc xem xét đánh giá thơ Vân Long, chúng tôi thấy rằng hầu hết
những bài đánh giá mang tính tổng quan về thơ Vân Long đều có điểm chung
là sự kính trọng đối với nhân cách thơ bên cạnh sự khai mở về thi pháp và tư
tưởng của nhà thơ trong đời sống thi ca đương thời. Tuy nhiên những nhận
xét đánh giá này chỉ dừng lại ở những bài viết về một bài thơ, một tập thơ
hoặc một phương diện nào đó chưa mang tính toàn diện, khái quát, chuyên
sâu. Vì vậy, nghiên cứu Phong cách thơ Vân Long cho đến nay, vẫn là một
vấn đề mới mẻ, hấp dẫn, có sức thu hút lớn đối cới tất cả những ai yếu mến
thơ Vân Long trong suốt thời gian qua.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong toàn bộ sự nghiệp thơ ca của nhà
thơ Vân Long.
10
3.2 Phạm vi tư liệu khảo sát
Các tập thơ của Vân Long: Tia nắng(1954-1962), Qua những miền đất
( 1962-1980);Gió và lửa (1980-1983); Vào thu (1983-1990); Những khối hình
câm (1990-1993); Dưới lá xanh ( 1993-1999); Đỉnh gió ( 1999-2009);Nghìn
cây số hoa (1970-1996). Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo những tác phẩm
của nhà thơ Vân Long ở thể loại khác như tiểu luận phê bình, chân dung văn
học và thơ của một số nhà thơ khác để có sự so sánh đối chiếu cần thiết.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu phong cách thơ Vân Long trên các phương diện nội dung và
nghệ thuật. Xác định những đóng góp của Vân Long đối với nền thơ Việt
Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp thống kê - phân loại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn
được triển khai qua 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về phong cách nghệ thuật của nhà
thơ và hành trình sáng tạo của Vân Long.
Chương II: Đối tượng thẩm mỹ trong thơ Vân Long.
Chương III: Nghệ thuật thể hiện trong thơ Vân Long.
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH NGHỆ
THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA VÂN LONG
1. Một số vấn đề lý luận về phong cách nghệ thuật
Khi nói đến khái niệm phong cách là nói đến một vấn đề phức tạp bởi
từ trước đến nay chúng ta chưa đi tới một khái niệm phong cách thống nhất,
chính vì vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phong cách.
Ban đầu khái niệm phong cách xuất hiện trong các từ ngữ của một số
ngôn ngữ trên thế giới. Từ những nghĩa từ vựng cụ thể, dần dần khái niệm
phong cách được hình thành trong các nghĩa chuyển của các từ đó, nhằm ám
chỉ các đặc điểm cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.
Thuật ngữ phong cách có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Người Hi Lạp
dùng từ “Stylos” để chỉ một cái que đầu nhọn, đầu tù, người La Mã thì gọi là
“Stylus” cũng là để chỉ cái que đó nhưng đầu nhọn dùng để viết và đầu tù
dùng để xáo trên một tấm bảng nhỏ có xoa sáp. Về sau người Pháp dùng từ
“Style” nhưng ban đầu chỉ có nghĩa là nét chữ, sau dần có nghĩa là bút pháp
với những đặc điểm ngôn ngữ và văn thể. Giáo sư Nguyễn Lân cho rằng
phong cách là cách diễn đạt riêng biệt của nghệ sĩ hoặc “Toàn bộ những nét
riêng biệt tạo nên đặc trưng của một dân tộc”. Thế nhưng cho đến nay những
cuộc tranh cãi về phong cách chưa phải đã hoàn toàn đã chấm dứt. Khái niệm
này nhiều khi được hiểu theo một cách linh hoạt, được áp dụng cho nhiều
trường hợp khác nhau: phong cách dân tộc, phong cách văn học…
12
Riêng trong lý luận văn học, khái niệm phong cách thường được dùng
để chỉ hai loại hiện tượng: nhà văn (phong cách Xuân Diệu, phong cách Hàn
Mạc Tử…), hoặc một trào lưu văn học nào đó (phong cách hiện thực, phong
cách cổ điển…). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu văn học thường hay nói đến
phong cách nhà văn, nhà thơ.
Trong thực tế, một số nhà nghiên cứu văn học đã trao cho khái niệm
này một nội hàm khá rộng. Ví như Lêkhachop trong thi pháp văn học Nga cổ
đã quan niệm rằng phong cách nghệ thuật là sự thống nhất của cảm hứng
chung về hiện thực, bản chất của nhà văn và phương pháp sáng tác.Trải qua
một quá trình lâu dài của văn học và ngôn ngữ, khái niệm phong cách mới
được hiểu và sử dụng như ngày nay. Còn Grigoorrian thì bảo rằng phong cách
không phải mang trong mình nó thế giới quan, các thủ pháp nghệ thuật, khả
năng nhận thức của nghệ sĩ về thời đại, dấu ấn của một dân tộc…
Có thể nói cách quan niệm trên đây như chỉ ra được thực chất của khái
niệm phong cách nghệ thuật. Phong cách không thể bao hàm phương pháp
sáng tác. Giữa hai khái niệm này có mặt gần gũi nhưng không thể trùng khớp
vì xa về bản chất, phương pháp sáng tác là nguyên tắc phản ánh hiện thực.
Giáo sư G.N Pospalôp trong “Dẫn luận nghiên cứu văn học” đã đưa ra
một cách nhìn hợp lý hơn về phong cách nghệ thuật. Ông viết “Sự thống nhất
thẩm mỹ của mọi chi tiết hình tượng- biểu cảm của hình thức tác phẩm, phù
hợp với nội dung của nó, đó là phong cách” [48, tr 176]
Sự xuất hiện của hàng loạt ý kiến về phong cách cá nhân nghệ sĩ trong
lý luận Xô Viết những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ này nói lên rằng:
phong cách là một khái niệm phức tạp. Trong số đó, người ta thường nhắc đến
ý kiến của Viện sĩ Liên Xô M. B Khrapchencô. Nhà nghiên cứu này xem xét
phong cách trong mối tương quan giữa hình thức và nội dung tác phẩm.
Giống như G.N Pospelôp cho rằng hình thức bao giờ cũng bộc lộ một nội
dung tương ứng, hình thức không có giá trị tự phân, nó chỉ có ý nghĩa khi kết
13
hợp nhuần nhuyễn, hợp lý với nội dung tư tưởng của tác phẩm.
M.B.Khrápchencô khẳng định: “phong cách được hiểu như cách biểu hiện sự
khai thác hình tượng đối với hiện thực, như cách biểu hiện sự tác động tư
tưởng tình cảm, không thể đồng nhất với nội dung. Trong việc xây dựng
phong cách nghệ thuât không chỉ thể hiện về đặc thù của những mặt nhất định
của nội dung. Cái mà người ta thường gọi là hình thức – ngôn ngữ nghệ thuật,
cốt truyện, bố cục, nhịp điệu…tất cả những cái đó trong ý nghĩa chung của
chúng là thuộc về phong cách, nhưng ngoài cái đó ra, phong cách còn bao
gồm cả những đặc điểm của sự thể hiện tư tưởng, đề tài, của sự khắc họa các
nhân vật, những yếu tố âm điệu của tác phẩm nghệ thuật. Đặc trưng của
phong cách không phải là những yếu tố riêng lẻ này hay những yếu tố riêng lẻ
khác của hình thức và nội dung mà là tính chất đặc biệt của sự “ kết hợp” giữa
chúng”. [50, tr166-167]
Cái mà tác giả ý kiến này luôn chú ý là sự “kết hợp” một cách đặc biệt
giữa hình thức và nội dung tác phẩm. Bởi vì, phong cách không bao giờ được
hình thành từ những yếu tố riêng lẻ, tách rời. Nghiên cứu về phong cách
M.B.Khrápchencô cũng đề cập đến khả năng “thuyết phục độc giả” của nhà
văn. Phương diện này rất gần với phạm vi nghiên cứu của lý thuyết tiếp nhận
đang rộ lên trong những năm gần đây.
Ở Việt Nam, khái niệm phong cách cũng được giới nghiên cứu văn học
chú tâm giải thích và định nghĩa sao cho thỏa đáng. Trong giáo trình lý luận
giành cho sinh viên Đại học sư phạm, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng “
Phong cách là tổng hòa những đặc điểm, cả về tư tưởng và nghệ thuật, nội
dung và hình thức biểu hiện, quy định bản sắc độc đáo của nghệ sĩ”[35, tr
120] .Giáo sư Phương Lựu cũng nhận thấy phong cách là “ chỗ độc đáo mang
phẩm chất thẩm mĩ cao được tính trong sự sáng tạo của nhà văn”. [39, tr178]
Còn giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì quan niệm: khái niệm phong cách thực
chất là một khái niệm chỉ “quan hệ”. Nó trước hết được thể hiện ở hình thức
14
nghệ thuật. Tuy nhiên nhà nghiên cứu này chú ý nhấn mạnh mối quan hệ giữa
phong cách và tư tưởng nghệ thuật “Nhưng nếu không nắm được tính độc đáo
của tư tưởng nhà văn và tác phẩm - ở đây là tư tưởng – nghệ thuật (Idée
poatstique) thì cũng khó quan niệm được phong cách một cách sâu sắc”. [35,
tr 76-77]
Từ góc độ nghiên cứu của phong cách học Phan Ngọc đã trình bày cách
hiểu của mình trong một tác phẩm nghiên cứu về Truyện Kiều. Ông cho rằng
tìm hiểu phong cách là tìm hiểu những đóng góp riêng nghệ sĩ mà “trước đó
không ai làm được và sau đó cũng khó ai làm được” [38, tr9]
Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu văn học đều coi phong cách như
là sự độc đáo riêng biệt của nghệ sĩ thể hiện trong sáng tạo nghệ thuật. Nói
như vậy cũng có nghĩa là không phải bất cứ nhà văn nào cũng tạo được phong
cách. Không hiếm những tác phẩm vừa mới ra đời đã bị quên lãng và tác giả
của nó đã bị chìm khuất trong hàng triệu người bình thường khác. Thời gian
là thước đo nghiêm ngặt nhất quy định sự tồn vong của tác phẩm. Không phải
ngẫu nhiên mà có lần Sacmisepxky đã lên tiếng: “Một nửa số tác phẩm của
Sinde và chín phần mười tác phẩm của Gớt là những tác phẩm của tôi. Thế
nhưng những cái còn lại đã vượt hẳn lên tất cả những gì được viết bằng tiếng
Đức”. Còn “con sư tử” của nền văn học Nga LépTônxtôi thì đòi hỏi: “Nào,
anh là con người như thế nào đây? Anh có gì khác với tất cả những người mà
tôi đã biết, và anh có thể nói cho tôi một điều gì mới mẻ về việc cần phải nhìn
cuộc sống chúng ta như thế nào”.
Thật hiển nhiên “tuổi thọ” của tác phẩm chỉ có thể trông đợi và cái
“mới mẻ”, cái “ khác với tất cả mọi người” mà thôi, nó chỉ chấp nhận sự sáng
tạo thực sự. Để có được phong cách, nhà văn phải thực sự là người có tài.
Theo Raymond Caver, một nhà văn hiện đại xuất sắc thế kỉ XX cho
rằng: “mỗi nhà văn vĩ đại hay thậm chí mỗi nhà văn rất giỏi đều sáng tạo nên
thế giới phù hợp với chính đặc tính của anh ta.” Nói cách khác, thế giới nghệ
15
thuật của nhà văn tương ứng thích với phong cách nghệ thuật của nhà văn đó.
Mối quan hệ qua lại này cho phép chúng ta đi từ văn bản nghệ thuật do nhà
văn sáng tạo ra để chỉ ra đặc trưng phong cách nghệ thuật của nhà văn đó...
“Đây là dấu ấn không thể nhầm lẫn và đặc thù của nhà văn trên mọi thứ anh ta
sáng tạo. Đây là thế giới của riêng anh ta chứ không phải của bất kỳ một ai
khác. Đây là một trong những điều phân biệt nhà văn này với nhà văn nọ (…)
một nhà văn thì phải có cách nhìn đặc biệt nào đó về sự vật và phải in cách
diễn đạt nghệ thuật lên cách nhìn đó” [33, tr356]
Theo nhà thơ Hoàng Trung Thông: “Phong cách và cá tính nhà văn
không phải là cái gì khó hiểu. Đó là biểu hiện của mỗi nhà văn trong khi xây
dựng đề tài, nhân vật, trong khi vận dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ
văn học. Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho
mình một phong cách riêng, một điệu cảm xúc riêng” [26, tr14]
Phong cách được hiểu đó là sự những khám phá nghệ thuật mang tính
cá nhân được hình thành những nét chủ đạo lặp đi lặp lại trong sáng tác của
một tác giả nào đó. Phong cách nghệ thuật trước hết là hình thành từ cá tính
sáng tạo của tác giả, nhưng cá tính sáng tạo chưa phải là phong cách. Nhìn
chung khái niệm phong cách thường được định vị cho những nét nghệ thuật
của những tác giả có đóng góp lớn, trong khi đó bất kỳ nghệ sĩ nào hoạt động
trong lĩnh vực nghệ thuật cũng đòi hỏi cá tính sáng tạo riêng. Và nó là “thước
đo nghệ thuật” để khẳng định tài năng, vị trí nhà văn trên thi đàn.
Chẳng hạn trong bài mở đầu có tựa đề Một thời đại trong thi ca, với con mắt
tình đời của nhà phê bình văn học tài hoa và xuất chúng, tác giả Thi nhân Việt
Nam đã khái quát về phong cách văn học của phong trào Thơ mới trong mười
năm đầu (1932-1941) và phong cách nghệ thuật của một số nhà thơ mới tiêu
biểu như sau: “ Một thời đại vừa chẵn mười năm…Tôi quả quyết rằng trong
lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại nào phong phú như thời
đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng
16
mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực,
băn khoăn như Xuân Diệu.”
Như vậy, từ việc điểm qua những ý kiến tiêu biểu về khái niệm phong
cách đã cho phép chúng ta nhận diện một cách đầy đủ hơn khái niệm phong
cách nghệ sĩ. Từ các ý kiến đó, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau:
1-
Phong cách thể hiện một cách nhìn mới mẻ, cách trình bày và
kiến giải độc đáo những vấn đề mà nghệ sĩ quan tâm thông qua những hình
tượng nghệ thuật đặc sắc.
2-
Nghiên cứu phong cách là nghiên cứu hình thức phù hợp với nội
dung, hình thức bao giờ cũng phải mang tải, chứa đựng một nội dung tương
ứng.
3-
Dĩ nhiên, sự “phù hợp”, “kết hợp” trên đây phải làm hiện lên sự
thống nhất tất cả mọi dáng vẻ độc đáo của nhà văn. Giữa phong cách và
phương pháp sáng tác có sự khác biệt cần nhận thấy. Nói đến phương pháp
sáng tác là nói đến chân lý nghệ thuật, chiều sâu nhận thức về chất lượng lí
tưởng, nói đến những giai đoạn phát triển trong lịch sử văn nghệ; còn nói đến
phong cách là nói đến đặc sắc riêng của nhà văn. Phong cách hiện ra như một
phẩm chất, nó kết hợp một cách biện chứng hàng loạt những yếu tố khác nhau
như thế giới quan, vốn sống, trình độ văn hóa, năng khiếu nghệ thuật, đặc biệt
là cá tính sáng tạo.
Gần đây, người ta thường nói đến sự gần gũi giữa thi pháp và phong
cách. M.B. Khrápchencô cho rằng khái niệm thi pháp rộng hơn khái niệm
phong cách, nó có thể bao hàm cả phong cách sáng tạo. Vì thế, trong luận
văn, chúng tôi cố gắng sử dụng những hiểu biết có thể của mình để tìm hiểu
kỹ hơn về phong cách thơ Vân Long.
17
2. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Vân Long
Các chặng đường thơ của Vân Long trải dài theo hành trình sống phong
phú của một con người tài hoa mà tính tình lại mực thước, lặng lẽ. Năm nay
đã gần 80 tuổi, Vân Long vẫn tiếp tục cuộc hành trình duyên nợ, ông có cái
nhìn lão thực về vị thế khiêm tốn của mình: “ Tôi là loài cá ăn chìm / Thơ và
đời lặng lẽ…” Vâng, lặng lẽ nhưng quyết liệt, như những ngọn cây cứ “Sục
tìm trong khoảng biếc” thi ca!
Theo thống kê sơ bộ hiện nay nhà thơ Vân Long, là tác giả của 34 đầu
sách, gồm thơ 11 cuốn, chân dung, tiểu luận, biên soạn 12 cuốn và sách cho
thiếu nhi 11 cuốn. Con số đó kể cũng đáng nể ở nước ta, tuy vậy ông vẫn
không dừng ở đó mà vẫn miệt mài với hành trình của mình. Nhìn lại chặng
đường thơ của ông có thể chia ra làm hai chặng: Chặng thứ nhất từ năm 19541980 và chặng hai từ năm 1980 đến nay. Với những tập thơ tiêu biểu như: Tia
nắng (1962), Qua những miền đất (in chung năm 1980), Gió và lửa (in chung
năm 1983), Vào thu (1990), Những khối hình câm (1993), Dưới lá xanh
(1999).
Nhà thơ Vân Long sinh ngày 6/3/1934 tại Hà Nội, xuất thân là một
thanh niên tầng lớp trung lưu. Ông có một cuộc đời với khá nhiều thăng trầm.
Năm 1945, Vân Long lúc đó là chú bé 11 tuổi, nhờ sớm được sinh hoạt
trong một đoàn Hướng Đạo có các huynh trưởng đang hoạt động bí mật
chống Pháp Nhật, các anh tận dụng những buổi hội họp, đi cắm trại mà giác
ngộ cho lứa trẻ mới vào Đoàn về tinh thần yêu nước. Chú bé đã say mê hòa
vào dòng người dự các cuộc mít tinh từ những ngày Hà Nội sục sôi cướp
chính quyền 19 tháng Tám, dự cuộc mít tinh lớn nghe bác Hồ đọc tuyên ngôn
Độc Lập 2-9. Khi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Vân Long đang trong
hoàn cảnh gia đình éo le: Bố mẹ ly hôn từ khi anh vừa lọt lòng. Rồi bố mẹ
anh đều lập gia đình riêng, hai chị em anh được bà ngoại nuôi cho ăn học.
Nhưng tình thế buộc người dân Hà Nội phải tản cư về các vùng quê, bà ngoại
18
anh già yếu buộc phải trả anh về với gia đình bố để anh tiếp tục được ăn học ở
vùng quê kháng chiến.
Nhưng ở một gia đình đông con, anh có tới 8, 9 người em cùng cha
khác mẹ. Gia đình khi đã cạn nguồn sinh sống, buộc phải “dinh tê” Hà Nội.
Khỏi phải nói, Vân Long sa vào hoàn cảnh…như một “ốc đảo” giữa
một gia đình lớn chưa quen thuộc, kể cả người cha mà lúc ấy anh mới biết
mặt. Về Hà Nội, anh phải nghỉ học để giúp bố tiếp tục mở hiệu sản xuất chè
gói và quản lý một hiệu may cho các em được ăn học. Một ngày làm việc
hàng chục tiếng trong tâm trạng buồn khổ vì không được học tiếp, tương lai
rồi sẽ ra sao? Rồi hoài nhớ những lớp học cùng bạn bè vùng kháng chiến đến
se thắt. Rồi nỗi buồn một thiếu niên đang lớn dần vào tuổi thanh niên giữa
một thành phố bị chiếm đóng, nhìn những cảnh trái tai gai mắt mà bất lực,
anh như nạn nhân của mấy tầng bất công.
Nhưng, “cùng tắc biến”, anh tìm thấy nguồn an ủi trong việc gửi tâm
trạng mình trong những dòng thơ, và một thời gian ngắn, thơ anh được in trên
các báo, nỗi buồn như được sẻ bớt. Anh được in bài thơ đầu tiên từ năm 16
tuổi (1949). Ảnh hưởng cái “sầu vũ trụ” của mấy nhà thơ đàn anh Vũ Hoàng
Chương, Đinh Hùng đang làm báo ở Hà Nội lúc ấy, trong bài thơ đầu được in,
có đoạn anh viết như một người già: “Đã một lần hơn tôi ước mong/ Địa cầu
vụt nổ giữa hư không/ Cho tan những mối sầu nghìn kiếp/ Chuyện thế vơi đầy
giây phút xong!”
Từ đó đến tháng 10 -1954, anh có hàng dăm chục bài thơ in báo, kể cả một
kịch thơ in trong giai phẩm Xuân Đẹp, cùng với những danh sĩ vùng tạm
chiếm như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Anh chuyển dần về bút pháp (già
dặn hơn, thoát dần khỏi những ước lệ và khuôn sáo cũ), về tư tưởng và phong
cách, anh đã được ảnh hưởng những nhà văn đàn anh mới rời kháng chiến về,
như Sao Mai, Hoàng Công Khanh. Nhiều người “được phép” trở về Hà Nội
để chữa bệnh, nhưng “tương kế tựu kế”, các anh đã hoạt động trí thức vận và
19
làm báo công khai. Cùng với những tin chiến thắng từ kháng chiến vọng về,
bộ máy kiểm duyệt lơi lỏng dần, để Vân Long có thể in bài thơ Lửa Yên Khê
trên báo Đời Mới (25 tháng 3 – 1954, xuất bản tại Sài Gòn).
Với cuộc đời nhiều sóng gió như vậy nhưng bằng chính những cố gắng,
nỗ lực của bản thân, ít ai ngờ sau này ông đã trở thành nhà thơ, chuyên viên
biên tập thơ hàng chục năm ở NXB Hội Nhà văn, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội
nhà văn Hà Nội một thời gian và đảm trách phần văn nghệ cho báo Sức khỏe
và đời sống sau khi nghỉ hưu ở NXB Hội Nhà văn cho đến nay. Trước và
trong khi làm một nhà thơ ông đã từng là một diễn viên đàn violon trong dàn
nhạc giao hưởng. Chính bản thân ông đã từng giễu mình khi bỏ giàn nhạc để
chuyển sang làm thơ là chuyển từ một nghề “nghèo nhì” sang nghề “nghèo
nhất”. Và phải chăng chính bởi gia cảnh xuất thân với nhiều trắc trở như vậy
mà ông càng trở nên lặng lẽ, thâm trầm cả trong đời lẫn trong thơ. Nếu ai đã
từng có dịp gặp gỡ hay tiếp xúc với nhà thơ Vân Long đều có một cảm nhận
chung về vẻ điềm đạm, kiệm lời, có phần lặng lẽ . Bởi lẽ ông thuộc lớp người
cũ, vốn thích suy ngẫm nhiều hơn là nói ra thành lời, thích sự chiêm nghiệm,
thấu đáo hơn là vẻ ồn ào, náo động của cuộc sống hiện đại. Nhà thơ luôn tỏ ra
không bằng lòng với mình, không chịu yên vị, luôn trăn trở làm mới thơ
mình. Ông luôn linh hoạt, biến hóa qua các đề tài, hình thức, để không lặp lại
chính mình.
Vân Long là tạng người thơ không chịu cũ. Nhà thơ luôn ý thức được
việc làm mới mình để có thể đồng hành cùng với nền thơ đương đại và nhịp
thở nóng hổi của cuộc sống thường nhật.
Dù trữ tình hay tự sự, hướng nội hay hướng ngoại, thơ Vân Long luôn
để lại những dấu ấn sáng tạo – dấu ấn lao động trong thơ góp phần đem đến
sự đa dạng, nhiều màu sắc trong nền thơ ca dân tộc.
20
2.1 Chặng thứ nhất
Vân Long bắt đầu sáng tác và có thơ in báo năm ông 16 tuổi. Mười
năm từ những sáng tác ban đầu, kết tinh lại trong tập thơ Tia nắng 1962NXB Văn học, tập thơ in riêng đầu tiên như tấm bằng chứng nhận một tác giả
đã sớm có phong cách riêng. Ở chặng thơ này cùng với đất nước, năm 1965
là năm biến động lớn trong đời thơ Vân Long. Một tháng sau khi cưới vợ, ông
phải chuyển công tác xuống Hải Phòng để lại người vợ trẻ ở Hà Nội. Rồi
mười năm chiến tranh ác liệt nhất của thành phố Cảng là mười năm ông sống
đơn lẻ viết và sáng tác. Có thể nói Vân Long là người làm chủ được cuộc
sống tinh thần của mình, dù trong biến động nào, vẫn là con người điềm tĩnh,
mực thước, hết lòng với công việc, có trách nhiệm với thơ, sáng tác cũng như
nghiên cứu… Đấy là mẫu mực của một nhà thơ- gắn bó đời thơ với Đất nước,
đứng ở vị trí người công dân tận tụy, gương mẫu, sáng tạo.
Trong chặng thơ này, Vân Long trải qua rất nhiều vùng đất, dấn mình
trong gió và lửa của cuộc sống, nhưng để lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn cả
vẫn là mảng thơ viết về Hải Phòng.
Vân Long đã đưa lên được những ký họa, khắc được những nét sắc
cạnh về cuộc sống bề bộn và năng động, cái dáng vóc vạm vỡ và dầu bụi của
thành phố Cảng trong khói lửa chiến đấu ác liệt với máy bay Mỹ.
Thành phố mang hơi thở đại dương
Những đại lộ
đạn bom còn khét nồng mặt nhựa
…Những hình khối lớn cao
Lầm lũi đi trong mùi dầu xe quyến rũ
Hải Phòng căng bầu ngực khổng lồ
Dòng sữa không ngừng chẩy đi khắp ngả
(Hải phòng- Đêm mùa thu 1967)
21
- Xem thêm -