Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự việ...

Tài liệu Luận văn quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự việt nam

.PDF
99
368
90
  • 5
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Hiện nay, quyền con người đang được cộng đồng quốc tế hầu hết các
    quốc gia coi trọng, đề cao xem đó như thước đo của sự tiến bộ hội cũng
    như sự hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. hội ngày càng phát
    triển thì các quyền của con người ngày càng được tôn trọng bảo vệ. Bên cạnh
    các quyền về kinh tế, quyền về chính trị,... thì các quyền về dân sự luôn được đề
    cao, trong đó bao gồm cả các quyền nhân thân của nhân. Tại Việt Nam
    cũng vậy, quyền nhân thân của nhân nói chung quyền nhân thân đối với
    hình ảnh nói riêng được quy định trong pháp luật dân sự ngày càng được
    hoàn thiện, trở thành một trong những quyền dân sự được pháp luật quan tâm,
    bảo vệ một cách tối đa.
    Trong bối cảnh các thiết bị ghi hình, quay phim, chụp ảnh ngày càng hiện
    đại phổ biến như hiện nay thì việc kiểm soát hình ảnh của nhân càng gặp
    nhiều khó khăn, do đó, hơn bao giờ hết, nguy xâm phạm quyền nhân thân nói
    chung và quyền của nhân đối với hình ảnh nói riêng trên thế giới cũng như tại
    Việt Nam rất lớn. Thông qua môi trường công nghệ thông tin, các nhân
    thể dễ dàng kết nối, truy cập, công khai và phát tán hình ảnh của người khác, đặc
    biệt đối với những người nổi tiếng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự,
    nhân phẩm, uy tín của người hình ảnh, thậm chí nhiều vụ việc còn gây ra hậu
    quả rất nghiêm trọng.
    Mặc các nội dung liên quan đến quyền nhân thân của nhân đối với
    hình ảnh đã được quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995 và ngày càng chi tiết hơn
    tại Bộ luật dân sự năm 2005, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn
    gặp nhiều vướng mắc, bất cập do tồn tại một số quy định pháp luật chưa rõ ràng,
    chưa phù hợp với thực tiễn hoặc thiếu chế điều chỉnh. Mặt khác, chính các
    nhân bị xâm phạm còn chưa nhận thức được quyền chế bảo vệ quyền,
    thậm chí, nhận thức được nhưng chưa triệt để bảo vệ quyền khi bị xâm phạm.
    Trang 5

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ĐẶNG THỊ LƯU QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phùng Trung Tập HÀ NỘI - NĂM 2016 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo đều trích dẫn nguồn đầy đủ. Xác nhận của giảng viên hướng dẫn Học viên PGS,TS. Phùng Trung Tập Đặng Thị Lưu 3 LỜI CẢM ƠN! Được sự phân công của khoa Pháp luật Dân sự Trường Đại Học Luật Hà Nội và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn PGS,TS. Phùng Trung Tập, tác giả đã thực hiện đề tài “Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam”. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến các thầy cô của trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô khoa Pháp luật Dân sự đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở trường giúp tác giả có kiến thức nền tảng để nghiên cứu luận văn; xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS,TS. Phùng Trung Tập đã nhiệt tình, chu đáo hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn và cuối cùng, xin dành lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và bạn bè - những người đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả có điều kiện hoàn thành luận văn này. Tác giả xin chân thành cảm ơn! 4 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ QUYỀN NHÂN THÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền nhân thân 8 1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân 8 1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân 13 1.2. Khái niệm hình ảnh 14 1.3. Khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh 17 1.4. Đặc điểm của quyền nhân thân đối với hình ảnh 18 1.5. Lịch sử phát triển pháp luật Việt Nam về quyền nhân thân đối với hình ảnh 23 Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 29 2.1. Nội dung quyền đối với hình ảnh và giới hạn quyền nhân thân đối với hình ảnh 29 2.1.1. Nội dung quyền đối với hình ảnh 29 2.1.2. Giới hạn quyền nhân thân đối với hình ảnh 38 2.2. Biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh 2.2.1. Biện pháp tự bảo vệ 47 4847 2.2.2. Biện pháp kiện dân sự 52 2.2.3. Biện pháp hành chính 58 2.2.4. Biện pháp hình sự 60 Chương 3 THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 6261 3.1. Thực trạng bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam hiện nay 6261 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật 8584 KẾT LUẬN 9190 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, quyền con người đang được cộng đồng quốc tế và hầu hết các quốc gia coi trọng, đề cao và xem đó như là thước đo của sự tiến bộ xã hội cũng như sự hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Xã hội ngày càng phát triển thì các quyền của con người ngày càng được tôn trọng và bảo vệ. Bên cạnh các quyền về kinh tế, quyền về chính trị,... thì các quyền về dân sự luôn được đề cao, trong đó có bao gồm cả các quyền nhân thân của cá nhân. Tại Việt Nam cũng vậy, quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền nhân thân đối với hình ảnh nói riêng được quy định rõ trong pháp luật dân sự và ngày càng được hoàn thiện, trở thành một trong những quyền dân sự được pháp luật quan tâm, bảo vệ một cách tối đa. Trong bối cảnh các thiết bị ghi hình, quay phim, chụp ảnh ngày càng hiện đại và phổ biến như hiện nay thì việc kiểm soát hình ảnh của cá nhân càng gặp nhiều khó khăn, do đó, hơn bao giờ hết, nguy cơ xâm phạm quyền nhân thân nói chung và quyền của cá nhân đối với hình ảnh nói riêng trên thế giới cũng như tại Việt Nam là rất lớn. Thông qua môi trường công nghệ thông tin, các cá nhân có thể dễ dàng kết nối, truy cập, công khai và phát tán hình ảnh của người khác, đặc biệt đối với những người nổi tiếng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh, thậm chí nhiều vụ việc còn gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Mặc dù các nội dung liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh đã được quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995 và ngày càng chi tiết hơn tại Bộ luật dân sự năm 2005, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập do tồn tại một số quy định pháp luật chưa rõ ràng, chưa phù hợp với thực tiễn hoặc thiếu cơ chế điều chỉnh. Mặt khác, chính các cá nhân bị xâm phạm còn chưa nhận thức rõ được quyền và cơ chế bảo vệ quyền, thậm chí, dù nhận thức được nhưng chưa triệt để bảo vệ quyền khi bị xâm phạm. 6 Chính các yếu tố đó đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của người bị xâm phạm. Từ các lý do trên cho thấy, việc nghiên cứu “Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam” là rất cần thiết, qua đó, góp phần hiểu rõ và thống nhất các quy định pháp luật liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh cũng như nắm bắt được thực trạng bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh tại Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra giải phápkiến nghị thích hợp nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. Đây cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài: “Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nói, tại Việt Nam, việc nghiên cứu về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh còn đang khá hạn chế, chủ yếu là các công trình nghiên cứu chung về quyền nhân thân, trong đó có đề cập đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh hoặc được nghiên cứu dưới dạng là các bài viết, chuyên đề, đề tài. Rất hiếm có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu chung về quyền nhân thân, trong đó đề cập đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự” do ThS. Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm đề tài, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, trong đó, có một số chuyên đề như “Quyền nhân thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân: quyền của cá nhân đối với họ tên, dân tộc, hình ảnh” của ThS. Nguyễn Minh Oanh, chuyên đề “Bảo vệ quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự 2005” của TS. Nguyễn Công Bình,… đã nêu được một số khía cạnh có liên quan như khái niệm hình ảnh, quy định pháp luật cũng như hạn chế, bất cập trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh; “Quyền bí mật 7 đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, trường Đại học Luật Hà Nội, Luận án của TS. Lê Đình Nghị, năm 2008 đề cập đến quyền nhân thân đối với hình ảnh như là một phần trong quyền bí mật đời tư; “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005”, trường Đại học Luật Hà Nội, Luận văn của ThS. Lê Thị Hoa, năm 2011, trong đó đã phân loại quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh thuộc nhóm quyền khác biệt với quyền nhân thân liên quan đến thân thể; “Bảo vệ quyền nhân thân theo quy định của pháp luật Cộng hòa liên bang Đức, so sánh với quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam”, GS.TS. Michael Jaensch, Nguyễn Văn Quang dịch trên Tạp chí Luật học số 1/2014 đã chỉ ra một số điểm giống nhau và khác nhau trong quy định về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh giữa pháp luật Cộng hòa liên bang Đức và pháp luật dân sự Việt Nam. Một số công trình nghiên cứu, bài viết nghiên cứu riêng về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam”, trường Đại học Luật Hà Nội, Luận văn của ThS. Phùng Bích Ngọc năm 2011 nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh, từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật dân sự; “Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt nam”, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn của Ths. Trần Thị Thu Hằng năm 2014 đã hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền cá nhân về hình ảnh, trình bày thực tế các hành vi xâm phạm quyền cũng như thực trạng áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền cá nhân trong thực tiễn hiện nay và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật;“Quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước phương Tây đối chiếu với pháp luật Việt Nam” của Chu Tuấn Đức trên Tạp chí nhà nước và pháp luật số 4/2008 phân tích lịch sử hình thành, nội dung, giới hạn, xu hướng của quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước và so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam; “Luận bàn về quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005” của ThS. Phùng Bích Ngọc, trên Tạp chí Nghiên cứu 8 lập pháp số 22/2012 nêu khái niệm, giới hạn của quyền nhân thân đối với hình ảnh và phân biệt với quyền đối với từng hình ảnh cụ thể. Trong tình hình đó, đề tài “Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam” được triển khai ở cấp độ luận văn thạc sỹ sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống về một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh; phân tích và làm rõ một số khía cạnh pháp luật liên quan đến quyền nhân thân đối với hình ảnh; thông qua việc phân tích một số vụ việc xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh, luận văn làm rõ thực trạng cũng như hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh trong thực tiễn tại Việt Nam, từ đó, đưa ra một số đề xuất, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. Luận văn đảm bảo không có sự trùng lặp về nội dung so với các bài viết, công trình nghiên cứu công bố trước đây. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn *Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh và thực tiễn bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu Trong khả năng của tác giả và trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số nội dung sau: khái niệm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh, đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh, nội dung quy định pháp luật dân sự Việt Nam liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh như nội dung quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh, giới hạn quyền nhân thân đối với hình ảnh và biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài * Mục tiêu nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài “Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam” nhằm đạt mục tiêu chủ yếu sau đây: làm rõ 9 một số vấn đề lý luận cũng như phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật ở nước ta về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh để từ đó chỉ ra hạn chế, vướng mắc trong quy định pháp luật và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để phù hợp với mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Một là: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân và quyền nhân thân đối với hình ảnh; - Hai là: Nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh; - Ba là: Phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam hiện nay - Bốn là: Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam. 5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn Luận văn giải quyết các câu hỏi: (1) Thế nào là quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh? quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh có những đặc điểm nào? (2) Hiện nay trong pháp luật dân sự Việt Nam quy định như thế nào về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh? Với quy định đó thì tồn tại những bất cập, vướng mắc nào trong quá trình áp dụng pháp luật? (3) Thực trạng bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh tại Việt Nam hiện nay như thế nào? Với thực trạng đó, cần đưa ra giải pháp gì để hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh tại Việt Nam? 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: xem xét, phân tích, đánh giá các quan điểm, nội dung pháp lý về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong 10 pháp luật dân sự Việt Nam và tình hình bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh trong thực tiễn hiện nay. - Phương pháp so sánh, tham chiếu: so sánh quy định về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật Việt Nam theo tiến trình lịch sử lập pháp và so sánh theo chiều ngang, tức là so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới. - Phương pháp lịch sử: trình bày quá trình phát triển các quy định về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn * Ý nghĩa khoa học Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam và bảo vệ có hiệu quả quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. Do đó, luận văn có những đóng góp về mặt khoa học như sau: - Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh; - Luận văn làm rõ nội dung cũng như các bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh; - Luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. * Ý nghĩa thực tiễn - Với kết quả phân tích, đánh giá quy định của pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam hiện nay, luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các chuyên gia, sinh viên, học viên cao học tại các Trường Đại học và những người quan tâm nghiên cứu về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam hiện nay. 8. Cơ cấu của luận văn 11 Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân và quyền nhân thân đối với hình ảnh Chương 2: Quy định về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ QUYỀN NHÂN THÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền nhân thân 1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân Con người luôn là trung tâm, là mục tiêu hướng đến đầu tiên của quá trình phát triển, do đó, song song với việc phát triển về mọi mặt của xã hội thì vấn đề con người cũng ngày càng được tôn trọng và bảo vệ. Tương tự các quốc gia khác trên thế giới, tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến yếu tố con người, theo đó, ghi nhận các quyền con người bao gồm: quyền về kinh tế, quyền về chính trị, quyền về dân sự,... trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những bộ phận quan trọng của quyền dân sự và được cụ thể hóa tại các Bộ luật dân sự đó là quyền nhân thân của cá nhân. Quyền nhân thân với tư cách là một thuật ngữ pháp lý, lần đầu tiên được nhắc đến trong Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, nó ra đời và có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để bảo vệ cho cá nhân tồn tại với tư cách là một thực thể, một chủ thể độc lập trong cộng đồng. Thông qua việc cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người về dân sự, BLDS năm 1995 xác định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đây được xem là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy, nhận thức của các nhà làm luật Việt Nam, cũng là bước tiến đáng ghi nhận, có ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Về khái niệm quyền nhân thân, hiện nay trong pháp luật thực định cũng như trong các công trình nghiên cứu khoa học chưa có một định nghĩa nào thống nhất, cụ thể về quyền nhân thân. Dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu luật học đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Quan điểm thứ nhất: định nghĩa quyền nhân thân được tiếp cận dưới hai góc độ là góc độ chủ thể và góc độ khách thể. Công trình tiêu biểu sử dụng cách 13 tiếp cận này chính là công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân dân Tối cao với đề tài “Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân được đề cập trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của Bộ luật dân sự”, số đăng ký: 96/98/063/ĐT. Theo đó: - Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự được hiểu là quyền con người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó mỗi cá nhân đều có quyền nhân thân riêng và quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, theo cách hiểu này, quyền nhân thân chính là quyền con người mà cá nhân đó được toàn quyền hưởng và toàn quyền tự định đoạt, có mối quan hệ hữu cơ với mỗi cá nhân kể từ thời điểm cá nhân đó được sinh ra và gắn liền với cá nhân trong suốt cuộc đời. - Dưới góc độ khách thể, quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con người về dân sự trong sự bảo hộ của nhà nước và pháp luật. Theo cách hiểu này, quyền nhân thân chính là các điều luật quy định về quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền đó và được bảo vệ quyền khi có hành vi xâm phạm xảy ra. Với việc tiếp cận khái niệm theo cách này có ý nghĩa cơ bản làm rõ nội hàm quyền nhân thân ở hai góc độ khác nhau nhưng lại có một hạn chế lớn do sự tách biệt hai yếu tố chủ thể và khách thể của quyền nhân thân, dẫn đến định nghĩa quyền nhân thân không có tính hệ thống, bao quát và toàn diện. Quan điểm thứ hai: cho rằng chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận mới được xem là quyền nhân thân, còn những giá trị nhân thân không được ghi nhận thì sẽ không được xem là quyền nhân thân. Cụ thể, trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1999 xác định: “Giá trị nhân thân của cá nhân và tổ chức được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận mới được 14 coi là quyền nhân thân. Quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể chuyển giao cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định”. Định nghĩa này có một hạn chế lớn đó là chưa xác định được quyền nhân thân chính là quyền dân sự. Mặt khác, với cách nhìn nhận chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận mới được coi là quyền nhân thân, định nghĩa này đã vô hình chung thu hẹp phạm vi quyền nhân thân của con người. Quan điểm thứ ba: theo Tiến sỹ Lê Đình Nghị trong Đề tài nghiên cứu cấp trường “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự”, “theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá nhân do nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và các cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác”. So với định nghĩa được nêu ra trong hai quan điểm trên, định nghĩa này được xem là đầy đủ và toàn diện hơn khi nêu được các thuộc tính của quyền nhân thân như: là quyền dân sự, gắn liền với cá nhân, được nhà nước quy định và không thể chuyển giao, đồng thời, định nghĩa này cũng khắc phục được hạn chế mà quan điểm thứ hai mắc phải. Quan điểm thứ tư: nhìn nhận quyền nhân thân theo hai vấn đề, đó là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác. Quan điểm này đã được chuyển hóa vào nội dung quy định trong BLDS năm 2005. Kế thừa những điểm tiến bộ trong quy định của BLDS năm 1995 về quyền nhân thân, tại Điều 24 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này phần nào làm rõ khái niệm quyền nhân thân với hai đặc điểm cơ bản: là quyền dân sự gắn liền với cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác. Tuy nhiên, với cách định nghĩa này còn gặp phải một số hạn chế, bất cập như sau: Thứ nhất, liên quan đến đặc điểm quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, PGS.TS Bùi Đăng Hiếu đặt ra câu hỏi đó là có hay không quyền nhân thân của các chủ thể khác (như pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác)? Điều 604 và Điều 611 BLDS năm 2005 có đề cập đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác”, vậy đây có được coi là quyền nhân thân của pháp nhân và 15 các chủ thể khác không? Tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004 cũng như Điều 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đều quy định: “Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin … vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu”. Các quy định đó đều hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác. Thứ hai, việc gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển dịch cho người khác chỉ là đặc điểm của quyền nhân thân mà không phải là tiêu chí để phân biệt quyền nhân thân với quyền chính trị hoặc với quyền dân sự khác, bởi lẽ có một số quyền chính trị và quyền tài sản cũng có đầy đủ hai đặc điểm này. Theo Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 - Tập 1 do PGS.TS Hoàng Thế Liên chủ biên thì quyền bầu cử, quyền ứng cử của mỗi công dân không phải là quyền nhân thân nhưng các quyền này cũng gắn liền với cá nhân và không thể chuyển dịch cho người khác. Theo PGS.TS Bùi Đăng Hiếu, quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình theo Pháp luật hôn nhân và gia đình cũng được gắn liền với những cá nhân nhất định như: giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng. Ngoài ra, quyền yêu cầu cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng các quyền, nghĩa vụ khác và cũng không thể chuyển giao cho người khác. Do đó, với cách tiếp cận khái niệm quyền nhân thân theo quan điểm này vẫn không hoàn toàn thuyết phục các nhà nghiên cứu luật học khi chưa nhận diện được quyền nhân thân. PGS.TS Bùi Đăng Hiếu đã đưa ra quan điểm cá nhân về định nghĩa quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đây là định nghĩa tương đối khái quát, có tính hệ thống và cơ bản đã khắc phục được hạn chế 16 mà quan điểm thứ tư gặp phải, qua định nghĩa này có thể nhận diện và phân biệt được quyền nhân thân với một số quyền chính trị, quyền dân sự khác. Như vậy, qua việc tìm hiểu những quan điểm khoa học pháp lý đến luật thực định về khái niệm quyền nhân thân cho thấy, hiện nay, còn có nhiều cách nhìn nhận, tiếp cận về quyền nhân thân khác nhau ở nhiều góc độ nhất định. Tuy nhiên, về cơ bản, các quan điểm nói trên đều thống nhất ở một số điểm chung như sau: Thứ nhất, quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân sự và quyền này thuộc về cá nhân. Thứ hai, quyền nhân thân luôn hướng tới những giá trị tinh thần không định giá được như quyền đối với họ tên; quyền được khai sinh; quyền được khai tử; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền bí mật đời tư; quyền tác giả… Tất cả những quyền này liên quan mật thiết đến những nhu cầu cần có của một cá nhân sống trong xã hội và bất cứ ai cũng không được phép xâm phạm. Thứ ba, quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác, nghĩa là quyền nhân thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó có quyền thực hiện hoặc do người đại diện của họ thực hiện trong một số trường hợp do pháp luật quy định. Xuất phát từ những điểm thống nhất trong một số quan điểm nêu trên và quy định về quyền nhân thân tại Điều 24 BLDS năm 2005, có thể đưa ra định nghĩa về quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với giá trị tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. 1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân Với bản chất là một bộ phận quyền dân sự, quyền nhân thân có đầy đủ các đặc điểm của quyền dân sự nói chung. Ngoài ra, nó còn mang một số đặc điểm riêng biệt nhằm phân biệt với quyền tài sản. Cụ thể như: Thứ nhất, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản Khác với quyền tài sản, đối tượng của quyền nhân thân là một giá trị tinh thần, do đó, quyền nhân thân không biểu hiện bằng vật chất, không quy đổi được 17 thành tiền và mang giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Do vậy, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay mang ra chuyển nhượng cho người khác. Một người không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ. Pháp luật quy định cho mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân. Mỗi một chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được pháp luật bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm. Thứ hai, quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch Mỗi một chủ thể mang một giá trị nhân thân đặc trưng, do đó, quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. Mặc dù vậy, quyền nhân thân không bị phụ thuộc, chi phối bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội,…. Quyền nhân thân không thể chuyển dịch cho người khác, tức là, quyền nhân thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó hoặc trong một số trường hợp do chủ thể khác được pháp luật quy định thực hiện. Quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch mua bán, trao đổi, tặng, cho,… Trên thực tế xuất hiện nhiều hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân, ví dụ: một người mẫu ký hợp đồng với công ty quảng cáo về việc cho phép công ty đó sử dụng bức ảnh của mình để quảng cáo. Vậy, quyền nhân thân đối với hình ảnh của người mẫu trong trường hợp này có được xem là đối tượng chuyển dịch? Thực chất, đối tượng chuyển dịch trong trường hợp này chính là những bức ảnh của người mẫu đã được chụp mà không phải là quyền nhân thân đối với hình ảnh của người mẫu. Bởi, như đã phân tích ở trên, quyền nhân thân mang giá trị tinh thần, do đó, không thể định đoạt và chuyển giao cho người khác. Trong nghiên cứu mới đây về quyền nhân thân, có quan điểm phân loại quyền nhân thân thành quyền nhân thân cơ sở (hay còn gọi là quyền nhân thân gốc) và quyền nhân thân phái sinh. Quyền nhân thân cơ sở là quyền nhân thân theo đúng bản chất của nó, không thể chuyển nhượng. Quyền nhân thân phái sinh là quyền khai thác danh tiếng của 18 một cá nhân với mục đích thương mại. Liên quan đến hình ảnh của cá nhân, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân cơ sở, còn quyền đối với từng bức ảnh cụ thể của cá nhân trong trường hợp ký hợp đồng với công ty quảng cáo nói trên là quyền nhân thân phái sinh. 1.2. Khái niệm hình ảnh Trong BLDS năm 1995 cũng như BLDS năm 2005 có đặt ra quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. Do đó, việc nhận diện khái niệm hình ảnh là gì rất cần thiết để từ đó xác định thế nào là quyền nhân thân đối với hình ảnh và khi nào thì một hành vi được xem là vi phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như hệ thống các công trình nghiên cứu chưa có một định nghĩa nào thống nhất và khái quát về khái niệm hình ảnh mà trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực nghiên cứu khác nhau có một cách định nghĩa riêng phục vụ cho yêu cầu chuyên môn của ngành, lĩnh vực đó. Trong lĩnh vực văn học, “hình ảnh là hình ảnh ảo của sự vật mà ngôn ngữ văn chương gợi lên trong óc tưởng tượng của chúng ta qua những khái niệm và qua những biểu tượng” [2729]. Như vậy, hình ảnh trong văn học được hình thành không phải do chính mắt thường nhìn thấy mà do người đọc mường tượng qua ngôn ngữ thơ văn. Tuy nhiên, hình ảnh được đề cập trong BLDS năm 1995 cũng như trong BLDS năm 2005 là hình ảnh của một cá nhân cụ thể – một thực thể tồn tại khách quan, do đó, luận văn sẽ không nghiên cứu đối với loại hình ảnh ảo này. Trong lĩnh vực truyền hình, hình ảnh được hiểu là “những gì mà con người thấy được thông qua thị giác rồi sau đó chuyển về não, giúp con người cảm nhận hình ảnh đó một cách thực chất. Từ đó, đưa ra những phản xạ, cảm nhận những hình ảnh mà con người vừa tiếp nhận được” [2830]. Định nghĩa này chưa làm rõ được cách thức hình thành cũng như đặc điểm phản ánh đối tượng của hình ảnh. Trong lĩnh vực triết học, hình ảnh được coi là “kết quả của sự phản ánh khách thể đối tượng vào ý thức con người. Ở trình độ cảm tính, hình ảnh là những cảm giác, tri giác và biểu tượng, ở trình độ tư duy, đó là những khái niệm 19 phán đoán, suy luận. Về mặt nguồn gốc, hình ảnh là khách quan, về cách nhận thức tồn tại, hình ảnh là chủ quan. Hình thức thể hiện vật chất của hình ảnh là các hành động thực tiễn, ngôn ngữ, các mô hình, ký hiệu khác nhau” [67]. Định nghĩa này xem xét khái niệm hình ảnh dưới nhiều yếu tố khác nhau như: ở trình độ cảm tính, ở trình độ tư duy, về mặt nguồn gốc, về cách nhận thức tồn tại và hình thức thể hiện vật chất, qua đó, phần nào đã nêu được một số thuộc tính cơ bản của hình ảnh. Tuy nhiên, do được tiếp cận ở góc độ triết học nên định nghĩa này còn khá trừu tượng và mang tính chung chung, khái quát. Trong nhiếp ảnh, hình ảnh là sự phản quang của đối tượng được định hình trên phim và giấy ảnh [2931]. Dưới góc độ ngôn ngữ, hình ảnh được hiểu “là hình người, vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học (như máy ảnh) hoặc để lại ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc, là khả năng gợi tả sống động trong cách diễn đạt” [219]. Hai định nghĩa này cơ bản đã mô tả được nội hàm của khái niệm hình ảnh nhưng lại bó hẹp phạm vi khái niệm hình ảnh bởi trong thực tế, ngoài việc phản quang đối tượng trên phim, giấy ảnh hoặc bằng khí cụ quang học, hình ảnh còn có thể phản ánh bằng việc vẽ lại đối tượng hoặc phản ánh bằng nhiều cách thức khác. Như vậy, qua việc nghiên cứu các định nghĩa trên, có thể hiểu “hình ảnh là sự sao chép, tái hiện lại các đối tượng tồn tại khách quan trong thực tiễn mà con người có thể nhìn thấy bằng mắt, được nhận thức bằng tư duy của con người hoặc bằng cách sao chụp nguyên mẫu”. Về cách hiểu về “hình ảnh của cá nhân”, có thể hiểu rằng “hình ảnh của cá nhân là sự sao chép, tái hiện lại hình dáng, ngoại hình, đặc điểm bề ngoài,… của một cá nhân cụ thể bằng một cách thức nhất định mà con người có thể nhìn thấy bằng mắt”. Hình ảnh của cá nhân có thể tồn tại dưới hình thức là các tác phẩm như ảnh chụp; ảnh vẽ; ảnh họa chép; ảnh do quay phim, ghi hình… thậm chí cũng có thể là bức tượng của cá nhân đó. Xét về phương diện quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm của hoạt động nghệ thuật là bức ảnh, tấm hình, pho 20 tượng… thì các tác phẩm này được Nhà nước bảo hộ. Người sử dụng tác phẩm phải xin phép chủ sở hữu tác phẩm hoặc người có quyền sử dụng tác phẩm đó. Xét về phương diện quyền nhân thân thì người sử dụng hình ảnh phải được sự đồng ý của người có hình ảnh đó hoặc đại diện của người đó trong trường hợp pháp luật quy định. Hình ảnh cá nhân đề cập tại Điều 31 BLDS năm 2005 không hàm chứa nghĩa rộng là dáng hình, điệu bộ của cá nhân hoặc là sự hình dung về một người trong trí tưởng tượng, trong tâm tư, tình cảm của người khác. Hình ảnh cá nhân được pháp luật bảo vệ theo Điều 31 BLDS năm 2005 phải là hình ảnh được lấy từ một người và giống với người đó [78, tr.77], tức là khi nhìn vào hình ảnh đó, cá nhân có hình ảnh có thể bị nhận dạng và người xem hình có thể xác định được cá nhân đó là ai. Có hai căn cứ cơ bản để xác định hình ảnh của cá nhân đó là: hình ảnh đó được tạo ra (vẽ, chụp, quay phim,...) từ con người thực cụ thể nào? và hình ảnh đó có giống với người thực đã được vẽ, chụp, quay phim,... hay không? Trong hình ảnh của cá nhân có thể có ghi tên hoặc không ghi tên của người có hình ảnh đó. 1.3. Khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh Trên cơ sở tìm hiểu, và xây dựng khái niệm quyền nhân thân và khái niệm hình ảnh nêu trên, luận văn đi sâu nghiên cứu khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh. Trong bất cứ một thời gian và hoàn cảnh nào, xã hội luôn nhìn nhận, đánh giá một cá nhân thông qua những thông tin, hình ảnh của cá nhân đó mà họ nhận được [34, tr.50]. Chính vì vậy, hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi cá nhân, do đó, trong pháp luật hầu hết các nước phương Tây cũng như trong pháp luật Việt Nam đều đặt ra quyền của cá nhân đối với hình ảnh, theo đó, thừa nhận hình ảnh của cá nhân được bảo vệ dưới bất cứ hình thức nào, dù là tranh vẽ, ảnh chụp hay, ảnh quay phim. Tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ những hình ảnh mà thông qua việc xem hình đó, cá nhân xuất hiện trong hình có thể bị nhận dạng và người xem hình có thể xác định được cá nhân đó là ai. Không phải
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan