Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn tế cấp bát điều của nguyễn trường tộ từ góc nhìn thể loại...

Tài liệu Luận văn tế cấp bát điều của nguyễn trường tộ từ góc nhìn thể loại

.PDF
68
110
128

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== VÕ THỊ THỦY TẾ CẤP BÁT ĐIỀU CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến ThS. Lê Thị Hải Yến - Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Tổ Văn học Việt Nam cùng các thầy, cô trong Khoa Ngữ Văn - Trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Võ Thị Thủy LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến, kết quả này không trùng với nghiên cứu của các tác giả khác. Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Võ Thị Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 6 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 6 7. Cấu trúc khóa luận .................................................................................. 7 NỘI DUNG....................................................................................................... 8 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 8 1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX.......................................... 8 1.2. Tác giả Nguyễn Trƣờng Tộ ................................................................ 13 1.2.1. Cuộc đời.......................................................................................... 13 1.2.2. Con người ....................................................................................... 16 1.2.3. Trước tác ........................................................................................ 18 1.3. Tác phẩm “Tế cấp bát điều” ............................................................... 20 1.3.1. Hoàn cảnh ra đời ........................................................................... 20 1.3.2. Ý nghĩa nhan đề ............................................................................. 22 1.3.3. Thể loại ........................................................................................... 22 Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 26 Chƣơng 2. NỘI DUNG ĐIỀU TRẦN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU ....... 27 2.1. Điều trần về chính trị, quân sự .......................................................... 27 2.1.1. Thiết lập lại bộ máy hành chính nhà nước .................................. 27 2.1.2. Sửa đổi võ bị ................................................................................... 29 2.1.3. Sửa sang lại biên giới .................................................................... 34 2.2. Điều trần về kinh tế............................................................................. 35 2.2.1. Xây dựng kinh tế nước nhà ........................................................... 35 2.2.2. Điều chỉnh thuế ruộng đất ............................................................ 39 2.3. Điều trần về văn hóa - xã hội ............................................................. 42 2.3.1. Vấn đề sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng ........................... 42 2.3.2. Xây dựng luật lệ nhà nước ............................................................ 46 2.3.3. Chăm lo đời sống nhân dân .......................................................... 47 Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 49 Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT VĂN CHÍNH LUẬN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU ............................................................................................................... 50 3.1. Kết cấu và lập luận ............................................................................. 50 3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 52 3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 56 Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 58 KẾT LUẬN .................................................................................................... 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cuối thế kỉ XIX, sự xâm lược của thực dân Pháp đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Đứng trước vấn đề sống còn của dân tộc, nhiều nhà nho có đầu óc nhạy bén đã đề xuất chủ trương canh tân đất nước chống lại kẻ thù. Trong số những nhân vật đó, đáng chú ý nhất là Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) mà người đời vẫn truyền tụng là Trạng Tộ. Là một con người có trí tuệ, nhãn quan vượt tầm thời đại ông đã dâng lên nhà vua hàng loạt bản điều trần, phúc trình (khoảng 58 bản điều trần và 30 bản phúc trình). Những trước tác của Nguyễn Trường Tộ để lại cho đến ngày nay được giới nghiên cứu chú ý tìm hiểu, đánh giá, nhất là từ góc độ tư tưởng. Từ góc độ văn học, những áng văn chính luận vừa duy lý vừa trữ tình của ông chưa được xem xét khái quát. Đáng lưu ý nhất trong số trước tác của Nguyễn Trường Tộ là 58 bản điều trần được ông viết để dâng lên vua Tự Đức trình bày kế sách canh tân đất nước, chống chọi lại kẻ thù. Trong đó, Tế cấp bát điều là bản điều trần được lựa chọn giới thiệu, giảng dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 với đoạn trích Xin lập khoa luật. Đó là những lí do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ và Tế cấp bát điều của ông. Trên hành trình tiếp cận với tác phẩm văn học, chúng tôi thấy có nhiều hướng khai thác (diễn ngôn, loại hình,…). Nhưng dù có khám phá bằng cách nào đi chăng nữa cũng không thể bỏ qua đặc trưng thể loại của tác phẩm. Nói như M. Bakhtin “thể loại mới chính là nhân vật số một của văn học”. Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu Tế cấp bát điều từ góc độ thể loại là cần thiết và ý nghĩa. Ngoài ra, bản thân là một giáo viên trong tương lai, với mong muốn được bổ sung thêm kiến thức chuyên ngành, nghiên cứu sẽ giúp tôi có thêm 1 những hiểu biết sâu sắc về thể loại văn chính luận trung đại nói chung và Tế cấp bát điều nói riêng để phục vụ tốt hơn cho công việc giảng dạy sau này. Đó là những lí do khích lệ tôi lựa chọn đề tài “Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại”. Hi vọng rằng, nghiên cứu này sẽ phần nào làm rõ đặc trưng về nội dung, nghệ thuật văn chính luận thời trung đại cũng như đánh giá đúng vị trí của Nguyễn Trường Tộ trong dòng chảy văn học Việt Nam trung đại. 2. Lịch sử vấn đề Khi tìm hiểu Tế cấp bát điều và Nguyễn Trường Tộ chúng tôi có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu như sau: - Giám mục Trương Bá Cần là người đã bỏ ra rất nhiều công sức nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ, sưu tầm và tổng hợp lại gần như đầy đủ những bản điều trần mà Nguyễn Trường Tộ đã viết để gửi lên triều đình trong cuốn sách Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo (1988), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình gồm 600 trang đánh máy, 3000 chữ, bao gồm phần giới thiệu của tác giả và toàn bộ bản dịch 58 di thảo của Nguyễn Trường Tộ. Trong phần đầu tiên, Trương Bá Cần đã phân tích rất chi tiết những chặng đường đầy sóng gió của Nguyễn Trường Tộ cũng như khao khát canh tân đất nước của ông. Phần thứ hai là phần có giá trị nhất của cuốn sách bởi lẽ đó là tập hợp gần như đầy đủ năm mươi tám di thảo của Nguyễn Trường Tộ. Trương Bá Cần đã có công lao lớn trong việc lưu giữ những giá trị dân tộc to lớn của một nhà nho đương thời đáng được kính trọng. Trong tác phẩm này, tác giả viết “Còn như các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi cho triều đình Huế, thì có những bản là cả một bài luận văn dài” [3;103 104]. Tuy nhiên, công trình mới dừng lại ở tính chất tổng hợp, sưu tầm chứ chưa đi sâu tìm hiểu kĩ những giá trị của từng bản di thảo sáng tác của Nguyễn Trường Tộ trong đó có Tế cấp bát điều 2 - Giáo sư Hoàng Thanh Đạm trong cuốn Thời thế và tư duy canh tân (2001), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh có phân tích kĩ về tính khả thi và hữu dụng của bản điều trần Tế cấp bát điều. Khi viết về chính sách quân sự trong điều thứ nhất của Tế cấp bát điều “Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị”, Hoàng Thanh Đạm viết: "Chữ hòa của Nguyễn Trường Tộ trong Thiên Hạ Đại Thế Luận chỉ có nghĩa là tạm hòa, xuất phát từ tình hình thực tế trên chiến trường là sức ta quá yếu so với quân địch. Trong lịch sử chiến tranh, khi kẻ địch đang ở thế áp đảo mà ta phải tạm hòa là điều thông thường." [6; 113]. Tác giả cũng phê phán những ai đã và đang hạ thấp uy tín của Nguyễn Trường Tộ: “Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng để ra khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả, và từng kiến nghị triều đình xử tử Nguyễn Trường Tộ. Cuốn sách của hai bạn không phải là vô tình mà là cố ý chôn vùi một danh nhân đất nước trong khi hầu hết các học giả trong nước đều tôn vinh ông, nhất là trong thời đại ngày nay, yêu cầu đổi mới đất nước đang là một yêu cầu nóng bỏng để đưa dân tộc ta tiến kịp đà văn minh thế giới hiện đại” [6; 123]. Trong tác phẩm, ông cũng chỉ ra những hạn chế trong tư tưởng cải cách nhưng vẫn luôn nể phục một nhân tài như Nguyễn Trường Tộ. “Ông là người đầu tiên ở châu Á biết áp dụng một kiểu tư duy mới, hoàn toàn trái ngược với lối tư duy giáo điều chỉ để minh hoạ một chân lý có sẵn và xong xuôi...theo ông không có gì là bất biến ở tự nó cả, mọi tình trạng lạc hậu hiện nay của Việt Nam đều xuất phát từ một cách nhận định là con người có thể chuyển cái thực tế bất lợi thành một thực tế có lợi để giành độc lập và phồn vinh của đất nước.” [6; 9]. Tác giả đồng thời cũng phần nào tìm hiểu rõ về những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ, giá trị thực tiễn của nó trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở giá trị lịch sử là chính chứ chưa chú trọng về giá trị văn học của tác phẩm. 3 - Từ điển văn học (bộ mới) mục Nguyễn Trường Tộ(2004), tác giả Nguyễn Huệ Chi khẳng định: “ Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là lối văn chính luận, vừa phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong dẫn chứng nhưng cũng vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả, nên có sức thuyết phục rất mạnh”.[4; 1209] - Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường trong cuốn Từ điển văn học Việt Nam: từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX (2005), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội nhận định: “ Các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ là những tác phẩm chính luận viết bằng văn xuôi chữ Hán… Việc đề xuất cải cách của Nguyễn Trường Tộ không thực hiện được, tuy vậy không làm mất ý nghĩa to lớn của các bản điều trần của ông”.[1; 439] - Khi nói về nghệ thuật văn chính luận trong các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, tác giả Trần Hữu Tá trong bài viết “Nguyễn Trường Tộ Một bi kịch lạc quan”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1 năm 2012 viết “vấn đề được đặt rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể, sống động. Tư duy lí luận của ông rất vững nhưng thật kì lạ và thú vị, chất trữ tình thấm đẫm trong từng trang viết” [28; 29]. - Tác giả Vương Đình Chữ trong cuốn Nguyễn Trường Tộ hôm qua và hôm nay(2014), Nxb Tri Thức, có viết: “Có thể thấy trên đây là cả một kế hoạch toàn diện nhằm chấn hưng đất nước và dân sinh. Nhưng triều đình đã không ngó ngàng đến những tâm huyết này” [9; 68]. Ở cuốn sách này, tác giả đã nghiên cứu một cách tỉ mỉ các đề nghị cải cách mà Nguyễn Trường Tộ viết trong các bản điều trần mà cụ thể nhất là Tế cấp bát điều… Ông nêu ra những ưu điểm và hạn chế của các chính sách về chính trị, quân sự, văn hóa,… Thông qua đó tác giả bày tỏ sự ngưỡng mộ của bản thân đối với Nguyễn Trường Tộ. - Nguyễn Đức Thăng trong đề tài khoa học Văn chính luận trung đại 4 Việt Nam và Trung Quốc - tiếp biến và phát triển (2015) đã nhận xét văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ “đó là những áng văn chính luận xuất sắc” [33; 103] và “Văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ cũng như của nhiều nhà nho canh tân khác là những biểu hiện mới của nội dung yêu nước trong văn học trung đại, in đậm chất thời đại của những con người hết lòng vì đất nước” [33; 103]. - Trong hội thảo “ Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” (1992), Nguyễn Thị Thanh Xuân với bài viết Nguyễn Trường Tộ- người cách tân thể văn chính luận đã chỉ ra sự mới mẻ trong đề tài văn chính luận của ông: “ Ông bàn về hàng loạt vấn đề thiết thực, cấp bách của đất nước trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa xã hội,…nhằm làm cho dân giàu nước mạnh mà lời bản nào cũng mới mẻ, xác đáng, thể hiện một lí trí sáng suốt, một trách nhiệm vượt đời” [36; 117]. Ngoài ra, tác giả còn nhận định: “ Từ trò chơi chữ, đánh đố nhau bằng những điển tích hiểm hóc hoàn toàn xa lạ với cuộc sống, Nguyễn Trường Tộ đã kéo nó trở về với cuộc sống đấu tranh sôi động và quyết liệt của dân tộc, biến nó thành một loại văn luận chiến vừa mới mẻ vừa thuyết phục. Văn nghị luận của Nguyễn Trường Tộ đó là tâm hồn, là trí tuệ cúa người Việt Nam. Đó chính là tư tưởng Việt Nam thế kỉ XIX” [36; 125] Các tác giả đã có sự nghiên cứu kĩ lưỡng những di thảo để lại của Nguyễn Trường Tộ đặt trong bối cảnh lịch sử của dân tộc lúc bấy giờ. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Trường Tộ đã được nghiên cứu nhiều từ góc độ lịch sử với tư cách nhà cải cách. Những tư liệu này là cơ sở quan trọng, quý báu đối với chúng tôi. Tuy nhiên, tất cả các tác giả trên chưa tập trung đi sâu vào phân tích kĩ những giá trị văn học trong thơ văn Nguyễn Trường Tộ. Đặc biệt, chưa ai nghiên cứu bản điều trần Tế cấp bát điều từ góc nhìn thể loại. Do vậy, hướng đi của chúng tôi hứa hẹn mang đến cái nhìn mới về tác phẩm Tế cấp 5 bát điều của Nguyễn Trường Tộ. 3. Mục đích nghiên cứu Chỉ ra được những đặc điểm thể loại của Tế cấp bát điều trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Góp phần tìm hiểu và đánh giá được đúng đắn về vị trí của Nguyễn Trường Tộ trong nền văn học Việt Nam trung đại. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích trên, chúng tôi xác định và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Đọc, tập hợp và phân tích hệ thống tài liệu liên quan đến tác phẩm Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ. - Vận dụng cơ sở lí thuyết đã xây dựng về thể loại văn chính luận để nghiên cứu Tế cấp bát điều. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tìm hiểu, nhận diện được giá trị thơ văn của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại qua bản điều trần Tế cấp bát điều được in trong cuốn Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo của Trương Bá Cần (1988), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu văn học sử - Phương pháp loại hình. - Phương pháp hệ thống 6 - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận được cấu trúc theo ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Nội dung điều trần trong Tế cấp bát điều Chương 3: Nghệ thuật văn chính luận trong Tế cấp bát điều 7 NỘI DUNG Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX Kể từ năm 1802 - 1858, triều đình nhà Nguyễn đã có hơn 50 năm xây dựng và củng cố. Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nước ta từ lâu, từ cuối thế kỉ XVIII, nhưng âm mưu này chưa thực hiện được. “Cuộc chiến bị chậm lại một mặt là do những biến động chính trị trong nội tình nước Pháp, mặt khác là bởi cung cách ứng xử của các vua Nguyễn” [22; 264]. Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thương nên đã chính thức xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp mất gần 40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nước ta và gần một thế kỉ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị của Pháp. Cuối thế kỉ XIX, sự kiện Pháp xâm lược Việt Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có sự ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp trong xã hội. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển to lớn. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy đã biến thành một xã hội thuộc địa, mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến. Song khi đã hình thành thuộc địa thì tất cả các mặt của xã hội đều nằm trong quỹ đạo chuyển động đó. Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau. Tuy nhiên, cơ bản và chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Trong tình hình đất nước lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng. Nông nghiệp sa sút, nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, và cuối cùng đất đai khai khẩn lại rơi vào tay địa chủ. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến, đê điều không được chăm sóc, nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên. Công thương nghiệp bị đình đốn, xu hướng 8 độc quyền công thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh chống Pháp quyết liệt. Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhưng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhượng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lược như cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Hữu Trưng, Ba Cai Vàng,… Phong trào đấu tranh yêu nước của các sĩ phu, các thủ lĩnh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương, nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Định, Quảng Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình,… Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Hoàng Hoa Thám,… Phong trào chống Pháp tuy diễn ra sôi nổi, rộng khắp nhưng không có lực lượng hậu thuẫn làm nòng cốt nên dẫn tới kết quả thất bại nặng nề. Tuy thất bại nhưng cũng chứng tỏ được tình thần yêu nước nồng nàn, dũng cảm của nhân dân ta. Thực dân Pháp xâm lược đã làm cho giai cấp phong kiến bị phá vỡ, tan rã thành nhiều mảnh. Ngoài triều đình Huế mê muội, bọn địa chủ phong kiến hám danh, hám lợi thì vẫn còn một số đông các trí thức phong kiến ý thức được trách nhiệm của mình với dân với nước. Trái ngược với một số sĩ phu thiếu hoài bão, ý chí đã chọn lối sống ẩn dật, trốn tránh sự đời, không màng thế sự. Có những người bày tỏ thái độ bất mãn trước hiện thực đất nước nhưng lại chỉ khoanh tay đứng nhìn mà không hành động. Trong khi đó, Nguyễn Trường Tộ - một nhà nho lỗi lạc đã có những hành động thiết thực để góp phần canh tân đất nước. Trước những biến chuyển sâu sắc của xã hội, các giai cấp có sự phân hóa rõ rệt. Một thực tế không thể phủ nhận là tầng lớp trí thức lúc bấy giờ rất lung túng khi đối diện với kẻ thù mới đến từ văn minh phương Tây. Họ đã bị phân 9 hóa sâu sắc trên nhiều phương diện. Đó là tầng lớp trí thức nho học Việt Nam đã gắn bó chặt chẽ với chế độ phong kiến, do sự thu hẹp nhãn quan tư duy đã khiến họ phản ứng với mọi sinh hoạt văn hóa phi tôn giáo. Sự đối diện với thực dân Pháp đã khiến người trí thức nước Việt đứng trước những con đường khác nhau. Như Nguyễn Xuân Ôn (1825 - 1889), Phan Đình Phùng (1847 1895) muốn đánh Pháp nhưng không chịu canh tân đất nước. Hay Phan Thanh Giản (1796 - 1867), Nguyễn Trường Tộ muốn hòa hoãn với Pháp để có thời gian, sự ổn định để đổi mới đất nước. Điều này khiến việc phân loại trí thức Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX gặp nhiều khó khăn. Trong các giai cấp phong kiến, có một số sĩ phu yêu nước, các trí thức đã tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, họ sống chan hòa và cùng nhân dân chống giặc như Nguyễn Xuân Ôn, Tôn Thất Thuyết (1839 - 1913),... Một số nhà thơ, nhà văn yêu nước đã dùng ngòi bút chiến đấu để nói lên tâm tư, nguyện vọng, thái độ của bản thân trước hoàn cảnh đất nước chiến tranh như Nguyễn Quang Bích (1832 - 1890), Nguyễn Khuyến (1835 - 1909),... Đến giữa thế kỉ XIX, cùng với sự hèn yếu của triều đình nhà Nguyễn, sự xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh phương Tây, tầng lớp nho sĩ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc. Lúc này, ở Việt Nam diễn ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu, giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Thiên chúa giáo du nhập từ phương Tây. Trước đây, nền tảng xã hội là Nho giáo, nó là gốc rễ của mọi hệ tư tưởng. Hiện tại, khi thực dân Pháp xâm lược, Nho giáo đã không thể giữ vững vị trí độc tôn và lãnh đạo dân tộc được nữa. Biểu hiện rõ nhất là việc xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu óc canh tân đất nước. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là: Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), Phạm Phú Thứ (1820 - 1883), Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890), Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895),… Đây là những sĩ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động 10 giải phóng dân tộc vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Khi đối diện với vấn đề xâm lược của Pháp, họ phân hóa thành ba khuynh hướng: chủ chiến, chủ hòa và không chiến cũng không hòa. “Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, vấn đề được quan tâm nhiều nhất, có ý nghĩa sống còn là câu hỏi: chiến hay hòa?” [22; 267]. Chủ chiến có thể kể đến những cái tên như Đốc học Phạm Văn Nghị (1805 - 1884), Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Trần Xuân Soạn (1849 - 1923), Tôn Thất Thuyết (1839 1913)…trong phong trào Cần Vương. “Là người trí thức phong kiến, họ yêu nước, quyết tâm cứu nước thoát khỏi khổ nạn, nhưng lại cố làm sao cho hành động của mình vẫn nằm trong giới hạn cương thường” [22; 268]. Đó là những người có lòng yêu nước sâu sắc, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng cứu nước. Tuy nhiên, do tư tưởng Nho giáo in sâu, họ không thoát khỏi sự bảo thủ đối với việc canh tân đất nước, xem đó là hành động đi sai luân thường đạo lí. Về phía chủ hòa, chia thành chủ hòa hoàn toàn và chủ hòa để canh tân đất nước. Trong đó, các nhà nho canh tân còn theo xu hướng cũ và mới. Có thể kể đến các nhân vật tiêu biểu cho chủ hòa hoàn toàn như: Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành (1813 - 1883),… Sự phân hóa này còn bắt nguồn từ sự lúng túng trước một kẻ thù mới hoàn toàn khác với các tập đoàn phong kiến phương Bắc trước đây. Dù Vương triều Nguyễn là một trong số những Vương triều tiếp xúc và am hiểu nhiều về sức mạnh của phương Tây từ sớm, từ thời Nguyễn Phúc Ánh còn đang tranh chấp với triều Tây Sơn. Nếu như khuynh hướng chủ chiến hay chủ hòa đã rõ nét thì khuynh hướng không chiến cũng không hòa khá phức tạp. Tư tưởng của khuynh hướng này là giặc từ xa đến trước hết chúng ta phải thủ rồi từ từ mà tiến thoái. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các nhà nho như: Trương Đăng Quế (1793 - 1865), Lâm Duy Hiệp (1806 - 1863),… Đội ngũ trí thức nho học giai đoạn này còn phải đối diện với việc gìn giữ 11 những giá trị truyền thống nho học đã tồn tại nghìn năm nay hay cải cách đổi mới theo nền văn minh phương Tây tiến bộ hơn. Sự phân hóa này chiếm vai trò chủ đạo trong nửa cuối thế kỉ XIX. Vấn đề canh tân đất nước đã trở thành một mối quan tâm lớn của tầng lớp trí thức khi một số quốc gia lân cận nhờ cải cách mà thoát khỏi sự kìm hãm của chủ nghĩa tư bản. Đại diện cho khuynh hướng chủ hòa để canh tân có thể kể đến như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ,… Họ tiêu biểu cho một nhóm trí thức đã kịp thức tỉnh, thoát khỏi ý thức hệ phong kiến mà nắm bắt được bước tiến của thời đại. Trong con người họ luôn trăn trở, lo âu với sự đổi mới canh tân đất nước. Nhờ tiếp xúc với luồng tư tưởng tiến bộ của phương Tây, họ luôn mong muốn dùng tư duy và trí tuệ của mình để đưa đất nước đi lên. Còn bộ phận còn lại luôn ra sức bảo vệ những giá trị truyền thống nho học lâu đời, chống phá lại những tư tưởng canh tân đất nước lúc bấy giờ. Một phần nguyên nhân có thể do những người thuộc phái canh tân là người Công giáo như Nguyễn Trường Tộ. Tuy nhiên, định kiến xã hội chính là rào cản lớn nhất, nó khiến cho những người theo Công giáo như ông khó có thể phát huy hết những khả năng vốn có của mình. Vị thế của Nguyễn Trường Tộ chỉ được nhìn nhận và đánh giá ở một mức độ nhất định. Thực tế là sự nghi kị của triều đình về con người Nguyễn Trường Tộ cũng như những đề nghị cải cách của ông vẫn tồn tại. Ngoài những vấn đề nói trên, sự phân hóa trong tư tưởng của nho sĩ đương thời còn thể hiện ở việc xuất và xử. Những cái xử của nho sĩ lúc bấy giờ không giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp mà là sự bất hợp tác với kẻ thù, quyết bảo vệ tiết tháo nhà nho. Đối lập với khuynh hướng xử thế là khuynh hướng xuất thế, họ có xu hướng hợp tác với Pháp. Tuy nhiên, trong nhóm xuất cũng có những sự phân hóa khác nhau. Nhìn chung, giai đoạn này tầng lớp nho sĩ Việt Nam có sự phân hóa mạnh mẽ và sâu sắc. Sự phân hóa này mang tính chất lịch sử cụ thể, bởi đó là 12 sự lúng túng trước một kẻ thù mới với nền văn minh tiến bộ. Bởi nho sĩ là tinh hoa của xã hội cho nên sự phân hóa của họ đã có tác động to lớn đến phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, những biến cố lịch sử trong nửa cuối thế kỉ XIX đã làm phân hóa hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam tồn tại bao đời nay. Điều này đã tác động không nhỏ đến quan điểm sáng tác cũng như nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Cũng như các trí thức nho học khác, Nguyễn Trường Tộ tất nhiên cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng của luồng tư tưởng thời đại ấy. Trong bối cảnh lịch sử những năm cuối của thế kỷ XIX, tình hình Việt Nam có nhiều biến động. Vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, vị thế của Nguyễn Trường Tộ chưa được nhìn nhận hợp lý. Cũng vì vậy, triều đình mới thực hiện được phần nào những kiến nghị của ông, còn đa phần những chủ trương cải cách của Nguyễn Trường Tộ vẫn nằm im trên giấy tờ. 1.2. Tác giả Nguyễn Trƣờng Tộ 1.2.1. Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), con cụ lang Nguyễn Quốc Thủ, tại thôn Xã Đoài, nay thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Xã Đoài là thôn theo đạo công giáo từ xa xưa. Năm 1846, giáo phận Vinh được thành lập với giáo mục tiên khởi là Gauthier Hậu. Ông ta liền lấy Xã Đoài làm trụ sở. Khi ấy Nguyễn Trường Tộ đã thông thạo nho học với tứ thư ngũ kinh, sử sách Đông phương,… và được mệnh danh là Trạng Tộ. Ông từng mở trường dạy học tại gia, đức cha Hậu biết ông là người tài đức, liền mời ông làm người dạy các chúng sinh của giáo phận. Đồng thời Nguyễn Trường Tộ cũng nhờ cậy đức cha để học thêm tiếng Pháp và nghiên cứu nền văn minh phương Tây cùng sự thay đổi của các quốc gia trên thế giới. Năm 1858, ông được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng (Hồng Kông), Tân Gia Ba (Singapore), Thụy Sỹ, Rôma,… rồi qua ngụ tại Pháp. 13 Trong khoảng hai năm ở đây, ông đã có điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng,… Ngoài sự hiểu biết về khoa học - kĩ thuật, ông còn có trình độ như một kiến trúc sư, một người giỏi kĩ thuật khai mỏ và một số hoạt động công nghệ của Pháp. Cuối 1858, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn (phân tháp) rồi đầu năm 1859 sang Hồng Kông. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Sài Gòn với một hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu thập được của mình để giúp đất nước canh tân, tự cường, tự lực để mong tránh được sự mất nước, ông làm chức từ - hàn (thông dịch viên) và bị triều đình nghi kị là tay sai của ngoại bang. Do sống trong lòng địch nên việc phải làm việc với quân Pháp là bất đắc dĩ. Ông làm công việc phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái phủ Pháp ở thành Gia Định. Nhiều lần ông có sửa đi một số chữ nghĩa trong công hàm của hai bên để tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình và gây hại cho việc tạm hòa. Ngoài ra, một số lần ông còn thông báo cho một số đại thần của triều Nguyễn như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ những âm mưu của thực dân Pháp. Do ông là người công giáo, có thời gian làm việc với thực dân Pháp lâu dài, và triều đình lại luôn căm ghét đạo Ki - tô cho nên triều đình cũng như nhân dân luôn có thái độ không tin tưởng đối với ông. Chính điều này cho nên một người tài năng, thông minh, giàu lòng yêu nước như ông lại không được đánh giá đúng và tin dùng như một số người khác. 1862, ông xin thôi chức Từ - hàn, lui về quê, ông dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Cho tới tháng 5 - 1863, ông đã thảo sẵn ba văn bản, làm thành một kế hoạch hoàn chỉnh gửi lên triều đình Huế là Tế cấp luận, Giáo môn luận và Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Sau khi thảo xong ba văn bản quan trọng này, Nguyễn Trường Tộ còn thảo thềm bài Trần tình để phân trần về tâm tư và hoàn cảnh riêng của mình, bởi ông sợ triều đình nghi ngờ vì 14 mình đã từng làm việc với giáo sĩ Pháp. Trong lúc chờ đợi ở Sài Gòn, sau khi thôi làm phiên dịch cho Pháp ông đã giúp xây cất tu viện dòng thánh Phaolo, số 4 Tôn Đức Thắng hiện nay. Công cuộc xây dựng được bắt đầu tháng 9 năm 1862 và hoàn tất vào 18 - 7 1864. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ sống trong những ngày buồn tẻ và bệnh tật. Ông còn bị bệnh tê thấp, chính căn bệnh này đã hạn chế phần nào những hoạt động của ông. Từ 1861 - 1866, Nguyễn Trường Tộ chủ yếu ở Sài Gòn, không về Nghệ An, ông cũng ít đi Huế, cho tới giữa năm 1866 mới được về Xã Đoài. Trong năm này, ông được mời về Huế, đây là những năm tháng đầy triển vọng của ông. Trong thời gian này, ông được vua Tự Đức chú ý đến và được triệu vào kinh giải quyết vấn đề tàu London. Tuy nhiên, triều đình không sử dụng và nhà vua cũng nghe theo, cuối cùng Nguyễn Trường Tộ thấy mình ở Huế cũng không có gì để làm nên đã xin đi ra Quảng Bình để về Nghệ An. 10 - 4 - 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với linh mục Croc và Nguyễn Hoàng rời Huế để đi Bố chính. Sau đó ông cùng giám mục Gauthier đi về Xã Đoài, Nghệ An. Nhưng không lâu sau ông quay lại Huế. Lần quay lại này Nguyễn Trường Tộ thấy bức xúc về việc canh tân đất nước nhưng ông cũng thấy được rõ ràng và sâu sắc hơn những khó khăn trước mắt. Vua thì nghi ngờ ông vì ông là người công giáo, các quan trong triều thì cổ hủ không hiểu về hoàn cảnh thực tế mà luôn ghen ghét sinh lòng đố kị với nhau. 1867, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với giám mục Gauthier và một số người khác đáp tàu đến Pháp. Đây là giai đoạn mà Nguyễn Trường Tộ viết dâng lên triều đình Huế nhiều bản điều trần có giá trị nhằm góp phần cho công cuộc canh tân đất nước. Gần 60 di thảo của ông được người đời sau sưu tầm và gìn giữ đã thể hiện tài năng, tư duy tài tình của ông trên nhiều phương diện về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự,… 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan