MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..
Trang
1
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hướng dẫn phương
pháp tự học môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường
Đại học Tây Bắc………………………………….
1.1. Lý luận về tự học và hướng dẫn phương pháp tự học……...
8
1.1.1. Khái niệm tự học và ý nghĩa của tự học………………….
8
1.1.2. Hướng dẫn phương pháp tự học, hướng dẫn phương pháp
8
tự học môn triết học Mác – Lênin………………………………
1.2. Thực trạng tự học và hướng dẫn phương pháp tự học môn
12
triết học Mác – Lênin ở trường Đại học Tây Bắc……………….
1.2.1. Khái lược hoạt động dạy - học môn triết học Mác – Lênin
ở trường Đại học Tây Bắc………………………………………
1.2.2. Thực trạng tự học môn triết học Mác – Lênin ở trường
16
16
Đại học Tây Bắc………………………………………………...
Chương 2: Thực nghiệm hướng dẫn phương pháp tự học môn
triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học
17
Tây Bắc…………………………………………………………
2.1. Kế hoạch thực nghiệm……………………………………...
2.1.1. Mục đích thực nghiệm……………………………………
2.1.2. Đối tượng thực nghiệm…………………………………...
2.1.3. Giả thuyết thực nghiệm…………………………………..
29
29
2.2. Nội dung thực nghiệm và xử lý các kết quả thực nghiệm….
29
2.2.1. Nội dung thực nghiệm……………………………………
29
2.2.2. Điều tra ý kiến sinh viên…………………………………
29
31
1
2.2.3. Xử lý, phân tích kết quả thực nghiệm đối chứng…………
2.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm……………………………...
2.3.1. Kết quả học tập của sinh viên…………………………….
32
73
76
79
79
2.3.2. Đánh giá chất lượng của bài giảng qua việc sử dụng
2
phương pháp hướng dẫn tự học của sinh viên…………………..
80
Chương 3: Quy trình và điều kiện hướng dẫn phương pháp tự
học môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học
Tây Bắc...............................................................................
84
3.1. Quy trình thực hiện................................................................
84
3.1.1. Đối với giảng viên..............................................................
84
3.1.2. Với sinh viên.......................................................................
97
3.2. Điều kiện thực hiện quy trình………………………………
3.2.1. Đối với đội ngũ giảng viên dạy học môn triết học Mác –
Lênin…………………………………………………………….
102
102
104
3.2.2 Đối với sinh viên học môn triết học Mác – Lênin………...
105
3.2.3 Đối với các cấp quản lý…………………………………...
105
3.3. Những khuyến nghị với nhà trường, giảng viên và sinh viên
108
KẾT LUẬN CHUNG………………………………………….......
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh rằng, sự thành bại hay thịnh suy của một dân tộc,
một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo dục, đào tạo bồi dưõng đội
ngũ trí thức. Nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI thực chất là
cuộc chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục. Ở bất kỳ thời đại nào nguồn
lực con người luôn là vị trí trung tâm, là động lực của sự phát triển xã hội.
Trong đó thế giới quan khoa học và năng lực tư duy của con người là yếu tố
cơ bản của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp “trồng người”. Ph.Ăngghen cho
rằng, một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể
không có tư duy lý luận.
Bước vào công cuộc đổi mới trong xu thế hội nhập diễn ra mạnh mẽ,
đồng thời với việc nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ tương xứng
với trình độ khu vực và thế giới, là hàng loạt những vấn đề đặt ra đối với nền
giáo dục nước ta như: Làm thế nào để sinh viên Việt nam có đủ trình độ và
niềm tin để gánh vác sứ mệnh vẻ vang của dân tộc là xây dựng thành công
Chủ nghĩa xã hội, làm thế nào để họ định hướng tư tưởng đúng trong đời
sống xã hội… trong thời gian học tập cũng như ra công tác sau này. Từ đây
có thể suy ra tầm quan trọng hàng đầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo sinh
viên về các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và phát triển năng lực
tư duy lý luận. Với tư cách thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa
học, triết học Mác – Lênin có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
xác lập các phẩm chất đó cũng như lý tưởng sống của mỗi sinh viên.
Trước sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại, với lượng tri thức tăng lũy tiến với tốc độ lớn như hiện nay thì
việc dạy và học khép kín theo chương trình của tất cả các môn học nói chung
4
và triết học Mác – Lênin nói riêng là chưa phù hợp với xu hướng giáo dục đào tạo trên thế giới.
Để tạo ra được nguồn lực lao động có trình độ chuyên môn cao, tư duy
sáng tạo và năng động, thích ứng một cách tích cực với thị trường thì lượng
kiến thức mà ngành Giáo dục - Đào tạo trang bị cho sinh viên chỉ dừng ở
mức “cần” cơ bản, còn điều kiện “đủ” đó chính là năng lực tự học, tự nghiên
cứu, thói quen chủ động trong nhận thức, lĩnh hội tri thức. Rèn luyện kỹ năng
này, là từng bước giúp cho sinh viên có khả năng định hướng và nhanh chóng
nắm bắt đúng đối tượng một cách chính xác trong hoạt động trí tuệ, có khả
năng xử lý nhạy bén các thông tin trước những tình huống khác nhau (vì bản
thân thông tin chưa là tri thức khi chưa được sử lý), biết phê phán, phân tích
đánh giá các quan điểm, lý thuyết và phương pháp của người khác để tiếp
thu cái hay cái tốt, khắc phục cái lạc hậu, lệch lạc và quan trọng hơn cả là
hình thành được tính độc lập trong tư duy và huy động được tri thức lý luận
và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà không phụ thuộc
vào người khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã
đưa ra nhiều chủ trương, nghị quyết nhằm đổi mới nội dung chương trình
giáo dục - đào tạo và phương pháp dạy học. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và
học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng
thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học
vẹt, học chay” [11, tr.203-204]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (4/2006) nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối
truyền thụ một chiều” [12, tr.97]. Cụ thể hoá các nghị quyết trên, ngày 10
tháng 10 năm 2006 Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ra công văn số
11381/BGDĐT-ĐH & SĐH về việc hướng dẫn giảng dạy các môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó yêu cầu: “Thực hiện đổi mới
5
phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc Đại học thành
quá trình tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng
viên…thực hiện 50 % thời gian môn học dành cho lên lớp và 50 % thời gian
hội thảo có giảng viên hướng dẫn và sinh viên tự nghiên cứu” [7, Tr.2].
Thực tế trong giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học
Tây Bắc, một vấn đề luôn được giảng viên và sinh viên quan tâm là làm thế
nào để nắm bắt được môn triết học Mác- Lênin? Vấn đề không đơn giản là
sự nhồi nhét của người dạy và người học cố gắng thuộc lòng những nguyên
lý, quy luật phổ biến của khoa học này đã được trình bày trong giáo trình. Để
hiểu được nội dung và thực chất của Triết học Mác - Lênin thì trước hết phải
coi nó là một triết học có sự: “Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách
mạng trong triết học”. Cả người dạy và người học phải gắn những nguyên
lý chung của triết học với thực tiễn và phân tích được những vấn đề cuộc
sống đã, đang và sẽ xảy ra. Bản chất của Triết học Mác không chỉ là giải
thích thế giới vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới, các kết luận triết học không chỉ
đơn thuần là lời giải đáp lý luận về các sự vật, hiện tượng, sự kiện nào đó mà
nó là cơ sở lý luận có giá trị định hướng cho việc xác định, giải quyết những
vấn đề ở mọi lĩnh vực khác nhau.
Như vậy, triết học một mặt đòi hỏi người học phải có một trình độ tư
duy trừu tượng và khái quát nhất định, có lối sống thực tế, kiến thức liên môn
rộng, và điều khó khăn nhất đối với hầu hết sinh viên là lần đầu tiên được
tiếp xúc với tri thức triết học (thực ra các em đã được học ở trường phổ thông,
nhưng là kiến thức sơ đẳng với đa số giáo viên dạy kiêm nhiệm, chéo ban),
năng lực nhận thức chưa hoàn thiện, nhất là tính độc lập trong tư duy và cách
thức chuyển hóa tri thức của người dạy thành tri thức của người học, với
giảng viên thì ít quan tâm đến việc hướng dẫn phương pháp tự học, tự nghiên
cứu cho sinh viên một cách một cách chuyên nghiệp, khoa học, do đó chưa
hình thành kỹ năng chủ động, độc lập trong việc khám phá tri thức triết học
6
- vốn là môn học có tính trừu tượng cao. Tất cả điều trên dẫn đến kết quả học
tập môn học này ở trường Đại học Tây Bắc còn rất thấp.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, tôi lựa
chọn đề tài: “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin
cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong lịch sử giáo dục, vấn đề tự học và hướng dẫn tự học được đề
cập và nghiên cứu từ rất sớm, nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau
với điều kiện lịch sử cụ thể mà vấn đề này được các nhà nghiên cứu tiếp cận
ở những góc độ, phương diện khác nhau. Bước chuyển có tính chất quyết
định trong lý luận dạy học là hình thành quan điểm dạy học “Lấy người học
làm trung tâm” và một trong những đại biểu tiêu biểu cho quan điểm này đó
là J.Deway (1938) khi ông cho rằng: “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó
quy tụ mọi phương diện giáo dục”, tác giả này đề cao nhu cầu, lợi ích của
người học, đề xuất việc để cho người học lựa chọn nội dung học tập, được tự
lực tìm tòi nghiên cứu. Cùng với quan điểm này là sự xuất hiện một loạt thuật
ngữ mới trong giáo dục học như “Sự tự giáo dục”, “Người tự giáo dục”...đã
trở thành phổ biến ở các nước có nền giáo dục phát triển.
Ở Việt Nam, người khởi xướng cho nền giáo dục cách mạng và là tấm
gương sáng cho nghị lực và phương pháp tự học là Hồ Chí Minh, với tư
tưởng: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ của người
cách mạng” và “Về học tập phải lấy tự học làm cốt”. Người rất đề cao tính
độc lập trong suy nghĩ và dựa vào sức mình là chính, đây là biểu hiện cao
của ý thức tự nguyện, tự giác học tập, Người nhấn mạnh, phải nêu cao tác
phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. đọc tài liệu thì phải đào sâu, hiểu
kỹ, có vấn đề chưa thông suốt thì phải mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ
lẽ.
7
Vấn đề phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, sinh viên nhằm
đào tạo nguồn nhân lực có khả năng sáng tạo đã được ngành giáo dục đặt ra
từ những năm 1960 với khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình
tự đào tạo”. Cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, xu hướng vận
động của nền giáo dục Việt Nam cũng từng bước tiếp cận và đổi mới theo
nền giáo dục tiên tiến của các nước phát triển, nhưng đổi mới dạy và học như
thế nào để vừa đảm bảo tính hiện đại, vừa phải phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh nước ta, rất nhiều tác giả như Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Trần
Bá Hoành... đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cả về phương diện
lý luận và thực tiễn về vấn đề nâng cao chất lượng dạy học thông qua tự học
và hướng dẫn tự học. Mới nhất, trong thời gian vừa qua có nhiều đề tài khoa
học, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ tập trung nghiên cứu nội dung này
như:
- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thị Tính (2004) “Các biện
pháp tổ chức hoạt động tự học môn Giáo dục cho sinh viên các trường
sư phạm”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Đinh Thị Cúc (2006)
“Hướng dẫn phương pháp tự học học phần chủ nghĩa duy vật biện chứng
môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Cao đẳng kinh tế thương mại Hà Tây”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Văn
Bằng (2007) “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác Lênin cho sinh viên trường Cao đẳng công nghiệp Sao Đỏ”…
Như vậy, vấn đề tự học và hướng dẫn tự học đã được nhiều nhà khoa
học, nhà giáo dục nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, trình độ khác nhau, tất cả
đều cố gắng tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của tự học,
chỉ ra thực trạng, tầm quan trọng cũng như giải pháp khác nhau của hoạt động
tự học và hướng dẫn tự học đối với sinh viên một số trường Đại học, Cao
đẳng.
Tuy nhiên vấn đề hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác Lênin ở trường Đại học Tây Bắc còn là một vấn đề mới. Là một trường Đại
8
học mang đậm tính đặc thù vùng, phát triển từ trường Cao đẳng sư phạm mới
được 8 năm thì vấn đề phương pháp tự học tự nghiên cứu của sinh viên chưa
được giảng viên và sinh viên quan tâm đúng mức, do đó gặp rất nhiều khó
khăn trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển
quá trình dạy ở bậc Đại học thành quá trình tự học của sinh viên theo công
văn hướng dẫn số 11381 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, việc nghiên
cứu và triển khai vấn đề tự học và phương pháp tự học môn triết học Mác Lênin là hết sức cần thiết, nhằm cập nhật chương trình đào tạo, phương pháp
dạy học mới và góp phần nâng cao chất lượng học tập môn học này tại trường
Đại học Tây Bắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề tự học môn triết học Mác - Lênin
ở trường Đại học Tây Bắc, luận văn đề xuất một số giải pháp hoạt động
hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc nhằm
nâng cao chất lượng học tập môn này, góp phần thiết thực vào sự nghiệp giáo
dục - đào tạo chung của Trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tự học và hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác
– Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc. - Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu lý luận về hướng dẫn phương pháp tự học môn
triết học Mác – Lênin và thực nghiệm hướng dẫn phương pháp tự học hai
chương (chương VI và IX) trong chương trình môn triết học Mác – Lênin
cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
9
- Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin: Duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
- Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, phân
loại….
các tài liệu, giáo trình, các công trình nghiên cứu có liên quan.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
- Phương pháp chuyên gia
- Thực nghiệm sư phạm
6. Đóng góp mới của tác giả
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, thực trạng và
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng phương pháp và hiệu quả của
việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trường Đại học Tây Bắc còn
thấp.
- Tiến hành thực nghiệm để so sánh đối chứng, xác định những
khó khăn, thuận lợi và tính khả thi của các biện pháp đã đề ra.
- Đề xuất một số hoạt động, biện pháp hướng dẫn phương pháp
tự học môn triết học Mác – Lênin ở trường Đại học Tây Bắc.
- Rút ra quy trình và các điều kiện cần thiết để thực hiện các biện
pháp hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin tại
trường
Đại học Tây Bắc.
10
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HƯỚNG DẪN
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
1.1. Lý luận về tự học và hướng dẫn phương pháp tự học
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tự học
* Khái niệm tự học
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học lý luận dạy học trong
những năm gần đây, vấn đề tự học tự nghiên cứu đã được nhiều nhà khoa
học nghiên cứu và đưa ra bàn luận, trong nhiều tài liệu, công trình khoa học
của mình các học giả đã đưa ra nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau xoay
quanh vấn đề này, sau đây là một số định nghĩa theo tôi là sâu sắc và cơ bản:
- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý
luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở
đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ
thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở
ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui
định”. [15, Tr.142]
- Theo Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học - là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất
của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như
tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên
trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình”. [21, Tr.621]
- Nhà tâm lý học N.ARubakin quan niệm: Tự tìm lấy kiến thức – có
nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch
11
sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải
tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh
thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng
, kỹ xảo của chủ thể.
Từ những quan điểm, định nghĩa về tự học nêu trên, tôi đi đến định
nghĩa chung nhất về tự học như sau: Tự học là quá trình nhận thức của cá
nhân người học với ý thức tự giác, tích cực, độc lập huy động năng lực trí
tuệ và thể lực của bản thân nhằm chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó
của nhân loại, biến tri thức đó thành vốn tri thức của mình.
Tùy vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi cá nhân và chương trình giáo dục
- đào tạo mà quá trình tự học có thể thực hiện theo ba cách thức sau:
- Cách thức 1: Cá nhân người học tự nghiên cứu theo sở thích và hứng
thú môn học mà không có sự hướng dẫn của giáo viên hoặc chuyên gia về
lĩnh vực đó. Hình thức này thường gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình
nghiên cứu, do phải tự mò mẫm nên dẫn đến đi chệch hướng nghiên cứu,
phải thực nghiệm nhiều lần hoặc cứ liệu, suy luận mang tính chủ quan của
cá nhân…
Tuy nhiên quá trình tự nghiên cứu này kết quả sẽ đi đến sự sáng tạo và
phát minh ra các tri thức khoa học mới, hình thức tự học này phải được dựa
trên nền tảng cá nhân nắm vững tri thức cơ bản lĩnh vực đó và đặc biệt phải
có một niềm tin mạnh mẽ, sự khao khát, say mê khám phá tri thức mới. Đạt
tới trình độ tự học này người học đã vươn tới hình thức cao nhất của nghiên
cứu khoa học, không thầy hướng dẫn mà vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt
động nhận thức của mình.
- Cách thức 2: Tự học có thầy ở xa hướng dẫn.
Đây là hình thức tự học mới nhưng do phù hợp với thời đại nên được
ứng dụng khá phổ biến trên thế giới cũng như Việt Nam, mặc dù thầy ở xa
nhưng vẫn có sự trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao
12
đổi thông tin dưới dạng Fax, email… nhằm phản ánh, cung cấp thông tin và
giải đáp các thắc mắc, kiểm tra, đánh giá,...hình thức này được sử dụng nhiều
đặc biệt là Hệ đào tạo từ xa.
- Cách thức 3: Tự học có thầy trực tiếp hướng dẫn một số tiết trên lớp,
sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ,
chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với
vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: chủ động, tự giác, tích cực tham
gia vào quá trình học tập. Trong mối quan hệ giữa người thầy và sinh viên
thì sinh viên là chủ thể cơ bản và quyết định của quá trình khám phá tri thức.
Trong quá trình tự học, tuy người học không trực tiếp trao đổi thông tin với
thầy, nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy
tính tích cực, chủ động tự sưu tầm tài liệu, sắp xếp kế hoạch nghiên cứu để
hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra.
Nội dung tự học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp
với yêu cầu của giảng viên môn học, được giảng viên định hướng về nội
dung, mục đích yêu cầu và phương pháp tự học theo một quy trình khoa học
để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự
học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác
động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố hướng dẫn phương pháp tự học
của giảng viên và quá trình tự học của sinh viên.
Do mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu, ở đề tài này tác giả chủ
yếu tập trung nghiên cứu việc hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học
Mác - Lênin cho sinh viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên trong quá trình
dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường Đại học Tây
Bắc.
Với đối tượng là sinh viên Đại học hệ chính quy do đó ta cần phân biệt
với tự học của sinh viên Hệ đào tạo từ xa. Theo Luật Giáo dục, học từ xa,
13
vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn thuộc phương thức giáo dục không
chính quy (mục d - điều 41 Luật Giáo dục). Trong các hình thức giáo dục
này, người học chủ yếu phải tự học bằng sách giáo khoa, tài liệu và các điều
kiện, phương tiện của mình để đạt được một mục tiêu hay một chương trình
đào tạo. Như vậy bản chất của việc học từ xa là tự học, người học phải biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo với sự trợ giúp của các cơ sở đào
tạo mà trực tiếp là các giảng viên bộ môn.
* Ý nghĩa của tự học trong quá trình dạy học
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở bậc đại học nói riêng,
người giảng viên luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu
được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, hoạt động học tập của sinh
viên. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giảng viên có kiến thức uyên thâm đến
đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng sinh viên không chịu đầu
tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát với
tri thức, không có sự say mê học tập và phương pháp học tập hợp lý, không
tự giác tích cực trong học tập... thì việc học tập không thể đạt kết quả cao
được.
Theo nhà giáo dục ngưòi Nga A.Đixrtervec đã viết: “không thể ban tặng
cho hoặc truyền đạt đến bất kỳ một người nào sự phát triển và giáo dục. Bất
cứ ai mong muốn được phát triển và giáo dục cũng phải phấn đấu bằng sự
hoạt động của bản thân, bằng sức lực của chính mình. Anh ta chỉ có thể nhận
được từ bên ngoài sự kích thích mà thôi…Vì thế, sự hoạt động tự lực là
phương tiện và đồng thời là kết quả của sự giáo dục” [24, Tr.118]
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị
trí rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố
quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập của chính cá nhân
người học.
14
Ở bậc Đại học đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn
và chuyên sâu, cho nên ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự
nghiên cứu ngoài giờ lên lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Cũng chính
thông qua hoạt động tự học này đã giúp rất nhiều cho sinh viên trong quá
trình học tập, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và
nghề nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học sinh viên đã từng
bước biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản
thân, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, khơi dậy được
năng lực của bản thân, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học
tập mới. Ngoài ra tự học còn giúp sinh viên có được hứng thú, thói quen và
phương pháp tự học thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm
vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi
không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay, đặc biệt là
định hình phẩm chất cần thiết của một nhà khoa học đó là nghị lực, kiên trì
và tính độc lập trong nghiên cứu.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giảng viên
và tập thể sinh viên trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn
trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn sinh viên tự học một cách đúng
hướng và hiệu quả.
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng học tập của sinh viên trường Đại
học Tây Bắc, bên cạnh việc phải quan tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng
kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của người giảng viên,
đồng thời phải đặc biệt chú ý đến vị trí trung tâm của sinh viên trong hoạt
động tập thể để làm sao khai thác triệt để những tiềm năng vốn có trong mỗi
cá nhân, phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo, chủ động trong quá trình
lĩnh hội tri thức nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao,
có năng lực sáng tạo và kỹ năng nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước nói chung và khu vực Tây
Bắc nói riêng.
15
1.1.2. Hướng dẫn phương pháp tự học, hướng dẫn phương pháp tự học
môn triết học Mác – Lênin
* Phương pháp tự học
Như phần trên tác giả đã trình bày, tự học là quá trình nhận thức của cá
nhân người học nhằm chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó của nhân
loại, thực chất đây là quá trình cá nhân tự tư duy trên cơ sở phát huy mọi
năng lực, phẩm chất vốn có của mình để đạt được mục tiêu nào đó trong học
tập, nghiên cứu. Để đạt được mục tiêu này người học phải lựa chọn cho mình
một phương pháp phù hợp với điều kiện, khả năng của mình cũng như đối
tượng môn học và nhiệm vụ học tập đã đặt ra – đó chính là phương pháp tự
học.
Như vậy, phương pháp tự học của sinh viên là tổng hợp những cách
thức, con đường, phương tiện mà sinh viên tự chọn cho mình trong quá trình
học tập, nghiên cứu khoa học để hoàn thành tốt nhất những nhiệm vụ học
tập và nghiên cứu khoa học đã đề ra.
* Hướng dẫn phương pháp tự học
Là một mắt xích rất quan trọng trong quá trình giáo dục – đào tạo, tự
học góp phần hình thành và nâng cao năng lực, phẩm chất của học sinh, sinh
viên, đây là vấn đề không chỉ liên quan đến người học mà cả người dạy. Việc
khơi dậy, hướng dẫn, phát hiện và phát huy nội lực tự học trong việc giáo
dục là một công việc không chỉ của một cá nhân người dạy nào mà là vấn đề
đang được cả ngành giáo dục và xã hội quan tâm.
Thực tế qua các cuộc thi quốc tế cho thấy, chỉ số thông minh của học
sinh, sinh viên Việt Nam không phải là thấp nhưng vấn đề là quy trình giáo
dục của chúng ta có khơi dậy và phát huy được khả năng tự học, tiềm lực tư
duy của thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng
hiện nay hay không. Một người thầy giỏi không phải chỉ uyên thâm trong
16
chuyên môn mà phải là người hướng dẫn khoa học để người học phát triển
được hết năng lực tư duy của mình, nói cách khác người thầy phải là người
hướng dẫn, giúp đỡ họ có được phương pháp tự học khoa học và đúng đắn.
Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn: “Hướng dẫn tự học chủ yếu là hướng dẫn
tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến thức, hướng dẫn tự phê bình về tính cách
trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức. Đó là tự học có hướng dẫn” [21, Tr.61]
Trong luận án tiến sỹ của mình, tác giả Hoàng Hữu Niềm có đưa ra quan
niệm về hướng dẫn tự học khá xúc tích và hợp lý, đó là: “Hướng dẫn tự học
là sự hỗ trợ của giảng viên trong việc định hướng, tổ chức và chỉ đạo nhằm
giúp người học tối ưu hoá quá trình tự lực chiếm lĩnh kiến thức, hình thành
kỹ năng, kỹ sảo thông qua đó để hình thành và phát triển nhân cách của họ.”
[17, Tr.23]
Vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất về hướng dẫn phương pháp tự
học: Là quá trình giúp đỡ của người dạy đối với người học, nhằm hình thành
ở người học những cách thức, con đường, phương tiện tự học, tự nghiên cứu
khoa học hợp lý và hiệu quả, qua đó giúp họ không ngừng nâng cao chất
lượng học tập và nghiên cứu khoa học của mình.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần tăng cường sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực nhằm khơi dậy hứng thú, tính sáng tạo, óc tò
mò khoa học cho người học; mặt khác bên cạnh việc trang bị cho người học
hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thì cần đặc biệt chú ý hình thành cho họ ý
thức tự học, động cợ tự học đúng đắn.
Để giúp người học có được những cách thức tiến hành tự học như vậy,
người giảng viên có thể trực tiếp hướng dẫn sinh viên ở trên lớp quy trình tự
học, tự nghiên cứu, thông qua các bài giảng mà hình thành cho nguời học
những phương pháp tự học đúng đắn, hiệu quả.
Giữa phương pháp tự học và phương pháp dạy học tích cực có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp dạy học tích cực được hiểu là một thuật
17
ngữ rút gọn, dùng để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Trong xã hội hiện
đại - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão
hiện nay thì giảng viên không thể cố nhồi nhét vào đầu óc sinh viên lượng
kiến thức đồ sộ ngày càng tăng nhanh được, mà vấn đề là phải quan tâm
hướng dẫn cho sinh viên năng lực tư duy, phương pháp học tập ngay từ buổi
đầu với những học phần đầu tiên, mỗi người phải xác định được vấn đề tự
học là đặc trưng quan trọng của dạy học chuyên nghiệp.
* Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin
Từ những quan niệm về tự học và hướng dẫn phương pháp tự học, ta có
thể hiểu hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin là quá
trình giúp đỡ của người dạy đối với người học học phần triết học Mác Lênin, nhằm hình thành ở người học những cách thức, con đường, phương
tiện tự học, tự nghiên cứu khoa học hợp lý và hiệu quả, qua đó giúp họ không
ngừng nâng cao chất lượng học tập và nghiên cứu khoa học của mình đối
với học phần này.
Chúng ta cũng biết rằng muốn học tập tốt một môn học nào đó thì người
sinh viên phải hiểu được đặc điểm của môn học, tổ chức được những hoạt
động tương ứng với môn học đó để lĩnh hội tri thức, chính bản thân người
học chứ không phải ai khác phải thiết lập được mối quan hệ biện chứng giữa
chủ thể (người học) và khách thể (môn học).
Việc tự học môn triết học Mác – Lênin cũng vậy, muốn học tập đạt kết
quả cao trước hết người sinh viên phải hiểu được tính chất, đặc điểm của môn
học - đó là một bộ môn vừa mang tính chất lý luận trừu tượng, khái quát lại
vừa có tính thực tiễn rất cao. Vì vậy, việc học tập môn Triết học Mác – Lênin
không chỉ đơn thuần là việc nắm vững những nguyên lý, quy luật, những bài
tập mang tính chất lý luận mà phải gắn liền với việc am hiểu và nắm vững
18
những kiến thức thực tế vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực
tiễn đặt ra.
Như vậy, để tự học tốt, vấn đề quan trọng trước tiên là người sinh viên
phải hiểu rõ được ý nghĩa, vị trí đặc thù của môn học trong hệ thống các khoa
học và đối với nghề nghiệp tương lai của mình, điều đó sẽ giúp họ xây dựng
được ý thức tự học và có ý chí khắc phục khó khăn trong quá trình tự học.
Để tự học môn triết học Mác – Lênin đạt hiệu quả thì việc xây dựng phương
pháp học tập khoa học và việc lựa chọn hình thức học tập phù hợp có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin
không chỉ đơn thuần là học lại máy móc vở ghi, bài giảng của thầy mà người
học còn phải làm quen với việc nghiên cứu, đọc các tài liệu tham khảo, phải
tìm hiểu thực tiễn lịch sử, chính trị - xã hôi, biết kết hợp sáng tạo giữa lý luận
và thực tiễn … để tạo cho mình vốn tri thức đặc biệt là sự am hiểu những
thành tựu của khoa học tự nhiên, biết vận dụng những kiến thức triết học để
lý giải và ngược lại những tri thức đó lại là cứ liệu khoa học minh chứng cho
những nguyên lý triết học.
Tuy nhiên để thực hiện được những yêu cầu trên là vấn đề khó đối với
sinh viên, nhất là sinh viên năm thứ nhất vì các em hầu hết là mới rời ghế
nhà trường phổ thông, vốn kiến thức nhìn chung mới chỉ dừng ở cấp độ phổ
thông chưa có sự khái quát và chuyên sâu về lý luận, khả năng tư duy độc
lập chưa cao, chưa định hình phương pháp tự học ở môi trường học chuyên
nghiệp và rõ ràng là vốn sống, vốn thực tế ít, tất cả những điều trên sẽ gây
khó khăn không nhỏ cho các em khi tiếp cận với học phần triết học. Do đó,
vai trò của giảng viên bộ môn triết học Mác - Lênin là rất quan trọng trong
việc hướng dẫn phương pháp tự học môn này.
1.2. Thực trạng tự học và hướng dẫn phương pháp tự học môn triết
học Mác – Lênin ở trường Đại học Tây Bắc
1.2.1. Khái lược hoạt động dạy - học môn triết học Mác – Lênin ở trường
19
Đại học Tây Bắc
Trường Đại học Tây Bắc vốn tiền thân là trường Cao đẳng sư phạm
Tây Bắc, được nâng lên thành trường Đại học Tây Bắc ngày 23/03/2001, là
trường Đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, phục vụ cho việc đào tạo
nguồn nhân lực đa ngành trình độ cao khu vực Tây Bắc, với rất nhiều ngành
nghề như: Đại học sư phạm Toán, Lý, Hóa, Văn, Sử, Địa…, cùng với các
ngành ngoài sư phạm như: Đại học Nông học, Lâm sinh, Bảo vệ thực vật, Kế
toán tổng hợp, Quản trị kinh doanh…(22 ngành Đại học và 8 ngành Cao đẳng
với tổng số khoảng 8000 sinh viên)
Bộ môn triết học Mác – Lênin là một trong những môn khoa học Mác
– Lênin được giảng dạy cho sinh viên đại học, cao đẳng ở tất cả các ngành
học. Bộ môn này được chia thành hai phần kiến thức cơ bản là phần I khái
lược về triết học và lịch sử triết học, phần II những nguyên lý cơ bản của triết
học Mác – Lênin. Mục đích của bộ môn này nhằm trang bị cho sinh viên một
cách có hệ thống những nội dung cơ bản về thế giới quan và phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin, lịch sử triết học, những nguyên lý cơ bản của
triết học Mác – Lênin. Bước đầu biết vận dụng các nguyên lý cơ bản của triết
học Mác – Lênin vào nghiên cứu các khoa học cụ thể, cũng như phân tích
những vấn đề cuộc sống đặt ra.
Bộ môn Triết học Mác - Lênin còn giúp người học phát triển tư duy lý
luận, tự giác trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng
tạo, biết khái quát và giải đáp được những đòi hỏi cấp bách của công cuộc
đổi mới và thực tiễn đặt ra, phục vụ sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
1.2.2. Thực trạng tự học môn triết học Mác – Lênin ở trường Đại học
Tây Bắc
Qua điều tra 150 sinh viên, chúng tôi chỉ nghiên cứu hoạt động tự học
của sinh viên của các lớp hệ Đại học với hình thức phát phiếu điều tra, chủ
20
- Xem thêm -