ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
______________________________
ĐÀO THU TRANG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN Y BAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÀO THU TRANG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN Y BAN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức
Hà Nội - 2012
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN…………………….……………………………….………….1
MỤC LỤC………………………………….…………………………………2
PHẦN MỞ ĐẦU…………...…………………….……………………….….4
1. Lí do chọn đề tài…………………………….……………………….…….4
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………..5
2.1. Các bài viết về truyện ngắn Y Ban trên các báo và tạp chí…….……....5
2.2.
Các bài viết, trao đổi về truyện ngắn của Y Ban trên các diễn đàn và
báo mạng……………………………………………………………….7
3.
4.
5.
6.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………….………………….10
Đóng góp của luận văn……………………………….…………………..12
Phương pháp nghiên cứu……………………………………….………...12
Cấu trúc luận văn…………………………………………………………12
PHẦN NỘI DUNG………………...……………………………………….13
Chương 1: Truyện ngắn của Y Ban trong dòng chảy chung của văn xuôi
nữ thời kì đổi mới…..………………………………………..……………..13
1.1.Vài nét về văn xuôi nữ thời kì đổi mới:…………………………….……13
1.2.Truyện ngắn của Y Ban trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi mới…..…...20
Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Y Ban……………...….25
2.1. Nhân vật tự nhận thức…………………………………………………..25
2.2. Nhân vật cô đơn…………………………………………………………31
2.3.Nhân vật bi kịch……………………………………………………...….38
2.4.Nhân vật kì ảo………………………………………………………...….45
Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Y Ban…..………..50
3
3.1. Điểm nhìn trần thuật…………………………………………….………50
3.1.1. Điểm nhìn trần thuật bên trong……………………….……………….57
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài……………………………………….59
3.2. Người kể chuyện………………………………………………..………62
3.2.1. Nhân vật kể chuyện……………………………………………...……64
3.2.2. Người kể chuyện ở ngoài câu chuyện……………………...…………65
3.3. Nghệ thuật tổ chức tình huống và kết cấu………………………………66
3.3.1. Tình huống truyện………………………………………….…………66
3.3.1.1. Tình huống tâm trạng……………………………………………….67
3.3.1.2. Tình huống tự nhận thức…………………………………………...68
3.3.1.3. Tình huống mang tính kịch…………………………………………70
3.3.2. Kết cấu tâm lí……………………………………………………..…..71
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu……………………………………………..….75
3.3.1. Ngôn ngữ………………………………………………………..…….75
3.3.1.1. Ngôn ngữ đời thường, mang đậm chất dân gian……………………76
3.3.1.2. Ngôn ngữ mang tính phiếm chỉ……………………………………..78
3.3.2. Giọng điệu…………………………………………………………….79
3.3.2.1. Giọng trữ tình, đằm thắm…………………..……………………….80
3.3.2.2. Giọng chiêm nghiệm triết lí………………..……………………….83
3.3.2.3. Giọng hài hước, châm biếm……………..………………………….85
PHẦN KẾT LUẬN…………………...…………………………………..87
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………...………………………………....89
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.
Văn học Việt Nam sau năm 1975 được gọi là “văn học của thời kì
đổi mới”. Để tạo nên những “đổi mới” của văn học thời kì này
không thể không nhắc đến những đóng góp của đông đảo các nhà
văn nữ. Họ là những cây bút trẻ rất giàu nội lực sáng tạo. Hình như
do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn
nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh, dở dang của cuộc sống. Đội
ngũ nhà văn nữ khá đa dạng, mỗi người có một giọng điệu riêng.
Cùng với Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Lý Lan… Y Ban là nhà văn đã tạo nên những dấu ấn riêng trong
dòng chảy văn học đương đại nói chung và truyện ngắn nói riêng.
1.2.
Y Ban tên thật là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 01 tháng 07 năm
1961tại Ninh Bình. Chị tốt nghiệp trường Đại học Y và đã từng
giảng dạy tại trường Cao đẳng Y Nam Định. Nhưng theo Y Ban
nghề văn đã chọn chị, cô giáo Ban bỏ nghề y đi viết văn và trở thành
Y Ban (tức Ban trường y). Hiện nay chị là phó ban biên tập Báo
Giáo dục và Thời đại. Y Ban được bạn đọc biết đến bởi nhiều tác
phẩm của chị đã đạt giải cao. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn của tạp
chí Văn nghệ quân đội (1989-1990) với truyện ngắn Bức thư gửi mẹ
Âu Cơ và Truyện một người đàn bà. Giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội
của Nhà xuất bản Hà Nội năm 1993 với tập truyện ngắn Người đàn
bà có ma lực. Giải C cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba của Hội nhà văn
5
Việt Nam với tập truyện ngắn Miếu hoang (2000). Giải nhất cuộc
thi viết truyện ngắn giáo dục đạo đức cho thiếu niên và nhi đồng do
Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức với truyện ngắn Ngôi nhà thân
thiện. Các tác phẩm này đã gây được tiếng vang và giúpY Ban tự tin
hơn trên hành trình sáng tác của mình.
1.3.
Sau những thành công ấy Y Ban vẫn miệt mài sáng tác. “Gia tài”
của chị có tám tập truyện ngắn, một tập truyện vừa, hai tiểu thuyết
và một tập truyện mini. Nhiều tác phẩm của Y Ban khi mới ra đời
đã thu hút được sự quan tâm của cả độc giả và giới phê bình văn học
thậm chí tạo nên một làn sóng dư luận văn học trong nước và nước
ngoài. Đã có không ít những cuộc phỏng vấn, những bài viết trên
các báo, tạp chí và những cuộc trao đổi trên các diễn đàn và báo
mạng về các sáng tác của Y Ban.
1.4.
Tuy nhiên, sự quan tâm của bạn đọc và giới phê bình mới chỉ dừng
lại ở những bài viết trên các báo và tạp chí. Cũng đã có một số luận
văn nghiên cứu về sáng tác của chị nhưng lại kết hợp nghiên cứu với
các nhà văn nữ khác hoặc nghiên cứu đặc điểm văn xuôi của chị.
Với số lượng tác phẩm đáng kể và các giải thưởng cao với thể loại
truyện ngắn, đã đến lúc phải có những khảo cứu riêng về toàn bộ
truyện ngắn của Y Ban một cách hệ thống và đầy đủ.
Đó là những lí do khiến tôi chọn đề tài : “Thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Y Ban”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.
Các bài viết về truyện ngắn Y Ban trên các báo và tạp chí
Y Ban được bạn đọc và giới phê bình chú ý khi Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (19891990). Trong bài Một giọng nữ trầm trong văn chương nhà nghiên cứu phê
6
bình Bùi Việt Thắng đã nhận định: “Y Ban có lối viết riêng của mình, chị chú
ý khai thác nhiều tâm trạng điển hình của nhân vật trong những tình huống
tiêu biểu”, ông cho rằng: “Truyện của Y Ban có thể được xếp vào dạng truyện
tâm tình – không đặc sắc về cốt truyện và tình tiết song lại có khả năng lắng
đọng trong người đọc bởi chiều sâu tâm lí của tính cách da diết của tình đời,
tình người” [14]. Trong bài Khi người ta trẻ trên báo Văn nghệ số 43 năm
1993 Bùi Việt Thắng viết: “Y Ban quan tâm đến yếu tố thời gian nghệ thuật
nên truyện của chị đậm chất chiêm nghiệm, triết lí”.Trên báo Văn nghệ số 25
năm 2003 có đăng bài Y Ban và những thân phận đàn bà của Xuân Cang. Tác
giả đã phân tích và lí giải về cách xây dựng nhân vật nữ của Y Ban. Ông đưa
ra nhận xét: “Y Ban là một người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm và chị cảm
nhận được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người”.
Trong bài Đọc truyện ngắn Y Ban tác giả Lê Thị Hương Thủy đã có
những nhận xét cơ bản về đặc điểm của những tác phẩm thuộc “thể loại nhỏ”
của Y Ban như: “sự trở đi trở lại của những nhân vật nữ”, “xu hướng khai
thác những xung đột bên trong”, “những không gian sáng” trong tác phẩm…
Chị đưa ra một nhận định chung: “Đọc truyện ngắn Y Ban người đọc như bị
ám ảnh không dứt về những thân phận, những cuộc đời qua từng câu chuyện
kể. Những câu chuyện có lúc tưởng như không đầu không cuối nhưng lại có
sức neo giữ trong tâm trí người đọc. Tựa vào cảm giác, tâm trạng… ngòi bút
Y Ban đã khơi sâu vào mạch nguồn cảm xúc, vào thế giới tâm linh của con
người để rồi lại đem đến cho người đọc những cảm nhận, những nỗi niềm
trước từng cảnh ngộ”. [18]
Tại hội thảo khoa học Mười truyện ngắn hay báo Văn nghệ 1998 do
Đại học Hồng Đức tổ chức, giảng viên Vũ Thị Oanh đã đưa ra nhận định:
“Sáng tác của Y Ban không đặt ra những vấn đề to tát, cũng không đại ngôn
mà thường chỉ là những điều mắt nhìn và trái tim suy nghĩ nhưng thường để
7
lại những ám ảnh có lúc xa xót như những nhát cứa, có lúc bồi hồi dịu ngọt.
Đã gặp một lần – những người có trái tim nhạy cảm không dễ mấy ai quên”.
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3 năm 2010 nhà nghiên cứu Phong
Lê viết: “Từ sau 1995 sẽ là sự xuất hiện và khẳng định vị trí của một thế hệ
mới, nhìn chung là từ lứa tuổi 5X đến 7X trở đi như Lê Minh Khuê, Nguyễn
Quang Thiều, Trần Đức Tiến, Trần Thị Trường, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Tạ
Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Thu Huệ, Võ Thị
Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh... cho đến Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tư,
Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Triều Hải, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Đỗ
Bích Thúy, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Thế
Hoàng Linh... Có lẽ sự đông đúc của đội ngũ thì chưa có giai đoạn nào trước
đây sánh bằng bây giờ. Và do quá đông đúc trong một thời kỳ đất nước mở
rộng giao lưu và hội nhập, trong kỷ nguyên của Cách mạng thông tin và Toàn
cầu hóa nên những tìm kiếm cho cái riêng của họ là rất đa dạng.” [7]
Có thể thấy những bài viết về sáng tác của Y Ban trên các báo và tạp
chí chưa thực sự phong phú về số lượng và khảo sát chưa sâu. Các tác giả chỉ
dừng lại tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu, nhận diện tác giả mà chưa nghiên
cứu cụ thể các bình diện của tác phẩm hoặc hệ thống hóa tác phẩm. Nhưng
trên các báo mạng và các diễn đàn văn nghệ ta sẽ thấy một không khí sôi nổi,
thẳng thắn, tự do khi trao đổi về những tập truyện ngắn của Y Ban.
2.2.
Các bài viết, trao đổi về truyện ngắn của Y Ban trên các diễn
đàn và báo mạng
Trong bài phỏng vấn do Hoàng Thu Phố thực hiện khi cuốn Hành trình
của tờ tiền giả ra mắt Y Ban bày tỏ việc chị “đánh giá cao độc giả hơn các
nhà phê bình văn học” là “điều hiển nhiên”.Vì chị cho rằng: “Bạn đọc là
người thông minh nhất” và chị “hoàn toàn tôn trọng ý kiến của độc giả”. Các
bài viết về tác phẩm của Y Ban trên mạng internet rất phong phú thể hiện
8
quan điểm và cảm nhận của độc giả nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp. Dưới đây tôi
đưa ra một số bài viết của các nhà báo và độc giả là thành viên của những
diễn đàn có uy tín.
Bài viết Y Ban – hành trình đến tận cùng thế tục trên Viettimes tác giả
Hoàng Tố Mai nhận xét: “…tác phẩm của Y Ban tràn ngập những tình tiết
cực kỳ ấn tượng thể hiện một vốn sống vô cùng phong phú và đặc biệt. Quan
trọng hơn cả là thế giới quan độc đáo của tác giả, nó thật khác thường, tuyệt
đối độc lập, có khuynh hướng triệt hạ tất cả những gì tỏ ra cải lương, rởm,
nửa mùa. Gu thẩm mỹ của Y Ban cũng khác lạ. Có lẽ với tác giả này cái Đẹp
không chỉ là cái mĩ miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến con người
ta hưng phấn, lặng đi, sững sờ thậm chí là sốc nữa”. Bài viết đã hệ thống lại
những sự kiện đặc biệt của truyện ngắn Cẩm cù và đưa ra những chiêm
nghiệm cùng tác giả Y Ban.
Có thể nói tập truyện I am đàn bà đã tạo nên một làn sóng tranh luận
trên các diễn đàn. Trong đó có những lời khen và cả những phản hồi trái
chiều. Bài viết Đọc sách I am đàn bà của Phạm Hồ Thu có đoạn: “Mỗi truyện
là một câu chuyện thú vị hoặc là nói về vẻ đẹp đàn bà, hoặc là nói về nỗi đau
đớn đàn bà… Đó là bài ca bi lụy và ngạo nghễ về thế giới đàn bà trong nỗi
khát vọng đi tìm một xã hội hoàn hảo hơn để mỗi người đàn bà đều xứng
đáng là người của phái đẹp”. [23] Trên diễn đàn văn học trẻ đa số các ý kiến
đều đánh giá cao tác phẩm có chứa sex của Y Ban. Ngọc Diệp cho rằng:
“Nhân vật của Y Ban, văn của Y Ban vẫn rất nữ tính và đằng sau tất cả có
lòng yêu thương con người, ao ước vươn tới những cảm xúc xứng đáng với
con người”. [21] Độc giả Mỹ Linh lại viết: “Yếu tố tình dục, những câu
chuyện tình dục như Y Ban miêu tả cũng có thể hiện hữu trong mỗi người, chỉ
có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt đạo đức giả nên cho rằng nó xấu, hoặc
lâu nay không quen nói ra”. [21] Riêng về truyện ngắn I am đàn bà, nhà văn
9
Dạ Ngân cho rằng: “Thị là một thân phận phụ nữ nông dân điển hình trong
thời đại. Qua truyện ngắn ấy, Y Ban đã vượt lên chính mình, đã thoát khỏi
chuyện tình cảm đàn ông, đàn bà để hướng vào thân phận đàn bà chung hơn,
lớn lao hơn”. Bên cạnh những lời khen, tác phẩm của Y Ban cũng nhận được
những ý kiến trái chiều. Trên diễn đàn văn học trẻ anh Hoàng Thành Nam đã
thể hiện sự phẫn nộ khi nhà xuất bản Phụ nữ cho phát hành cuốn I am đàn bà:
“Tôi không thể nghĩ rằng hiện nay các nhà xuất bản lại có thể cho xuất bản
những cuốn sách có nội dung phản tác dụng như thế này…” [22]. Độc giả
Nguyên Nguyên lại có nhận xét với giọng châm biếm: “Nếu gom hết những
nhà thơ nhà văn Hoàng Diệu, Y Ban… đến một thế giới mà chỉ có họ với
nhau, tôi nghĩ rằng họ sẽ nude trong thế giới của họ cả ngày lẫn đêm bởi còn
gì ngoài sự trần trụi được phô ra một cách tỉ mỉ hết.” [20] Tuy nhiên ta thấy
xu hướng nhìn nhận tác phẩn của Y Ban một cách khách quan, tìm thấy nhiều
giá trị tốt đẹp vẫn chiếm ưu thế hơn. Những ý kiến trái chiều cũng có lí lẽ của
họ nhưng nên chăng họ cần đặt nó trong hệ thống những sự kiện khác để thấy
được toàn bộ giá trị của tác phẩm để tránh cái nhìn chủ quan, phiến diện theo
khía cạnh dung tục tầm thường.
Bên cạnh những bài viết nói trên, các bài nhà văn Y Ban trả lời phỏng
vấn của các phóng viên trên các báo cũng gợi mở cho chúng tôi rất nhiều
trong quá trình thực hiện đề tài. Tiêu biểu là các bài:
Xuân Anh – vietimes.vietnamnet.vn: Buồn ơi! Y Ban chào mi; Nhà văn
Y ban – văn chương vẫn cần trời cho.
Hòa Bình – tienphong.vn: Y Ban: Bốp chát & nữ tính
Tú Cầu – giadinh.net.vn: Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức.
Lê Hà – dep.com.net: Đối thoại Y Ban – Nguyễn Khắc Phục
Nguyễn Hằng – dantri.com: Nhà văn Y Ban bị sốc khi “I am đàn bà” bị
thu hồi
10
Hoàng Hường – tuanvietnam.vietnamnet.vn: Nhà văn Y Ban: “Chúng
ta đang quay cuồng trong bức xúc”
Hà Linh – vnexpress.net: Y Ban: “Cũng có lúc khóc rú lên một mình”
Cao Minh – sggp.org.vn: “Lát cắt” Y Ban
Hoài Phố - vietbao.vn: Y Ban: “Muốn bị đập một cái vào mặt”
Vân Quế - phapluattp.vn: Nhà văn Y Ban: “Chỉ cầu mong hai chữ bình
an”
Vũ Quỳnh – cand.com: Nhà văn Y Ban: “Kinh nghiệm của tôi: Hạ thấp
mình xuống”
…
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Luận văn khảo sát toàn bộ tám tập truyện ngắn của nhà văn Y Ban đã được
xuất bản:
- Người đàn bà có ma lực (NXB Hà Nội – 1993)
- Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (NXB Hội nhà văn – 1995)
- Vùng sáng kí ức (NXB Hội nhà văn – 1996)
- Miếu hoang (NXB Thanh niên – 2000)
- Cẩm Cù (NXB Hà Nội – 2001)
- Cưới chợ và những chuyện ngắn mới (NXB Văn học – 2005)
- I am đàn bà (NXB Phụ nữ - 2006)
- Hành trình tờ tiền giả (NXB Hội nhà văn – 2009)
11
Bảng thống kê số lượng truyện ngắn trong từng tập:
TT
Tập truyện
Số lượng
Số lượng truyện
truyện
trùng lặp với tập
ngắn
trước
01
Người đàn bà có ma lực
9
0
02
Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm
12
0
03
Vùng sáng kí ức
11
1 (Quê nội – đã in
trong tập Người đàn
bà sinh ra trong bóng
đêm)
04
Miếu hoang
18
0
05
Cẩm Cù
11
0
06
Cưới chợ và những chuyện ngắn mới
14
0
07
I am đàn bà
10
4 (Gà ấp bóng đã in ở
tập Cưới chợ và những
chuyện ngắn mới, Cái
Tý, Sau chớp là dông
bão, Người đàn bà
đứng trước gương đã
in trong tập Miếu
hoang)
08
Hành trình tờ tiền giả
14
12
0
4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Y Ban
Bước đầu ghi nhận những thành tựu và đóng góp quan trọng của nhà
văn Y Ban trong dòng văn xuôi đương đại Việt Nam
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi thực hiện các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.1.
Phương pháp thống kê:
Với số lượng tác phẩm khá lớn phương pháp này sẽ giúp chúng tôi
trong quá trình khảo sát, phân loại các đặc điểm nổi bật về nội dung,
các kiểu dạng nhân vật và một số phương thức nghệ thuật trong truyện
ngắn của Y Ban .
5.2.
Phương pháp so sánh:
So sánh truyện ngắn của Y Ban với sáng tác của các nhà văn khác để
thấy được điểm khác biệt và đặc trưng trong sáng tác của Y Ban.
5.3.
Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phương pháp này giúp chúng tôi vừa đi sâu nghiên cứu thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn Y Ban vừa hệ thống, tổng hợp kết quả để minh
chứng cho các luận điểm của luận văn.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn của chúng tôi gồm có ba chương:
Chương 1. Truyện ngắn của Y Ban trong dòng chảy chung của văn
xuôi thời kì đổi mới.
Chương 2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Y Ban.
Chương 3. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Y Ban.
13
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Truyện ngắn của Y Ban trong dòng chảy chung của văn xuôi
nữ thời kì đổi mới
1.1.
Vài nét về văn xuôi nữ thời kì đổi mới:
Từ năm 1986 đến năm nay, xã hội ta có những biến chuyển sâu sắc trên
mọi phương diện: sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang được
đẩy nhanh tốc độ phát triển, việc giao lưu, hội nhập đa phương với thế giới
cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong xu thế mở cửa.
Trong thời gian đầu, những hạn chế cơ bản sẽ không thể tránh khỏi đối với
một quốc gia mới giành được độc lập, tự do như Việt Nam. Đổi mới vừa là cơ
hội vừa là thử thách đối với mỗi nhà văn. Trong bối cảnh xã hội được dân
chủ hoá, đời sống văn học dần mang một sắc diện mới trong quan niệm và
cách đánh giá. Sự đa dạng về nhu cầu và thị hiếu của người đọc được tôn
trọng, thị trường văn học được hình thành theo đúng quy luật vừa rộng rãi vừa
khắc nghiệt của cung - cầu. Lịch sử xã hội luôn tác động và chi phối đến văn
học. Đó là một quy luật. Văn học Việt Nam sau năm 1975 cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Với một tiền đề xã hội - thẩm mỹ như thế, sự đổi mới của
văn học Việt Nam sau năm 1975 là tất yếu. Tuy vậy, chính nội lực của mỗi cá
nhân, của các thế hệ nhà văn sẽ quyết định thành công của công cuộc đổi mới
trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Từ nửa sau thập kỉ 80 nhờ công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam văn học thực sự có bước chuyển đổi lớn. Từ năm 1986 văn học bước
vào công cuộc “cởi trói” cho mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến
những chuyển biến lớn lao về tư duy văn học. Văn học thời kì này phản ánh
hiện thực theo những quan điểm mới và những cách nhìn hoàn toàn mới. Đề
tài được mở rộng theo hướng tiếp cận với hiện thực đời sống. Quan điểm của
nhà văn cũng mang những sắc thái thẩm mĩ mới. Cảm hứng sử thi được thay
14
thế bởi cảm hứng đời tư – thế sự. Xu hướng ngợi ca được thay bằng xu hướng
phê phán hiện thực. Cách nhìn cuộc sống ở góc độ lạc quan, tốt đẹp được thay
bằng cách nhìn trực diện những vấn đề của đời sống xã hội. Chính vì vậy văn
học thời kì này đa dạng hơn về giọng điệu, phong phú hơn về thể loại và cũng
gây nhiều tranh cãi hơn. Bước chuyển mình của văn học được thể hiện ở cả
ba thể loại là: thơ, kịch, văn xuôi. Ở văn xuôi, thể loại truyện ngắn ghi lại dấu
ấn rõ rệt nhất. Với lợi thế nhỏ gọn và cơ động truyện ngắn bắt nhịp một cách
nhạy bén và linh hoạt với những biến chuyển của đời sống. Truyện ngắn đi
sâu phản ánh cái hàng ngày, cái thường nhật. Sự vận động của thể loại này từ
1995 – 1999 được Bùi Việt Thắng nhấn mạnh đến sự phong phú về tác phẩm
và tác giả trong sự kế tục của các thế hệ cũng như các khuynh hướng tìm tòi
thể hiện trong sáng tác truyện ngắn. (Một bước đi của truyện ngắn) [15] Về
thi pháp, truyện ngắn trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút
pháp. Có thể thấy phong cách cổ điển trong sáng tác của Nguyễn Thành Long,
Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải; phong cách trữ
tình trong sáng tác của Đỗ Chu, Nguyễn Quang Thiều, Võ Thị Hảo; phong
cách hiện thực trong sáng tác của Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu
Huệ. Hình thức của truyện ngắn cũng đa dạng hơn với truyền kì hiện đại, giả
cổ tích, truyện ngắn – kịch, truyện cực ngắn, truyện ngắn triết luận… Về ngôn
ngữ và phương thức trần thuật cũng có nhiều thủ pháp mới như: tăng cường
đối thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện. Tất cả
những điều đó đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho truyện ngắn.
Mười năm đầu đổi mới văn đàn đã chứng kiến sự được mùa của truyện
ngắn. Trong đó có sự đóng góp của các cây bút nữ. Người ta nói nhiều đến
một nền văn học “mang gương mặt nữ”. “Đã hình thành một tỉ lệ giữa phái
yếu và đấng mày râu là 2/3 – một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy
truyện ngắn trẻ hôm nay và văn chương nói chung mang gương mặt nữ.”
15
(theo Bùi Việt Thắng). Mười năm sau đó chúng ta có thể kiểm nghiệm sự
sung sức và bền bỉ trong sáng tạo nghệ thuật của đội ngũ những nhà văn nữ.
Giai đoạn này có rất nhiều bài đánh giá, bình luận, phỏng vấn về các cây bút
nữ: Văn xuôi phái đẹp – Bích Thu; Khi người ta trẻ I,II – Bùi Việt Thắng; Suy
nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ – Phương Lựu; Điểm qua sự vận động của
truyện ngắn các cây bút nữ - Lê Thị Hương Thủy Thành tựu và đội ngũ các
nhà văn nữ Việt Nam- Nguyễn Thị Như Trang, Truyện ngắn nữ và xu hướng
tự nghiệm –Hoàng Thị Hồng Hà, Văn chương nữ giới – một cách thể hiện ở
đời – Huỳnh Như Phương… Đó là chưa kể những bài viết riêng về một tác
giả. Điều đó chứng tỏ những cây bút nữ đang trong thời kì “khởi sắc”.
Bên cạnh thế hệ nhà văn đã trưởng thành trong chiến tranh như: Lê
Minh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê…, thế
hệ nhà văn mới phát lộ tài năng. Đây là đội ngũ nhà văn đông đảo, trẻ tuổi,
sung sức, tự tin và đầy nhiệt huyết. Có thể kể đến những gương mặt quen
thuộc với bạn đọc như: Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Châu Giang, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thúy… Với nhiệt huyết và sáng tạo không ngừng họ xứng đáng
là đội ngũ kế cận thế hệ đàn chị của mình. Họ đã thể hiện khả năng sáng tạo
của mình bằng các ngôi vị quán quân trong các cuộc thi viết truyện ngắn, tiểu
thuyết do tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Giải nhất năm 1989 – 1990
thuộc về Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một người đàn bà; năm
1992 – 1994 là Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm
áp; năm 1995 – 1996 giải thuộc về Trần Thanh Hà với chùm truyện ngắn:
Miền cỏ hoang, Bà Thỏm, Sông có dài; năm 1998 – 1999 là Đỗ Bích Thúy với
chùm truyện: Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi, Sau những mùa trăng và gần
đây năm 2001 – 2002 Thùy Linh được giải nhất với tập truyện ngắn Gió mưa
gửi lại. Năm 1996 – 1997 các nhà văn: Dương Nữ Khánh Thương, Viên Lan
16
Anh, Đào Phong Lan cũng đạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do báo Văn
nghệ trẻ tổ chức. Nguyễn Ngọc Tư đạt giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 lần
thứ II do Nhà xuất bản trẻ, Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh và Báo Tuổi trẻ tổ
chức. Hồ Thị Ngọc Hoài – một tác giả không chuyên – đã đạt giải nhất cuộc
thi truyện ngắn lần thứ 13 năm 2006 -2007 do Báo Văn nghệ tổ chức với tác
phẩm Thung Lam.
Không chỉ dừng ở những giải thưởng đó, các nhà văn nữ vẫn tiếp tục
sáng tác với đam mê của mình. Họ tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm sau
những lần được xướng danh tại các lễ trao giải. Họ làm việc với thái độ
nghiêm túc và đầy nhiệt huyết. Truyện ngắn chính là thể loại sở trường, phù
hợp với sức “rướn” của các nhà văn nữ. Nhiều tác phẩm đã khiến dư luận chú
ý và tạo ấn tượng trong đời sống văn học: Bi kịch nhỏ - Lê Minh Khuê, Giấc
ngủ nơi trần thế - Nguyễn Thị Ấm, Khi người ta trẻ - Phan Thị Vàng Anh,
Người đàn bà đứng trước gương, Sau chớp là dông bão – Y Ban, Minu xinh
đẹp – Nguyễn Thị Thu Huệ, Hạnh – Nguyễn Thị Minh Dậu… Không chỉ
thành công ở thể loại truyện ngắn sở trường, họ cũng có những thành công
nhất định ở thể loại tiểu thuyết: Giàn thiêu – Võ Thị Hảo, Ngụ cư – Thùy
Dương, Tường thành – Võ Thị Xuân Hà, Xuân từ chiều – Y Ban và truyện
vừa như: Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ, Tiệm may Sài Gòn – Phạm
Thị Hoài, Cánh đồng bất tận – Nguyễn Ngọc Tư, Thần cây đa và tôi - Y
Ban…
Có thể giải thích sự “lên ngôi” của các nhà văn nữ bởi hai nguyên nhân.
Thứ nhất là do cơ chế đổi mới của đất nước từ năm 1986. Sự đổi mới của đời
sống xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các nhà văn nói chung và các
nhà văn nữ nói riêng. Họ có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống
xã hội và đời sống tinh thần của con người. Theo Bùi Việt Thắng “làm nên
đặc trưng riêng của những cây bút nữ trẻ là cái nhu cầu đến như là mê say
17
được tham dự, được hòa nhập vào nỗi niềm đau khổ và hi vọng của con
người”. Và đặc biệt là họ khai thác vào những vùng đất cấm kị mà văn học
trước đây phải né tránh. Sự giao lưu và hội nhập văn hóa đã giúp họ tiếp cận
được với nhiều nguồn thông tin thúc đẩy họ tìm tòi, khám phá. Nguyên nhân
thứ hai là do thiên hướng nghệ thuật của giới tính. Các nhà văn nữ đã dần
thoát khỏi những ràng buộc khắt khe của quan điểm Nho giáo tồn tại hàng
nghìn năm trong đời sống để hướng đến khung trời tự do riêng của mình. Và
thật đáng ngạc nhiên, dường như những cây bút nữ bắt kịp với cuộc sống thời
đổi mới và hội nhập nhanh hơn nam giới. Đặc biệt, bằng lợi thế về giới mình,
các nhà văn nữ đã mạnh dạn viết về những vấn đề nhạy cảm của giới mình, đi
sâu vào thế giới tâm hồn bí ẩn của người phụ nữ. Theo nhà nghiên cứu Vương
Trí Nhàn “Hình như do sự nhạy cảm của riêng mình, phụ nữ bắt mạch với
thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời
sống. Mặt khác với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lượng thì không ai
bằng, mà nhỏ nhen chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng – từng cây bút nữ
tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [3] Lợi thế của họ là
sự đa cảm, tài quan sát tinh tế và năng lực ngôn ngữ. Họ viết nhiều và thành
công ở thể loại truyện ngắn có lẽ bởi “cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có chung
tần số với cảm xúc nữ tính: sự lóe sáng, sự bất thường, tính thời khắc và sự
dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng”. [10]
Những sáng tác của các nhà văn nữ mang âm hưởng của cuộc sống
thời đại. Họ chuyển tải mọi vấn đề của cuộc sống đa chiều kích vào tác phẩm
một cách tự nhiên. Chúng ta có thể thấy sự tha hóa nhân cách con người, ma
lực của đồng tiền trong Đường về trần - Võ Thị Hảo, Đồng đô la vĩ đại – Lê
Minh Khuê, Hành trình của tờ tiền giả, Cưới chợ, Tôi đánh đề - Y Ban;
những vận lộn để mưu sinh trong Nhà trọ - Nguyễn Thị Châu Giang, Ước mơ
của chị bán hàng rong, Mùa đến rồi đấy, Chuyện ở rừng – Y Ban, Vũ điệu
18
địa ngục – Võ Thị Hảo; lối sống lai căng, thực dụng trong Công tử vườn –Lý
Lan, Cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa, Bản lí lịch tự thuật – Y Ban…
Nhưng có lẽ với bản năng của phụ nữ các nhà văn thường đi sâu vào đề tài
tình yêu, “đem toàn bộ đời sống hiện thực và tinh thần tập trung vào tình yêu
và triển khai ra cũng thành tình yêu” (theo Phương Lựu). Vì vậy đề tài tình
yêu chiếm vị trí khá lớn trong sáng tác của họ: Chiếc lá xanh hạnh phúc,
Những kẻ ra đi – Nguyễn Thị Ấm, Cát đợi, Tình yêu ơi ở đâu – Nguyễn Thị
Thu Huệ, Gà ấp bóng, Và anh, một phần ba của cuộc đời em, Thiên đường và
địa ngục – Y Ban, Si tình – Phan Thị Vàng Anh… “Truyện ngắn nào cũng
chan chứa hoài niệm và mơ ước về một tình yêu, một hạnh phúc đích thực,
khó nắm giữ, mong manh dễ bị thời gian khỏa lấp”. [13] Các sáng tác của
những cây bút nữ cũng hướng về kí ức. Họ viết về kỉ niệm thời thơ ấu Đi câu,
Đi chợ sớm – Y Ban, Bến đợi – Đỗ Bích Thúy; nỗi nhớ người thân Điều ấy
bây giờ con mới hiểu ra – Y Ban; kí ức về quê hương Vùng sáng kí ức – Y
Ban… Nhưng thẳm sâu và da diết nhất vẫn là kí ức về tình yêu: Và anh, một
phần ba của cuộc đời em, Gà ấp bóng, Cưới chợ – Y Ban, Xin hãy tin em –
Nguyễn Thị Thu Huệ… Tình yêu mang đến những khoảnh khắc đẹp đẽ rồi ra
đi để lại những vết thương suốt cuộc đời không lành nổi. Tất cả đều được cất
dấu vào nơi bí mật nhất trong tâm hồn họ để cân bằng cuộc sống của họ.
Trong thế giới nhân vật phong phú của văn xuôi các cây bút nữ là
những người phụ nữ với những thân phận và tính cách cá biệt nhưng lại
có chung những miền khát vọng, ước mơ. Họ là những người phụ nữ quyết
liệt đầy bản lĩnh dám yêu và dám lên tiếng đòi sự bình đẳng trong tình yêu
(Vũ điệu địa ngục – Võ Thị Hảo, Cát đợi – Nguyễn Thị Thu Huệ), là những
phụ nữ sống trong cô đơn và tiếc nuối quá khứ (Người đàn bà có ma lực – Y
Ban), là những người thất thường, hòa trộn cả thật thà và giả dối (Tôi yêu
nàng đấy thị ơi – Y Ban, Những đêm thắp sáng – Y Ban)… và còn nhiều
19
người đàn bà khác với đủ mọi tầng lớp, đủ mọi tính cách. Đa số họ là những
người đàn bà bất hạnh, phải gánh chịu nhiều nỗi đau của số phận. Chính vì
vậy họ luôn khát khao một tình yêu đích thực, một hanh phúc giản đơn, họ “là
những người lữ hành đi tìm tình yêu, một tình yêu theo đúng nghĩa của nó
nhưng khi tưởng đến đích thì họ như bước lạc vào khoảng trống vô vọng”
[17] (Người sót lại của rừng cười – Võ Thị Hảo, Mười ngày – Phan Thị Vàng
Anh, Thiếu phụ và những đôi cò, Ôn lột tử - Y Ban). Mỗi tác giả có một cách
viết riêng song ẩn dưới những trang viết của họ là niềm yêu thương, sự trân
trọng, sự cảm thông với số phận của những người phụ nữ. Các chị đã thể hiện
được lợi thế của giới tính khi xây dựng một thế giới nhân vật nữ có nội tâm
phong phú và phức tạp và đào sâu khai thác những bí ẩn trong tâm hồn người
phụ nữ.
Các nhà văn nữ có lối viết phá cách và giọng điệu đa dạng. Nguyễn
Thị Thu Huệ chao chát và từng trải trong Phù thủy, Hậu thiên đường nhưng
cũng không kém phần dịu dàng trong Biển ấm. Võ Thị Hảo ngọt ngào trong
Hồn trinh nữ, Tình yêu mây trắng.Nguyễn Thị Thu Huệ chao chát, từng trải
trong Phù thủy, Hậu thiên đường nhưng lại đằm thắm, dịu dàng trong Biển
ấm, Y Ban táo bạo và khắc khoải trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Ước mơ của
chị bán hàng rong, Thiên đường và địa ngục, Làng Cò, Cưới chợ. Phan Thị
Vàng Anh với lối viết lạnh lùng, trí tuệ và hóm hỉnh trong Khi người ta trẻ, Si
tình. Lý Lan hồn hậu và sắc sảo trong Công tử vườn. Nguyễn Ngọc Tư sâu
lắng và mượt mà trong giọng điệu Nam bộ với Cải ơi, Cánh đồng bất tận làm
thức tỉnh bao trái tim người đọc.
Bên cạnh những mặt mạnh, văn xuôi nữ giới cũng còn những hạn chế
như: “chưa tìm được sự cân đối hài hòa” giữa lí trí và trí tuệ (theo Phương
Lựu), quan tâm đến “chuyện” nhiều hơn “văn” (theo Bùi Việt Thắng) và
nguy cơ lặp lại mình khá rõ. Những hạn chế trong bất kì trào lưu văn học
20
- Xem thêm -