Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn nguyễn tuân trước cách mạng thá...

Tài liệu Luận văn tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn nguyễn tuân trước cách mạng tháng tám năm 1945

.PDF
91
143
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HIỀN Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI, 2005 Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Nguyễn Tuân là một trong những cây bút xuất sắc, có phong cách độc đáo đã tự vươn lên để khẳng định vị trí của mình trên văn đàn. Sau hơn 60 năm cống hiến cho hoạt động nghệ thuật Nguyễn Tuân đã say sưa đi và viết không hề biết mệt mỏi, ông để lại một gia tài đồ sộ với nhiều tác phẩm và nhiều thể loại phong phú như: truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết, tuỳ bút... Ngoài ra ông còn viết phê bình văn học, dịch thuật, đóng phim, diễn kịch... ở lĩnh vực nào Nguyễn Tuân cũng say sưa hết mình với công việc và thể hiện được phong cách riêng độc đáo của mình. Đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút bậc thầy, sắc sảo và tài hoa. Đặc biệt là ở thể loại tuỳ bút thì hiếm có một cây bút nào lại gắn bó chung thuỷ với nó suốt một đời sáng tác như Nguyễn Tuân. Vì thế từ khi Nguyễn Tuân ra đi đã để lại một khoảng trống không dễ gì bù đắp được cho nền văn học nước nhà. Trong bức điện của Hội nhà văn Liên Xô gửi Hội nhà văn Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh và ba năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Tuân in trên Báo văn nghệ số 33, năm 1990 đã khẳng định: "Đó là một thiên tài kỳ lạ mà văn xuôi của ông ngày càng trở thành một bộ phận không thể tách rời khỏi di sản cổ điển, người ta sẽ nghiên cứu học tập thứ văn xuôi ấy. Dẫn chứng cho điều đó là sự thành công về mặt độc giả không chỉ ở quê hương ông, mà còn ở rất nhiều nước khác, trong đó ở cả Liên Xô chúng tôi..." Năm tháng qua đi, do sự thử thách, chọn lọc khắc nghiệt của thời gian có những tác phẩm văn học bị chìm vào quên lãng, có những tác phẩm được in sâu vào trong tâm trí người đọc. Chẳng hạn như trong kho tàng văn học dân gian: những bài ca hay, những câu chuyện kể hấp dẫn giàu giá trị văn chương 1 đã được lưu truyền đến hôm nay và mãi mãi về sau. Còn đối với văn học viết, những tên tuổi như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phan Bội Châu, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài... đã, đang và sẽ mãi là niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam. Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, khi viết về cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông, nhà văn Nguyễn Đình Thi cho rằng: "Nguyễn Tuân là một trong mấy nhà văn lớn mở đường và đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX. Cùng với những bạn cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân đã đặt viên đá riêng vào cái nền còn mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta và viên đá của Nguyễn Tuân là một hòn đá tảng, mà tôi tin là chắc bền trong thời gian..."(56/546). Một điều chắc chắn rằng giá trị đích thực của văn chương sẽ được người đời ghi nhận. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét về sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân: "Một ngày không xa khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa"(56/52). Lời tiên đoán của Vũ Ngọc Phan đã trở thành hiện thực. Bởi lẽ những đóng góp to lớn của nhà văn Nguyễn Tuân đối với nền văn học Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước trao tặng cho ông phần thưởng cao quý - giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt đầu tiên, ngày 04/11/1996). Vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu thành công về cuộc đời cũng như văn nghiệp của nhà văn Nguyễn Tuân. Trong luận văn này chúng tôi xin được tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, đồng thời cũng muốn được nói lên suy nghĩ của bản thân về đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trong các tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. 2 Chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu: Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân - Thế giới nhân vật - Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật Ngôn ngữ và giọng điệu. Mong rằng điều đó sẽ làm sáng tỏ được phần nào những giá trị đích thực của các tác phẩm trước cách mạng cũng như những đóng góp to lớn của nhà văn Nguyễn Tuân đối với nền văn học dân tộc. Đồng thời về mặt thực tiễn việc tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn góp phần khẳng định phong cách độc đáo của nhà văn và giúp ích cho việc giảng dạy cũng như nghiên cứu các tác phẩm thêm hiệu quả. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Trước Cách mạng tháng Tám. Khi Nguyễn Tuân cho ra đời một số tác phẩm văn xuôi: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương... đã được các nhà nghiên cứu quan tâm như Vũ Ngọc Phan, Thạch Lam. Hai tác giả đã quan tâm tới những nét riêng độc đáo trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà văn Thạch Lam trong bài viết năm 1940 khi đọc Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân đã nhận xét: "Người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng"(56/229). Song bên cạnh đó nhà văn Thạch Lam cũng đã chỉ ra những phần khiếm khuyết trong Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân: "Về mặt văn chương, chúng ta muốn tác giả Vang bóng một thời đến một sự giản dị sáng sủa hơn nữa, cố tránh những lối hành văn cầu kỳ - sự cầu kỳ trong cái tìm tòi, không phải cái cầu kỳ trong cách điệu tả - tránh những chữ nhắc lại, những sự kiểu cách, những lối về âm điệu trong câu văn. Có lẽ tác giả muốn nói hết cả những cái mình biết và tác giả biết nhiều nên có sự lộn xộn đó chăng?"(56/230). 3 Đối với nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại, ông đã có những nhận xét rất xác đáng về phong cách văn chương của nhà văn Nguyễn Tuân: "Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn chương để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có địa vị xứng đáng hơn nữa"(56/52). Và một điều chắc chắn rằng giá trị đích thực của văn chương sẽ được người đời ghi nhận. 2.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975. Sau Cách mạng tháng Tám một loạt sáng tác mới của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời như: Ngày Cách mạng đầy tuổi tôi, Đường vui, Tình chiến dịch, Tuỳ bút kháng chiến... Dù là những sáng tác mới song các nhà nghiên cứu vẫn nhận ra bóng dáng con người cũ của nhà văn. Đọc Gió Lào năm 1947, Trương Chính phê phán Nguyễn Tuân: "Sao mà kềnh càng đến thế". ở Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc năm 1948 nhà văn Nguyên Hồng có nhận xét về tuỳ bút Đường vui của nhà văn Nguyễn Tuân: "Nguyễn Tuân yêu mình quá, dựng mình lên nhiều quá"(34/7). Đối với Triều Mai thì lại đồng tình với Nguyễn Tuân khi xem quyển Nguyễn: "Tôi muốn tống táng cho xong một cái thời. Có đào sâu chôn chặt rồi thì sau mới yên tâm mà làm việc mới"(34/260). Năm 1957, khi viết về con người và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân, Trương Chính đã có cách nhìn mới: "Ông là một nhà văn độc lập và độc đáo về cách hành văn... Một nhà văn chủ quan nhất trong các nhà văn của ta..."(56/53). Có thể nhận thấy từ sau Cách mạng tháng Tám các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Năm 1960 Nguyễn Tuân cho ra mắt bạn đọc tập tuỳ bút Sông Đà đã gây được nhiều chú ý. Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài Cảm tưởng đọc Sông Đà đã nhận xét 4 Sông Đà là: "Một cuốn tiểu thuyết viết theo lối riêng... là tác phẩm về non sông đất nước Tây Bắc. Khi nói cảm tưởng về Sông Đà, trước hết là tôi muốn chào mừng ở anh Nguyễn Tuân một cách đứng mới, một vị trí mới"(56/271). Bên cạnh việc khẳng định nội dung giàu giá trị, giàu chất thơ của tuỳ bút Sông Đà, Trương Chính vẫn chỉ ra điểm hạn chế của tác phẩm: "Đứng về phong cách mà nói thì phong cách của Nguyễn Tuân vẫn chưa hề thay đổi. Vẫn lôi thôi, dài dòng như thuở nào. Ông là người không bao giờ biết tự hạn chế. Người đọc cứ phải theo ông mà đi như đi vào một bát trận đồ không có lối ra... Cũng may là được cái có duyên"(56/282). Nếu như trong các sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám nhà văn quá đề cao cái Tôi cá nhân, ẩn mình trong cái vỏ cá nhân, không hoà mình với thế giới xung quanh thì các sáng tác sau Cách mạng tháng Tám ông quan tâm hết thảy mọi việc xung quanh, quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ. Chính vì thế mà các nhà nghiên cứu đã có cái nhìn trân trọng và cảm thông cũng như nhận ra được phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Tuân. 2.3. Từ năm 1975 đến nay. Sau khi cả hai miền Nam Bắc hoàn toàn thống nhất, đất nước ta bước vào giai đoạn xây dựng nền kinh tế mới. Đối với văn học trong thời kỳ này (đặc biệt từ năm 1986 trở đi) cũng đã có nhiều thay đổi, người sáng tác được tự do phát huy hết khả năng của mình. Các nhà nghiên cứu cũng đã có cái nhìn mới, cởi mở hơn đối với nhà văn Nguyễn Tuân. Năm 1977, Phong Lê có viết bài Nguyễn Tuân trong tuỳ bút, ông phê phán tuỳ bút Phở của Nguyễn Tuân: "Những câu chuyện ngoài lề, chứ chưa phải là nơi chứa đựng những vấn đề mới dồn tụ những âm vang lớn của đời sống, nhất là đời sống trong xây dựng chủ nghĩa xã hội"(56/88). Ông còn nói thêm: "Trong giai đoạn cách mạng mới này qua tuỳ bút Nguyễn Tuân, dù viết về chiến tranh hay về xây dựng hoà bình, nhà văn thường hay cài vào những ý lấp lửng... Nhiều trang viết của 5 anh có một vẻ gì đó không bình thường"(56/88). Đó là cách nhìn và đánh giá rất khắt khe của Phong Lê đối với nhà văn Nguyễn Tuân. Trong số các nhà nghiên cứu về Nguyễn Tuân đáng phải kể đến là Nguyễn Đăng Mạnh, ông là người nghiên cứu về Nguyễn Tuân một cách khá toàn diện và sâu sắc. Nguyễn Đăng Mạnh nghiên cứu về Nguyễn Tuân từ năm 1968 với bài Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút ký chống Mỹ; hai bài giới thiệu có quy mô cho Tuyển tập Nguyễn Tuân (2 tập năm 1984 - 1986) và Toàn tập Nguyễn Tuân (1988); bên cạnh đó Nguyễn Đăng Mạnh còn có bài viết về Nguyễn Tuân Một phong cách độc đáo và tài hoa. Các bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh đã phân tích một cách sâu sắc, thấu đáo sự nghiệp, quan điểm, phong cách nghệ thuật, đặc trưng thể loại của nhà văn Nguyễn Tuân... Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nhấn mạnh đến nét nổi bật ở nhà văn Nguyễn Tuân đó là cá tính Ngông: "Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi Ngông với thiên hạ. Về căn bản đó là phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc... Nhu cầu chơi Ngông buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới mức trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết..."(8/89-90). Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh còn nhấn mạnh đến cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân như là một yếu tố có tính quyết định tới phong cách riêng của nhà văn: "Nguyễn Tuân quả thực không phải là một con người hoàn toàn dửng dưng với ngoại cảnh và thời cuộc. Không thể nói Nguyễn Tuân đi và viết hoàn toàn để tìm mình, để sống cái cá nhân kín mít của mình"(8/33). Ngoài ra Nguyễn Đăng Mạnh còn có những nhận xét rất sâu sắc về ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân: "Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú... Không chỉ tích luỹ những từ sẵn có, ông luôn luôn có ý thức sáng tạo từ mới và cách dùng từ mới"(56/123). Nguyễn Đăng Mạnh có cách nhìn và đánh 6 giá hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc so với các nhà nghiên cứu khác. Ông có lòng ưu ái và trân trọng đặc biệt đối với nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cũng vậy, ông đánh giá cao nhà văn Nguyễn Tuân. Năm 1983 trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, tập 2, Phan Cự Đệ khẳng định: "Trước cách mạng ta chỉ có một Nguyễn Tuân nghệ thuật vị nghệ thuật, một Nguyễn Tuân nghệ sĩ thuần tuý. Bây giờ ta đã có một công dân Nguyễn Tuân bên cạnh một Nguyễn Tuân nghệ sĩ, một cán bộ Nguyễn Tuân hoà hợp với một nhà văn Nguyễn Tuân"(56/106). Nhà văn Nguyễn Tuân đã trải qua con đường đầy gian khổ với rất nhiều trăn trở, day dứt để phủ định con người cũ và xây dựng con người mới. Quá trình Lột xác đó không hề đơn giản đối với nhà văn, điều này đã được Phan Cự Đệ lý giải một cách sâu sắc: "Sau cách mạng nhà văn không đối lập hai yếu tố thẩm mĩ và xã hội nhưng anh vẫn bắt nhanh những mặt đẹp, nhạy cảm với cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ"(56/107). Quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân khi nhìn nhận, đánh giá mọi mặt của cuộc sống đều xuất phát từ cái đẹp và chỉ cái đẹp mà thôi. Phan Cự Đệ còn nhận thấy ở nhà văn Nguyễn Tuân có điểm đặc biệt: "Nguyễn Tuân thuộc số người mê say Đôxtôiepxki thời ấy. Họ cũng muốn tung hê nổi loạn như các nhân vật của Đôxtôiepxki, muốn chống lại một thứ trật tự giả dối..."(56/104). Ngoài các công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Tuân còn có rất nhiều bài viết về kỷ niệm gắn bó sâu sắc của các nhà nghiên cứu đối với nhà văn Nguyễn Tuân như: Hỏi chuyện Nguyễn Tuân về những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (Ngọc Trai); Những lần gặp gỡ (Nguyễn Quang Sáng); Những người Sài Gòn và anh Nguyễn (Nguyễn Nguyên); Nguyễn Tuân trong lòng tôi (Đoàn Minh Tuấn); Sống đẹp từng ngày (Nguyên Ngọc); Lần cuối cùng gặp gỡ bác Tuân (Phan Hồng Giang); Tản mạn về Nguyễn Tuân (Nguyễn Đăng Mạnh)... Đây là những bài viết 7 tiêu biểu của bạn bè, đồng nghiệp đối với nhà văn Nguyễn Tuân. Qua những bài viết này chúng ta càng hiểu thêm về nhân cách con người cũng như sự nghiệp sáng tác văn học của nhà văn. Một con người có nhân cách, có bản lĩnh không chỉ tài năng trong sáng tác văn học mà còn "sống đẹp từng ngày". Từ năm 1975 đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Tuân. Năm 1997, Hoàng Xuân tuyển chọn và giới thiệu tập sách Nguyễn Tuân - người đi tìm cái đẹp gồm 46 bài viết của 36 tác giả nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Tuân. Năm 1988, Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu tập sách Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm gồm có 93 bài viết của nhiều tác giả như: Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Trương Chính, Phong Lê, Vương Trí Nhàn, Ngọc Trai, Hà Văn Đức, Vũ Đức Phúc, Hoàng Như Mai, Nam Mộc, Văn Tâm, Nguyễn Thị Thanh Minh, Hoài Anh, Nguyễn Thành... Trong suốt 60 năm qua, đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Tuân. Có thể thấy rằng sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân đã trải qua nhiều bước thăng trầm song ngày càng được khẳng định và đánh giá cao. Phong cách cá nhân cũng như cái Tôi độc đáo của nhà văn không còn bị phê phán như trước mà ngược lại được trân trọng, đề cao. Tuy nhiên để hiểu được con người và sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân đòi hỏi phải có sự đóng góp lớn lao của các nhà nghiên cứu. Đối với chúng tôi trong luận văn này mong muốn được Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài: Trong luận văn này chúng tôi chỉ tập trung Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây là công việc rất lý thú song cũng có nhiều khó khăn, bởi theo nhận xét của 8 Nguyễn Đăng Mạnh: "Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học phức tạp nhất giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám"(56/91). Nhưng với lòng say mê và ngưỡng mộ nhà văn Nguyễn Tuân, chúng tôi mong muốn được góp phần làm rõ nét độc đáo và những đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hy vọng rằng đó là những đóng góp nhỏ bé của chúng tôi góp phần vào việc khẳng định Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách độc đáo tài hoa và có một sự nghiệp văn học phong phú và đa dạng. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân kéo dài hơn 60 năm và trải đều ở hai chặng đường trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. ở chặng đường nào ông cũng có những thành tựu đặc sắc. Nhưng trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ đề cập đến những sáng tác của ông giai đoạn trước cách mạng. Thông qua việc tìm hiểu những sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân giai đoạn này, luận văn cố gắng làm nổi rõ được những đặc sắc nghệ thuật và phong cách tài hoa độc đáo của nhà văn. 5. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: 5.1. Phương pháp hệ thống: nhằm nghiên cứu những sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân theo một hệ thống từ quan điểm nghệ thuật, thế giới nhân vật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu. 5.2. Phương pháp so sánh văn học: được tiến hành ở một số nét tiêu biểu về nghệ thuật sáng tác trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân với các nhà văn, nhà thơ khác để tìm ra nét riêng độc đáo của nhà văn này. 9 5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: nhằm tìm hiểu đặc sắc về nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân từ chi tiết, cụ thể đến khái quát giúp cho việc nghiên cứu có sức thuyết phục cao. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu văn học khác như phương pháp loại hình văn học, phương pháp lịch sử cụ thể... 6. Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai trong bốn chương: Chương 1: Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Chương 2: Thế giới nhân vật trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chương 3: Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chương 4: Ngôn ngữ và giọng điệu. 10 Phần Nội dung Chương 1 Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Tuân đã có những đóng góp quan trọng đối với nền văn học dân tộc và nhân loại. Qua những trang viết của nhà văn, người đọc có thể nhận ra được đó là văn chương của Nguyễn Tuân, những câu chữ này là của riêng Nguyễn Tuân. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên của ông người đọc đã có thể nhận ra cái riêng, cái độc đáo tài hoa, uyên bác của cá nhân nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân là người có tài, có sự am hiểu sâu sắc, có vốn từ phong phú, có lòng say mê nghề nghiệp, ham tìm tòi sáng tạo... Mọi câu, mọi chữ nhà văn sử dụng rất hợp lý vừa lại có duyên, dường như có sự hoà quyện cả thơ, ca, nhạc, họa. Nhà văn Anh Đức đã khẳng định Nguyễn Tuân rất xứng đáng là: "Một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ... một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng"(56/524). Không phải dễ gì nhà văn nào cũng xây dựng được cho mình một phong cách riêng, mà thực ra chỉ những nhà văn lớn, có tài năng mới có thể xây dựng cho mình một phong cách riêng độc đáo. Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, trải qua hơn 60 năm cầm bút đã để lại cho đời một di sản văn học đáng quý. Để hiểu được các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân, trước hết chúng ta phải hiểu được: Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân là một vấn đề khá phức tạp, có nhiều mâu thuẫn, không nhất quán, nhất là giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Khi bàn tới quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân, Nguyễn Đăng Mạnh trong Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1, năm 1981 11 có viết: "Một nhà văn của quan điểm duy mỹ (...) một môn đồ của thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật (...) chỉ trọng cái đẹp hình thức, không cần nội dung, chủ trương viết văn không khuynh hướng, nghĩa là muốn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời"(56/91). Theo Nguyễn Đăng Mạnh quan điểm ấy được thể hiện ngay trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân: "Thể hiện ngay ở những nhân vật ưa thích nhất của ông trước cách mạng: những con người tài hoa tài tử, dù tĩnh tại hay xê dịch đối với cuộc sống, đối với quê hương đều chỉ là những kẻ ăn tạm, ở nhờ, những con người sinh ra dường như chỉ để ngắm đời, ngoạn cảnh cho giác quan được no nê thanh sắc và để trổ tài khoe chữ, chứ không chịu gánh lấy một trách nhiệm xã hội nào"(56/91). Quan điểm nghệ thuật ấy không chỉ được thể hiện thông qua những hình tượng nhân vật trong tác phẩm của nhà văn, mà nhiều khi còn được thể hiện dưới dạng những khái niệm hoặc những câu chữ trực tiếp trong tác phẩm. Trong tác phẩm Nguyễn nhà văn Nguyễn Tuân có viết: "Mỹ thuật vốn không là bà con với luân lý của thời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh"(9/1011). Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, dường như nghệ thuật là tất cả, quan niệm "nghệ thuật vị nghệ thuật" được xem như một tiêu chuẩn của lý tưởng thẩm mĩ. Khát vọng của nhà văn muốn vươn tới và thể hiện trong tác phẩm của mình là "cái đẹp" và chỉ "cái đẹp" mà thôi. Trong tuỳ bút Tóc chị Hoài Nguyễn Tuân cho rằng: "Cái người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm một mớ tóc cho tử tế thì cái thẩm mĩ quan của người ấy còn lung lay lắm"(13/338). Nhiều khi Nguyễn Tuân còn ca ngợi vẻ đẹp ma quái của tiếng đàn, cuộc đàn hát cứ như một thứ thôi miên, dường như tiếng đàn làm cho người ta quên đi mọi thứ ở trên đời: "Người ta vừa hát, vừa khóc và người ta đàn đến cái mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí"(13/407). 12 Như vậy chúng ta có thể thấy rằng: trước Cách mạng tháng Tám quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân rất trọng cái đẹp hình thức, thậm chí có lúc đến mức cực đoan. Nói như vậy cũng không có nghĩa là lúc nào quan điểm ấy cũng chi phối ngòi bút của ông. Bởi lẽ có nhiều trang viết của Nguyễn Tuân đã thể hiện thái độ yêu ghét, trọng khinh rõ ràng mà không phải xuất phát từ tiêu chuẩn hình thức. Những trang viết về nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù là một ví dụ: Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa, có tài viết chữ nổi tiếng tỉnh Sơn, mà chơi chữ là một thú chơi tao nhã của người xưa, rất nhiều người mơ ước, đặc biệt là viên quan coi ngục mơ ước có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà: "Có được chữ Huấn Cao mà treo là có một báu vật ở trên đời"(13/100). Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa mà còn là một bậc anh hùng cứu nước, tuy chí lớn không thành nhưng lúc nào cũng giữ tư thế hiên ngang bất khuất. Huấn Cao coi thường quyền lực, khinh bỉ viên quan coi ngục. Nhưng sau khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, một con người mặc dù ở chốn ngục tù đen tối nơi cái ác, cái xấu ngự trị mà vẫn biết yêu, biết quý cái đẹp, Huấn Cao đã đồng ý cho chữ: "Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ"(13/101). Không những thế mà Huấn Cao còn khuyên nhủ rất chí tình đối với viên quản ngục: "Ta khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn ở đi (...) ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững, rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện"(13/102). Như vậy vẻ đẹp trong nhân cách của Huấn Cao có sự thống nhất giữa tài hoa, khí phách hiên ngang và cái tâm trong sáng. Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta thấy được một phương diện nào đó trong quan niệm về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân: cái tài gắn với cái đẹp - cái đẹp ở vẻ tài hoa, cái đẹp ở khí phách hiên ngang bất khuất và cái đẹp ở tâm hồn trong sáng của con người. Trong tác phẩm Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân say sưa 13 đi tìm vẻ đẹp của một thời xưa cũ mà nay chỉ còn vang bóng. Đây là một công việc có ý nghĩa lớn lao: phải yêu quý và muốn lưu giữ lại những vẻ đẹp đã qua thì tác giả mới say sưa, miệt mài viết về nó như vậy. Chữ người tử tù nói riêng hay Vang bóng một thời nói chung là một tác phẩm đặc sắc đánh dấu bước đường trở lại tìm những vẻ đẹp xưa mà người đời thường quên lãng. Trong truyện Bữa rượu máu in trong tập Vang bóng một thời cũng vậy, không phải chỉ có chủ nghĩa hình thức là chủ đạo mà truyện còn có nội dung xã hội mang ý nghĩa sâu sắc. Thông qua những hình tượng, những chi tiết trong truyện tác giả đã lên án và tố cáo chế độ tàn bạo của thực dân Pháp cùng tội ác của những tên bán nước hại dân, chúng đã bày ra nghệ thuật chém đầu người. Trong truyện dường như tác giả có vẻ rất thản nhiên khi miêu tả cảnh tên công sứ Tây và thằng Tổng đốc, vui vẻ chúc rượu nhau trước khi ra lệnh chém đầu mấy nghĩa quân Bãi Sậy. Đây là hành động của những kẻ độc ác, man rợ, lạnh lùng thản nhiên trước cái chết của những người nghĩa quân yêu nước. Chính vì thế mà tội ác của chúng gây ra cuối cùng phải trả giá. Bỗng nhiên một cơn lốc dữ dội đột ngột xoáy bốc cát mù mịt đuổi theo chúng, ném cái mũ của tên công sứ lăn lộn dưới bãi cỏ pháp trường. Đây là một trong những chi tiết thật sâu sắc của tác phẩm thể hiện thái độ phê phán kín đáo và không kém phần thâm thuý của tác giả. Nếu nhìn từ góc độ lịch sử cụ thể để xem xét quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân, chúng ta có thể hiểu được những mâu thuẫn trong quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân vốn là môn đồ của thuyết: "nghệ thuật vị nghệ thuật", "trọng cái đẹp hình thức". Nhà văn có quay lưng lại với hiện thực nhưng đó là hiện thực đen tối của xã hội thực dân phong kiến, chứ không phải quay lưng lại với những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như những cảnh đẹp nên thơ của quê hương, đất nước. Trước Cách mạng tháng Tám nhà văn chưa đủ sức mạnh để chống lại 14 xã hội thực dân phong kiến mặc dù ông có lòng yêu dân, yêu nước tha thiết. Vì thế tất cả những gì mà ông yêu quý cũng như tâm sự của chính mình Nguyễn Tuân đều gửi gắm vào trong các tác phẩm văn chương. Qua các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân, người đọc nhận thấy: suốt cả cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Tuân đã khao khát đi tìm và tôn thờ cái đẹp, cái thật trong cuộc sống hiện tại, trong quá khứ, trong cả cuộc sống giang hồ, xê dịch. Chính vì thế mà trong bài điếu văn truy điệu nhà văn Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Đình Thi có viết: "Tôi nghĩ rằng có lẽ trong những trang viết của Nguyễn Tuân ở dưới sâu những cái bề ngoài nổi gai góc hoặc phiêu lãng, ở đằng sau những sự ngoa ngoắt và cả khinh bạc của một thời ngột ngạt, quẩn quanh, tù túng, bế tắc, ở dưới sâu tất cả những cái ấy là sự đi tìm cái đẹp và đi tìm cái thật, là nỗi khao khát cái đẹp và nỗi khao khát cái thật, là lòng yêu cái đẹp và yêu cái thật"(56/547). Trong bài Nguyễn Tuân và cái đẹp, nhà nghiên cứu Hà Văn Đức có viết về quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân: "Tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái đẹp thuần tuý không vụ lợi (...) cái đẹp chỉ nhằm thoả mãn, đáp ứng những khoái cảm thẩm mĩ của cá nhân"(56/180). Về phương diện nào đó quan niệm của Nguyễn Tuân có điểm gặp gỡ tương đồng với Kant - nhà triết học Đức nổi tiếng, người đề xướng nhận thức duy tâm chủ quan. Kant cho rằng: "Cái đẹp không phải ở má hồng người thiếu nữ mà là trong con mắt xanh của kẻ si tình". Chính tư tưởng ấy đã nhiều lần bộc lộ trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 như: Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài... Người đọc dễ nhận thấy trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, ông hết sức nâng niu, trân trọng và khao khát đi tìm cái đẹp. Nguyên Ngọc rất trân trọng và ngưỡng mộ nhà văn Nguyễn Tuân, trong Hồi ức và Kỷ niệm về nhà văn Nguyễn Tuân, ông viết: " Nguyễn Tuân luôn muốn mỗi ngày sống, mỗi 15 trang đời của mình là một trang nghệ thuật (...) Đó là thái độ thẩm mĩ đặc biệt của ông, riêng ông đối với cuộc sống"(56/534). Nguyễn Tuân đã khao khát đi tìm cái đẹp trong cuộc sống hiện tại đương thời, nhưng đã không được toại nguyện. Hay nói cách khác, ông khó lòng tìm thấy cái đẹp, cái thật trong xã hội "ối a ba phèng", ông chán ghét cuộc sống hiện tại xấu xa, thối nát. Nguyễn Tuân đã đi tìm cái đẹp trong quá khứ, cái đẹp của một thời còn vang bóng. Thế rồi cuộc sống giang hồ, xê dịch đã hấp dẫn, cuốn hút ông, Nguyễn Tuân lại khao khát đi tìm cái đẹp để thoả lòng mình. Lý do khiến Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ hay trong cuộc đời xê dịch theo Nguyễn Đình Thi là vì: "Trong cuộc đời ông sống trước cách mạng, cái đẹp với cái thật không bao giờ khớp được với nhau"(56/547). Cuộc sống hiện thực mà người nghệ sĩ đang sống toàn những chuyện xấu xa, lừa lọc. Chính vì thế mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, theo đuổi cái đẹp trong quá khứ, trong bước đường giang hồ xê dịch. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ góc độ cái đẹp, nhà văn Nguyễn Tuân đã có phát hiện một cách sắc sảo những nét phản thẩm mĩ, những mặt xấu xa, thấp hèn của bọn người trọc phú, trưởng giả trong xã hội đương thời. Điều đáng chú ý ở đây là thái độ phê phán của nhà văn Nguyễn Tuân đối với xã hội chủ yếu xuất phát từ góc độ thẩm mĩ, chứ không phải quan điểm giai cấp. Ông lên án bọn người xấu xa vì chúng không biết nâng niu, trân trọng cái đẹp, chứ không phải vì chúng áp bức bóc lột. Đây chính là điểm phân biệt rõ nét nhà văn Nguyễn Tuân với các nhà văn hiện thực cùng thời. Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, việc phản ứng lại xã hội trên phương diện mĩ học là một đặc điểm nổi bật không giống với bất cứ nhà văn nào. Ông suốt đời tôn thờ cái đẹp và khao khát đi tìm cái đẹp như một cứu cánh, một phương tiện để khẳng định mình. Chính điều này đã lí giải những ưu điểm cũng như những hạn chế trong quan niệm về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đọc những tác 16 phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân, người đọc nhận thấy trong việc tôn thờ cái đẹp nghệ thuật, đôi khi nhà văn đã quá sa đà và trở nên cực đoan. Trong tác phẩm Tóc chị Hoài của Nguyễn Tuân viết: "Chị Hoài mỗi lúc vừa nằm xuống rất nhẹ nhàng thì cả một mớ tóc trần quấn rất chắc ấy đổ tung xuống như một trận mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như một sải rưỡi ôm lấy gáy ấp lấy bả vai (...) cái người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm một mớ tóc cho tử tế thì cái thẩm mĩ quan của người ấy còn lung lay lắm"(13/338). Khi miêu tả vẻ đẹp của mái tóc, Nguyễn Tuân đã tuyệt đối hoá cái đẹp về hình thức. Quan điểm thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám có lẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng từ thế giới quan duy tâm siêu hình, với một cái tôi cá nhân chủ nghĩa cực đoan nên nó mang đậm màu sắc bi quan. Tuy nhiên có thể hiểu rằng những tuyên ngôn của nhà văn về cái đẹp mang màu sắc duy mĩ, cực đoan, nhiều khi chỉ là một cách để nhà văn phản ứng lại xã hội, hoặc chứng tỏ cái tôi độc đáo của mình. Xét về một khía cạnh nào đó, trong quan niệm của nhà văn còn có những yếu tố hạn chế, song điều đáng nói ở đây là qua những trang viết của nhà văn Nguyễn Tuân, người đọc vẫn nhận thấy giá trị đích thực của văn chương. Một trong những giá trị đó chính là: lòng tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn đề cao những vẻ đẹp và giá trị thẩm mĩ dân tộc. Hay nói cách khác đó chính là lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của nhà văn Nguyễn Tuân. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhà văn Nguyễn Tuân vẫn tiếp tục trên con đường đi tìm cái đẹp, cái thật. Ông đã say sưa với cuộc sống hiện tại và miệt mài sáng tác những tác phẩm giá trị như: Đường vui, Tình chiến dịch, Tuỳ bút kháng chiến, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi... Nếu như ở thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân cảm thấy "cái đẹp và cái thật không ăn khớp nhau" thì sang thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám, 17 Nguyễn Tuân mới nhận thấy giữa cái đẹp và cái thật có sự hoà hợp tương đồng. Trong cái đẹp bao hàm cả cái thật và chính cái thật, cái hiện thực của cuộc sống đã khiến Nguyễn Tuân khám phá được vẻ đẹp của cuộc sống, của tâm hồn mỗi con người và giúp ông cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống hơn bao giờ hết. Ông đã hoà mình vào cuộc sống của nhân dân, cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước. Như vậy con đường đi đến cái đẹp, cái thật, đến với chân lí của nhà văn Nguyễn Tuân đó chính là con đường nhà văn trở về với nhân dân, với dân tộc. Như đã nói ở trên quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân là một vấn đề khá phức tạp. Và tính phức tạp ấy còn được thể hiện ở cái Tôi cá nhân nhà văn. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhìn chung cái Tôi của Nguyễn Tuân là cái Tôi cá nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội. Trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, tập 2, GS.Phan Cự Đệ nhận xét: "Đó là cái tôi lập dị, ngang chướng, đi lù lù giữa cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung quanh, khiêu khích với xung quanh (...) Nhân vật Nguyễn chốc buồn đấy rồi chốc lại vui đấy, ngủ lúc đứng, ăn lúc nằm, đi tản bộ trong cơn mưa rào; khi không giữa một tiệc thọ vui lại khóc rống lên vì thương nhớ một người bạn đã khuất bóng từ bao giờ và lôi ra toàn những chuyện xe đòn, mũ mấn áo trám giữa một tiệc cưới mà thực khách đều mặc toàn áo gấm trần"(56/103). Nhiều khi Nguyễn Tuân sống và viết là chỉ cốt sao thể hiện cái cá nhân của mình, còn thế giới khách quan không có gì đáng kể. Nguyễn Tuân đã từng tự hoạ chân dung của mình trong tuỳ bút Tóc chị Hoài: "Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định, cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của mình"(13/337). ở đây Nguyễn Tuân đã không ngần ngại để nói về mình, chính vì xuất phát từ cái Tôi cá nhân, hay nói cách khác: Nguyễn Tuân đã đề cao cái 18 Tôi cá nhân, ẩn mình trong cái vỏ cá nhân, không hoà mình với thế giới xung quanh, nên nhiều khi Nguyễn Tuân mất niềm tin vào cuộc sống, không dám tin vào bất cứ điều gì, ngoài bản thân mình. Vì quá đề cao cái Tôi cá nhân mà nhiều khi có ảnh hưởng tiêu cực đến các sáng tác của nhà văn, khiến cho một số sáng tác của nhà văn trước Cách mạng tháng Tám đi vào ngõ cụt, không lối thoát. Đây là một hạn chế trong quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Vì lẽ đó đã khiến cho nhà văn nhiều khi lại tự chán mình. Trong tập truyện Nguyễn, Nguyễn Tuân đã viết: "A, cái đời tiềm tàng của riêng mỗi người, Nguyễn chán lắm rồi, không thể chán hơn được thế này nữa. Chàng đã mất hết cả tin tưởng trong cái lối sống riêng biệt mà trước kia chàng cho là màu nhiệm kỳ thú lắm"(9/1020). Bên cạnh cái hạn chế đó, thì người đọc cũng nhận thấy nhà văn Nguyễn Tuân không hoàn toàn quay lưng lại với cuộc đời mà ngược lại ông vẫn mở rộng lòng mình đón nhận thế giới xung quanh. Điều đó được thể hiện qua những trang viết của nhà văn. Có thể nói rằng phải có một tâm hồn rộng mở, phải có một tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước mới giúp được nhà văn có những trang viết thật sinh động và nên thơ. Từ một dòng sông, một con đò, một sân ga, một con đường... mà Nguyễn Tuân đã gặp trên con đường xê dịch của mình, những cảnh vật hết sức thân quen, gần gũi, vậy mà dưới ngòi bút của nhà văn nó thực sự trở nên hấp dẫn lạ kỳ và dường như chứa đựng cả tâm tư, tình cảm của con người trong đó. Bức tranh cuộc sống của ông cha ta ngày trước đã được Nguyễn Tuân ghi lại thật rõ nét. Chẳng hạn như cảnh những người dân nghèo vất vả, lam lũ, buôn bán trên bến Hội An (Cửa Đại), hay vùng mỏ Vàng Danh, Uông Bí, nơi tài nguyên giàu có của Tổ quốc thực ra chỉ là cái địa ngục đối với người phu mỏ ngày xưa thời thuộc Pháp. Đằng sau nhiều trang viết, cứ tưởng rằng đó chỉ là sự quẩn quanh với cái Tôi cá nhân nhà văn, nhưng thực ra không hoàn toàn phải như vậy mà là 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan