Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn truyện ngắn của nam cao và o'henry trong cái nhìn đối sánh...

Tài liệu Luận văn truyện ngắn của nam cao và o'henry trong cái nhìn đối sánh

.PDF
94
149
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÚY TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÚY TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 822.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ THẬP PGS.TS. CAO THỊ HẢO THÁI NGUYÊN - 2019 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thúy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Hoàng Thị Thập và PGS.TS. Cao Thị Hảo - những người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ Khoa Ngữ văn, các cán bộ Khoa Sau đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập. Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn. Thái Nguyên ngày 05 tháng 7 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thúy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC ..........................................................................................................iii PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9 6. Dự kiến những đóng góp của luận văn .......................................................... 10 7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10 Chương 1. CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY ................................................................... 11 1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry ............................ 11 1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao .................................................. 11 1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry ................................................... 15 1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà văn ........................................................................................................... 18 1.2. Quan niệm sáng tác của Nam Cao và O’Henry ...................................... 20 1.3. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao và O’Henry .................................. 25 1.4. Đôi nét về khái niệm truyện ngắn và lý thuyết văn học so sánh ............. 31 1.4.1. Khái niệm truyện ngắn ............................................................................ 31 1.4.2. Về văn học so sánh .................................................................................. 31 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31 Chương 2. NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH .......................................................... 33 2.1. Hệ thống đề tài trong truyện ngắn Nam Cao và O’Henry....................... 33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 2.1.1. Các đề tài chính trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ............... 33 2.1.2. Đề tài tương đồng: đề tài người trí thức .................................................. 36 2.1.3. Những đề tài khác biệt ............................................................................. 40 2.2. Hệ thống chủ đề trong truyện ngắn của Nam Cao .................................. 44 2.2.1. Những chủ đề có nét tương đồng ............................................................ 44 2.2.2. Những chủ đề khác biệt ........................................................................... 56 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60 Chương 3. NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH ...................................... 61 3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nam Cao và O’Henry ................... 61 3.1.1. Sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện ............................................... 61 3.1.2. Những điểm khác biệt trong xây dựng cốt truyện ................................... 65 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao và O’Henry ...................... 76 3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................................... 76 3.2.2. Miêu tả hành động của nhân vật .............................................................. 79 3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật ......................................................................... 81 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 83 KẾT LUẬN....................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri. Ông là một trong những nhà văn lớn của thế kỷ XX được nhiều người nghiên cứu. Nam Cao không chỉ được đánh giá là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà ông còn là một nhà văn có quan điểm về nghệ thuật tiến bộ và nhất quán. Trong các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn. O’Henry (1862-1910) tên thật là William Sydney Porter, là một nhà văn nổi tiếng người Mỹ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ông được mệnh danh là “cây đại thụ” của nền văn học Mỹ. Cùng với nhà văn Anton Chekhov (Nga) và Guyde Maupassant (Pháp), O’Henry được coi là một trong ba bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn thế giới. Truyện ngắn của ông đều là những tác phẩm có giá trị và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tên ông được đặt cho “Giải thưởng Kỷ niệm O’Henry” - giải thưởng hàng năm của văn học Mỹ - nhằm tôn vinh những tác giả có truyện ngắn xuất sắc. 1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao chỉ gói gọn trong 15 năm (1936- 1951) nhưng ông đã để lại khối lượng tác phẩm khá lớn (gần 60 truyện, chủ yếu là truyện ngắn). Cho tới nay, ông vẫn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Tác phẩm của ông vẫn khiến người đọc “nghĩ tiếp”, khơi sâu vào những “địa tầng” mới để kiếm tìm những “vỉa vàng” lấp lánh. Với vốn sống phong phú, trong một thời gian ngắn O’Henry cũng đã sáng tác được một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ (gần 400 truyện ngắn và một số bài thơ). Kết cấu truyện chặt chẽ, cốt truyện được xếp vào hàng mẫu mực nhất của truyện ngắn (thế kỷ XX) đã đưa tên tuổi ông vang xa trên toàn thế giới. Truyện ngắn của O’Henry không chỉ tái hiện xã hội Mỹ đầu thế kỷ XX mà còn thể hiện cái nhìn nhân văn và lạc quan về con người, cuộc sống. Trải qua thời gian, truyện ngắn của ông vẫn hấp dẫn độc giả trên toàn thế giới với những ý nghĩa mới mẻ. Vì vậy nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của ông vẫn rất cần thiết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 1.3. Văn học so sánh là tên gọi một phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nó không chỉ cho phép nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các quốc gia khác nhau theo quan hệ giao lưu, ảnh hưởng mà còn cho phép so sánh văn học theo quan hệ tương đồng. Việc đặt truyện ngắn Nam Cao và O’Henry cạnh nhau trong thế đối so sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về hai tác giả. Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của hai tác giả Nam Cao và O’Henry nhưng việc đặt chúng trong quan hệ so sánh để thấy ngòi bút đậm chất nhân văn của hai tác giả thì chưa công trình nào thực hiện có hệ thống. 1.4. Tác phẩm của Nam Cao và O’Henry đã được đưa vào chương trình Ngữ văn phổ thông và chuyên ngành văn ở các trường Đại học ở Việt Nam từ lâu. Ở bậc Đại học, Nam Cao là tác giả được nghiên cứu khá kĩ càng. Ở bậc trung học phổ thông có truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao; trong chương trình trung học cơ sở có truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) và Chiếc lá cuối cùng của O’Henry. Đây là những tác phẩm có nhiều giá trị. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần vào công việc giảng dạy, học tập tác phẩm của hai nhà Nam Cao và O’Henry ở Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học nước ngoài 2.1.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao Nam Cao là một tài năng, một hiện tượng lớn trong nền văn học hiện đại đầu thế kỷ XX. Vì vậy, hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về ông (khoảng hơn 200 tài liệu). Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu tác phẩm Nam Cao vẫn chưa được chú ý. Ngoài lời “tựa” Đôi lứa xứng đôi của Lê Văn Trương thì chưa có công trình nào nghiên cứu chính thức về Nam Cao. Phải từ sau Cách mạng tháng 8-1945, Nam Cao mới được giới nghiên cứu văn học biết đến. Người đầu tiên quan tâm đến tính sắc sảo trong sáng tác của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong bài Nam Cao ông viết vào những năm 50. Sang đến những năm 1960 có thêm nhiều công trình khác về Nam Cao ra đời. Mở đầu là hai bài viết: Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của nhà văn hiện thực và Con người và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao của Huệ Chi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Phong Lê. Ở các bài viết này, hai nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều nhận định và đánh giá khái quát về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. Năm 1961, Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức cũng có hai công trình nghiên cứu về Nam Cao. Với cuốn Văn học Việt Nam 1930-1945, Phan Cư Đệ đã dành một bài tìm hiểu về cuộc sống và sáng tác của Nam Cao. Hà Minh Đức trong công trình Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc lại nhìn Nam Cao ở một góc độ khác. Ông cho rằng, Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc bởi sáng tác của ông đã đạt tới trình độ điển hình hóa cao trên nhiều phương diện nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Năm 1973, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao tiếp tục được ra đời. Trong đó có giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 của Nguyễn Hoành Khung. Trong chương Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh đến tài năng của Nam Cao trong việc lấy chất liệu từ cuộc sống hàng ngày. Trong cuốn sách Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974), nhà nghiên cứu Phan Cư Đệ một lần nữa nhắc đến Nam Cao và có nhiều phát hiện mới, độc đáo về sáng tác của nhà văn này. Theo ông, điểm đặc sắc trong các tác phẩm của Nam Cao chính là ở nghệ thuật. Năm 1982, Giáo sư Hà Minh Đức viết cuốn Nam Cao và đôi nét nghệ thuật sáng tạo tâm lý. Trong đó, ông nhận định: “Dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam Cao vận động qua nhiều cảnh ngộ nhưng vẫn quanh quẩn tù túng không tìm được lối thoát. Nó không được giao lưu với hành động nên có những phát triển ở bên trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostoievski và Sekhov” [10, tr.73]. Như vậy, Hà Minh Đức đã chỉ ra một đặc điểm rất quan trọng trong sáng tác của Nam Cao. Đó là sự ảnh hưởng của nghệ thuật xây dựng nhân vật từ văn học châu Âu thế kỷ XIX. Năm 2002, bài viết Nhớ Nam Cao và những bài học của ông của Nguyễn Đăng Mạnh hoàn thành và in trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao như sau: “Sức hấp dẫn của Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn của ông. Nam Cao chú ý đến nhiều nội tâm ngoại hình nhân vật” [18, tr.183]. Đặc biệt, khi đi sâu vào nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh còn khẳng định:“Nam Cao có một lối kể rất biến hóa, cứ nhập thẳng vào đời sống bên trong nhân vật mà dẫn dắt mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể chuyện theo quan điểm nhân vật như thế nào tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam Cao, một thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tùy tiện mà thực ra hết sức chặt chẽ như không thể nào phá vỡ nốt” [18, tr.183]. Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nam Cao, Viện Văn học cùng Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam tiến hành biên soạn cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao do giáo sư Phong Lê làm chủ biên. Cuốn sách là tập hợp rất nhiều ý kiến, đánh giá và tìm tòi khám phá mới về Nam Cao. Chúng tôi quan tâm đến những bài viết liên quan đến quan đến nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao trong cuốn sách này. 2.1.2. Vấn đề so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài Nam Cao là một nhà văn lớn. Điều này đã được chứng minh qua việc nhà nghiên cứu N.I. Niculin (Liên xô) trong ba cuốn từ điện đồ sộ: Từ điển bách khoa văn học giản yếu, Đại từ điển bách khoa Liên Xô, Từ điển bách khoa văn học đều đã dành một mục để viết về Nam Cao. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với tác giả văn học nước ngoài đã được manh nha từ những năm 60. Hai nhà nghiên cứu đầu tiên đặt Nam Cao bên cạnh Dostorevski, Sekhov - các nhà văn lớn trên thế giới - là Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức. Sang thập 90, phương pháp tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trong cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao do Phong Lê chủ biên đã tập hợp và giới thiệu với bạn đọc ba bài viết về Nam Cao từ góc độ so sánh của ba nhà nghiên cứu là Đào Tuấn Ảnh với Tsêkhov và Nam Cao - một sáng tác hiện thực kiểu mới ;Trần Ngọc Dung với Gặp gỡ giữa M.Gorki và Nam Cao; Phạm Tú Châu với Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ . Năm 2004, Viện Văn học tổ chức cuộc hội thảo nhân kỉ niệm 100 năm ngày mất của A.Chekhov. Tại hội thảo này, có rất nhiều bài tham luận viết về cuộc sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn và sự nghiệp của nhà văn Nga vĩ đại này. Trong đó có bài viết so sánh A.Chekhov và Nam Cao rất sâu sắc của Phong Lê: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học. Với bài viết này, tác giả Phong Lê đã tìm ra những nét giống và khác nhau trong sáng tác của Nam Cao và A.Chekhov. Từ việc so sánh đó, nhà nghiên cứu khẳng định sự tương đồng giữa Nam Cao và A.Sekhov thể hiện ở “vai trò và sứ mệnh ở mỗi người đối với lịch sử dân tộc” và “ở lối tư duy nghệ thuật độc đáo đào sâu vào đời sống tâm lý và hướng vào cuộc sống nhỏ nhặt thường ngày” [16, tr.203]. Ngoài ra, ở trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên có một số luận văn Thạc sĩ so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Đó là luận văn của Phạm Thị Thu: “So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Runkê Akutagawa (Nhật Bản)”, luận văn của Lương Thị Lan “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Nam Cao” (so sánh với thi pháp truyện ngắn A.Sekhov). Nhìn chung, những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nam Cao rất phong phú và đa dạng, với hàng trăm tài liệu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi muốn tập trung khai thác các tài liệu liên quan đến truyện ngắn của Nam Cao và so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng sẽ khám phá những điều còn ẩn giấu trong truyện ngắn Nam Cao, đồng thời so sánh với truyện ngắn của O’Henry để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt. 2.2. Vấn đề nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry 2.2.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry ở nước ngoài Các tác phẩm của O’Henry ra đời đã hơn một thế kỷ nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông. Đánh từ khóa O’Henry trên Google, trong 2 giây ta có 15.600.000 kết quả. Có thể nói, O’Henry đã chinh phục hàng triệu độc giả cũng như nhiều nhà phê bình văn học thế giới. Trong các tài liệu mà chúng tôi tìm được, có một số bài viết và công trình đáng chú ý như: O’Henry, con người và tác phẩm (O’Henry, the man and his work, 1949) của Eugence Hudsonlong, Bút danh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry: A biography of William Sidney porter, 1957) của Gerald Langford.... Cuốn O’Henry, con người và tác phẩm (O’Henry,the man and his work, 1949) của Eugene Hudsonlong là một cuốn tiểu sử về O’Henry khá đầy đủ vào thời đó. Eugene Hudsonlong đã giới thiệu cặn kẽ về O’Henry và các sáng tác của ông. Từ đó, Eugene Hudsonlong đưa ra một cái nhìn tổng quan về tác phẩm của O’Henry, đồng thời cung cấp bối cảnh lịch sử giúp độc giả đọc các câu chuyện và thơ của O’Henry dễ dàng hơn. Theo nghiên cứu của Eugence Hudsonlong, O’Henry đã từng viết thơ nhưng ông nổi tiếng, thành công với truyện ngắn. Cuốn sách này là một bức tranh sinh động về cuộc đời của O’Henry và bước đầu có những nhận định chính xác về tư tưởng, nhân cách của nhà văn này. Cuốn Bút danh O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry: A biography of William Sidney porter, 1957) của Gerald Langford đã đi sâu tìm hiểu sự nghiệp của nhà văn O’Henry và quá trình trưởng thành của ông. Cuốn sách tập trung vào 2 giai đoạn trong cuộc đời của O’Henry là thời gian ông ở Texas và thời trong tù ở New York. Cuốn sách cũng viết về những thất bại của ông khi còn trẻ, về việc ông đối mặt với thử thách trong cuộc sống, về vấn đề O’Henry có thật sự có tội trong vụ biển thủ Ngân hàng Austin. Qua đó, Gerald Langford cũng cung cấp thông tin, bối cảnh xã hội thời O’Henry. Trong cuốn Truyện của O’Henry (Story by O’Henry, 1962), nhà nghiên cứu Mildred H.Larson đã trình bày các nghiên cứu của mình về truyện ngắn của O’Henry. Ông đánh giá cao cách kết thúc truyện bất ngờ thường có trong truyện ngắn của O’Henry: “...trong mạch văn lai láng ông triển khai những câu chuyện một cách khéo léo và phong phú, khiến độc giả không thể bỏ lửng cốt truyện mà phải đọc từ đầu đến cuối với một ngạc nhiên’’ [22, tr.76]. 2.2. Tình hình nghiên cứu về truyện ngắn của O’Henry ở Việt Nam O’Henry là nhà văn Mỹ sớm được nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam (từ những năm 1940). Tuy nhiên với thời gian hạn hẹp, chúng tôi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn chỉ có thể bao quát được một số tài liệu xuất hiện trong vòng 20 năm gần đây. Chúng tôi điểm qua một số công trình đáng chú ý như sau: Trong cuốn Hành trình văn học Mỹ (1966), phần viết về nhà văn O’Henry, tác giả Nguyễn Đức Đàn đã chỉ ra rằng: “Ông tìm kiếm không mệt mỏi những cái bất ngờ và kì lại. Cốt truyện không bao giờ diễn biến một cách logic và phần cuối bao giờ cũng có một sự kiện đột ngột” [8, tr.86]. Năm 2004, trong cuốn Tác gia văn học Mỹ thế kỷ XVIII-XX của Lê Đình Cúc, ông đã dành một mục viết về O’Henry. Bài viết có tiêu đề “Tên cảnh sát và bản thánh ca của văn học Mỹ”. Trong đó Lê Đình Cúc đã nhận xét: “Và còn gì của O’Henry để lại cho thế hệ mai sau ngoài chất liệu hiện thực cuộc sống, ngoài một chủ nghĩa nhân đạo bao la, ngoài một tấm lòng nhân hậu đối với thế giới bình dân chính là ngòi bút châm biếm hài hước của mình” [7, tr.439]. Năm 2009, Nguyễn Hồng Dũng có bài Truyện ngắn của O’Henry đăng trên Tạp chí Sông Hương (số 183, 2009). Nguyễn Hồng Dũng đã viết về O’Henry: “Ông hiểu rõ tâm lí những người cùng thời, và đề tài trong truyện của ông được lấy từ chính đời sống của họ. Ông đưa đến cho họ hai điều: tiếng cười và sự cảm động. Những truyện ngắn của ông thường hóm hỉnh cười rất độ lượng và ẩn cuối tiếng cười gợi lên sự vị tha, nhân ái” [tapchisonghuong.com] [23]. Ngô Vĩnh Viễn trong lời giới thiệu tập Chiếc lá cuối cùng (2014, NXB Văn học) đã chỉ ra điểm hấp dẫn nhất trong truyện O’Henry là: “Niềm tin của ông vào con người, vào cuộc sống, cái nhìn vui vẻ, yêu đời trước những thăng trầm của một số con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, bất hạnh”. Dịch giả Ngô Vĩnh Viễn ngợi ca: “O’Henry không có cái thâm trầm sâu xa về mặt tư tưởng, không có tầm rộng lớn về mặt khái quát, điển hình hoặc tính sắc biến trong phê phán xã hội đương thời như 2 văn hào Nga và Pháp (Sêkhôp và Ghi Đơ Môpat xăng) nhưng tên tuổi và tác phẩm của ông vẫn tồn tại mãi trong sự yêu thích và mến chuộng của người đọc khắp nơi trên thế giới, vì niềm tin của ông vào con người và cuộc sống, vì cái nhìn vui vẻ và yêu đời của ông những thăng trầm của số phận con người” [21, tr.5]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn O’Henry. Trong cuốn Giáo trình văn học phương Tây (2012, NXB Đại học Sư phạm), ông đã nhận định về O’Henry: “Đứng về phía thân phận cơ hàn, O’Henry tỏ rõ tấm lòng yêu thương những người cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên không phải vì thế mà ông không chỉ ra những hạn chế những yếu kém trong tư duy và hành động của những người thuộc lớp dưới này. Nhưng do phải sáng tác nhanh để đáp ứng nhu cầu của độc giả, nên ở O’Henry ta thấy nhiều môtip truyện lặp lại điều này cũng sẽ gây nhàm chán” [3, tr.163]. Qua việc tìm hiểu các công trình trên, chúng tôi rút ta kết luận như sau: Ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như truyện ngắn của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry. Các công trình kể trên đã có những phân tích kĩ lưỡng, những khái quá khách quan, đánh giá đúng thành công và đóng góp của hai nhà văn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình chuyên biệt nào so sánh hai nhà văn này. Đây chính là vấn đề chúng tôi quan tâm và triển khai đề tài. Những công trình này sẽ là tài liệu quý báu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này chúng tôi hướng đến khám phá và lý giải về truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trên trên cơ sở so sánh; khẳng định thêm những đóng góp của Nam Cao và O’Henry ở thể loại truyện ngắn trong hai nền văn học Việt Nam và Mỹ; từ đó, khẳng định vị trí của truyện ngắn Nam Cao trong dòng chảy của văn học thế giới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định ba nhiệm vụ chính của đề tài như sau: - Khảo cứu tình hình lịch sử xã hội, văn hóa Việt Nam, Mỹ nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; nghiên cứu sự tác động của yếu tố đó đến truyện ngắn của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry. - Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện nội dung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn - Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện nghệ thuật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh là nội dung, nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong sự so sánh tương đồng và khác biệt. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh chúng tôi sẽ tập trung khảo cứu vào các tập truyện ngắn có giá trị và được giới nghiên cứu đánh giá cao của Nam Cao và O’Henry: Với Nam Cao chúng tôi tập trung khảo sát các truyện ngắn ở 2 tập: - Nam Cao - truyện ngắn chọn lọc của Nhà xuất bản Văn học (2012). - Tuyển tập Nam Cao (tập 1,tập 2) Nhà xuất bản Văn học (1999), do Hà Minh Đức biên soạn. Còn O’Henry với khối lượng tác phẩm đồ sộ nhưng chúng tôi tập trung vào nghiên cứu các truyện ngắn trong 2 tập truyện: - O’Henry Truyện ngắn chọn lọc (NXB văn học, 2009) do Mạnh Chương dịch, gồm 35 truyện ngắn. - Chiếc lá cuối cùng (Tập truyện, NXB Văn hóa, 2017) do Ngô Vĩnh Viễn, Mạnh Chương, Trần Thanh Phương, Nguyễn Việt Long và Ngọc Khánh dịch; gồm 29 truyện ngắn. 5. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết vấn đề đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp văn học so sánh: Với tư cách là phương pháp luận, văn học so sánh giúp chúng tôi nghiên cứu, nhìn nhận tác phẩm trong cái nhìn tương quan để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt từ đó đánh giá tác phẩm một cách chính xác, khách quan. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp người nghiên cứu giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi đối tượng nghiên cứu: truyện ngắn Nam Cao và O’Henry. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn - Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phương pháp này giúp người nghiên cứu xem xét vấn đề trong sự thống nhất các khía cạnh ở “ngoài” và “trong” văn bản tác phẩm một cách khoa học, lịch sử cụ thể. Nghiên cứu văn bản tác phẩm, hình thức cũng như nội dung, trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề lịch sử xã hội giúp chúng tôi đánh giá toàn diện hơn giá trị thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu: khảo sát, thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh,… 6. Dự kiến những đóng góp của luận văn Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến việc so sánh truyện ngắn của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry để đánh giá, khẳng định nhà văn Nam Cao trong dòng chảy của văn học thế giới. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học và dạy học, nghiên cứu các tác phẩm của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry nói riêng, học và dạy văn học hiện đại nói chung. 7. Cấu trúc luận văn Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu và Kết luận gồm 3 chương: Chương 1: Cuộc đời, quan niệm sáng tác, sự nghiệp của Nam Cao và O’Henry. Chương 2: Nội dung truyện ngắn Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh. Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Chương 1 CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY 1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry 1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao Lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu và nửa đầu thế kỉ XX là thời kì nhân dân Việt Nam chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Năm 1958, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh quyết liệt chống lại quân thù. Mặc dù vậy, giai cấp phong kiến Việt Nam đã dần thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp nên các cuộc đấu tranh nổ ra của nhân dân đều bị thất bại. Với việc kí kết hiệp ước Harmand (1883-1884), triều đình nhà Nguyễn chính thức công nhận sự đô hộ của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Sang đầu thế kỷ XX khi bình định thành công nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay ngay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp khủng bố mọi sự chống đối, dùng chính sách “chia để trị” chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Chúng duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột về kinh tế. Nhân dân ta mất nước, trở thành nô lệ, bị đàn áp bóc lột, cuộc sống vô cùng cực khổ. Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất (1897-1918), khai thác thuộc địa lần hai (1919-1929), trong đó lấy Việt Nam làm trọng điểm. Tư bản Pháp bỏ vồn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập đồn cao su, cà phê, chè…) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng…) để thu lợi nhuận nhiều và nhanh. Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển cơ sở công nghiệp chế biến, độc quyền ngoại thương, Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính đặt ra hàng trăm thứ thuế tàn ác nhất là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn thuế thân, thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, phụ thuộc vào Pháp. Cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa nước ta trong giai đoạn này cũng có những biến đổi sâu sắc. Đó là xung đột giữa cái “cũ” và cái “mới”. Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hóa, xóa bỏ hệ thống giáo dục phong kiến thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Chúng mở nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế in sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả hơn 90% dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài. Xã hội Việt Nam có những thay đổi rõ nét từ xã hội phong kiến thành xã hội nửa phong kiến. Lúc này trong xã hội Việt Nam nổi lên 2 mẫu thuẫn cơ bản đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp còn gọi là mâu thuẫn dân tộc. Mẫu thuẫn thứ hai là mối mâu thuẫn của nhân dân Việt Nam, mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến còn gọi là mâu thuẫn giai cấp. Hai mâu thuẫn này tồn tại song song và đặt ra yêu cầu phải giải quyết lúc bấy giờ. Giữa một thời kì xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến tối tăm và ngột ngạt ấy, Nam Cao đã ra đời. Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1917 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam. Làng Đại Hoàng nơi ông sống thời bấy giờ giống như một bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là một ngôi làng xa phủ, xa huyện, chính vì vậy quan lại, cường hào trong làng có cơ hội hoành hành. Tại ngôi làng của ông, thường xảy ra các vụ kiện tụng nhau giữa bọn quyền thế, giàu có vì vậy không ít người dân phải li hương. Những sự việc có thực đã diễn ra ở vùng quê tối tăm này đều được Nam Cao ghi lại trong những trang sách của mình với dấu ấn nặng nề… Ông sống trọn nửa đầu thế kỉ XX. Cuộc đời ông gắn với một giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc. Những biến động xã hội, văn hóa và thân phận con người trong thời kỳ này được ông cảm nhận, phản ánh hết sức sinh động trong toàn bộ sáng tác của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Nam Cao sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Trong gia đình, chỉ có Nam Cao được đi học. Cái đói, cái nghèo, bệnh tật đeo đuổi và giày vò ông ngay từ khi còn nhỏ. Sau khi thi trượt Thành chung, Nam Cao rời bỏ làng quê nghèo khổ vào Sài Gòn kiếm sống theo một người cậu làm may. Rời quê, Nam Cao ấp ủ nhiều dự định, nhiều mơ ước. Ông mơ ước được sang Pháp để mở rộng tầm biểu biết, nhưng cuối cùng bệnh tật lại trả ông về với quê hương. Về Sài Gòn, Nam Cao tiếp tục ôn lại và thi đậu Thành chung. Ông định xin làm công chức nhưng rồi bệnh tật nên không được chấp nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy học ở một trường tư thục do người nhà mở. Cuộc sống của một anh giáo khổ trường tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, ngôi trường bị đóng cửa. Nam Cao phải sống chật vật bằng nghề viết văn, dạy thuê và cuối cùng không tồn tại ở chốn thị thành này được Nam Cao phải về quê “ăn bám” vợ. Năm 1943 Nam Cao ra nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn khác như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyên Hồng… Khi cơ sở văn hoá cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân sau đó được làm chủ tịch ủy ban khởi nghĩa xã. Ít lâu sau Nam Cao được điều lên Hà Nội rồi công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân tiến vào vùng Nam Trung Bộ. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến đồng thời làm cán bộ thông tin tuyên truyền: viết tin, viết tài liệu, viết truyền đơn… Thời gian này, Nam Cao vinh dự ra nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1948). Vào tháng 11 năm 1951, khi tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở vùng địch hậu Liên khu III. Nam Cao có ý định nhân dịp này ghé về quê mình, thu thập thêm tài liệu để viết về một tác phẩm về quê hương trong cách mạng. Nhưng không may Nam Cao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn đã ngã xuống gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình) khi tài năng đương độ chín và biết bao dự định sáng tạo vẫn còn dang dở. Cuộc đời của nhà văn Nam Cao mang nhiều nét tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ. Có hoài bão, có ước mơ, có lý tưởng nhưng đều không thực hiện được. Cuộc sống của ông phải vật lộn với miếng cơm, manh áo, trải qua nhiều lần thất nghiệp, ngược xuôi trong Nam, ngoài Bắc, nhưng cuộc đời của Nam Cao đã sớm được soi sáng nhờ ánh sáng của Đảng và Cách mạng. Chính điều này đã giúp ông thoát khỏi những bế tắc, và mang đến cuộc sống có ý nghĩa cho ông. Nói tới Nam Cao, chúng ta nhớ ngay đến một con người có tấm lòng sâu sắc, có ý thức gắn bó thủy chung với nhân dân, với những người nghèo khổ, trước hết đó là những người thân trong gia đình. Bề ngoài, Nam Cao có vẻ lạnh lùng ít nói, nhưng đời sống nội tâm vô cùng phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với bản thân để thoát khỏi lối sống tầm thường nhỏ hẹp, vươn tới một cuộc sống cao đẹp. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng đôn hậu, hiền hòa, chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ với xã hội đương thời. Ông cho rằng: Không có tình thương thì không xứng đáng gọi là người. Ông không nỡ ăn bát cơm ngon dành cho riêng mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả nhà, vì vậy viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót thương, cảm thông. Ông luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống vì thế dù những chuyện rất thường ngày nhưng Nam Cao lại nêu lên được vấn đề xã hội lớn lao, nhiều bài học triết lý sâu sắc. Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất, bi phẫn của một trí thức. Họ là những người có ý thức về sự sống mà không được sống cho ra người. Nam Cao là một nhà văn chân chính, có tấm lòng nhân hậu, chan chứa yêu thương, có đời sống tinh thần phong phú. Những tác phẩm ông sáng tác đều chứa tinh thần nhân đạo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan