Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn truyện ngắn thanh tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình việt nam 1930 19...

Tài liệu Luận văn truyện ngắn thanh tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình việt nam 1930 1945

.PDF
95
162
83

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THUÝ HẰNG TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT NAM 1930-1945 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2006 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THUÝ HẰNG TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT NAM 1930-1945 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 5 04 33 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ HÀ NỘI - 2006 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 I. Lý do chọn đề tài 3 II. Lịch sử vấn đề 6 III. Nhiệm vụ nghiên cứu 11 IV. Phạm vi nghiên cứu 11 V. Phƣơng pháp nghiên cứu 12 VI. Đóng góp của luận văn 12 VII. Cấu trúc của luận văn 12 NỘI DUNG 14 Chƣơng 1 Từ nhận thức về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đến việc tìm hiểu con đường sáng tác của Thanh Tịnh 14 I. Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn trữ tình 14 II. Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại 17 III. Những gƣơng mặt tiêu biểu tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 22 IV. Dòng truyện ngắn trữ tình với các dòng truyện ngắn khác thuộc giai đoạn 1930-1945 33 V. Con đƣờng sáng tác của nhà văn Thanh Tịnh 37 Chƣơng 2 Thân phận con người và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn của Thanh Tịnh 40 I. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới nhân vật của Thanh Tịnh 40 II. Tiếng nói khẳng định những giá trị nhân văn trong đời sống con ngƣời 48 3 1. Lòng nhân ái xót thƣơng và thái độ trân trọng con ngƣời 48 2. Trân trọng vẻ đẹp cuộc sống 51 3. Nhìn về quá khứ với nỗi niềm nhớ tiếc sâu nặng 54 III. Đi vào khám phá đời sống tinh thần của con ngƣời trong mọi mặt của cuộc sống, thể hiện chất nhân văn tinh tế và cao cả 56 Chƣơng 3 Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh qua một số phương diện nghệ thuật 62 I. Chất thơ nhƣ một đặc điểm bao trùm truyện ngắn Thanh Tịnh 62 II. Cách lựa chọn đề tài, xây dựng cốt truyện 67 III. Thời gian và không gian nghệ thuật 69 IV. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Thanh Tịnh 73 1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc 73 2. Ngôn ngữ tinh tế, giản dị, gần gũi với đời thƣờng 75 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 4 MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 phát triển một cách mạnh mẽ và đạt đƣợc những thành tựu to lớn ở hầu hết mọi lĩnh vực mà cho đến nay, ngày càng đƣợc khẳng định. Những thành tựu đó đã làm thay đổi hẳn diện mạo của văn học dân tộc, mang tới cho nó bộ mặt mới: hiện đại. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thơ ca (đặc biệt là phong trào Thơ mới) là sự phát triển cũng mạnh mẽ không kém cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng của các thể loại văn xuôi nghệ thuật nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tuỳ bút, nghiên cứu phê bình,… Do sự phức tạp của diện mạo văn học giai đoạn này cùng những yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới, hiện đại hoá văn học, nhiều tác giả có thể sáng tác rất nhiều thể loại khác nhau, mà ở mỗi thể loại lại đều có những thành công nhất định. Điều đó nói lên sự phát triển mạnh của văn học giai đoạn này không chỉ về số lƣợng, chất lƣợng tác phẩm mà còn cả về số lƣợng và chất lƣợng tác giả. Nhắc đến Vũ Trọng Phụng, ngƣời ta không chỉ nhắc đến tiểu thuyết mà còn là những bài phóng sự khiến ông đƣợc mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc. Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới lại có những truyện ngắn trữ tình rất hay. Nhà phê bình nổi tiếng Vũ Ngọc Phan ngoài những bài nghiên cứu, những tập bút kí, ông còn giúp công chúng Việt Nam tiếp cận với các tiểu thuyết phƣơng Tây qua bản dịch tiếng Việt của mình. Nhà thơ Thế Lữ có những truyện đƣờng rừng đầy bí hiểm, hấp dẫn,… Báo chí, nhà in, nhà xuất bản cũng góp phần làm sôi động thêm văn học giai đoạn này 5 bằng cách đăng tải hàng trăm tiểu thuyết, hàng ngàn truyện ngắn, phóng sự tuỳ bút, thơ, truyện ký đủ loại,… 2. Trong sự phát triển bùng nổ của văn học, truyện ngắn đã trƣởng thành vƣợt bậc và sớm trở thành một thể loại mạnh với những đại diện tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Kim Lân... Mỗi tác giả là một quan điểm, một phong cách riêng, nhƣng đều có những đóng góp vào thành công của thể loại này trong nền văn học chung. Các tác phẩm truyện ngắn giai đoạn này đã phản ánh một cách toàn vẹn, sâu sắc đời sống xã hội đƣơng thời. Bên cạnh những tác phẩm phê phán, phản ánh, tố cáo mặt trái của hiện thực xã hội với tất cả những thối nát, lỗi thời, bất công, lừa lọc, áp bức của giai cấp thống trị đối với ngƣời dân lao động; bi kịch tinh thần của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nhƣ trong các truyện của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Bùi Hiển,... là những tác phẩm đi sâu vào khám phá thế giới tâm hồn sâu kín, phát hiện vẻ đẹp đời sống nội tâm của con ngƣời với ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm, giàu hình ảnh trong truyện của các nhà văn Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao,... Nếu nhƣ trƣớc đây, giới phê bình nghiên cứu văn học thƣờng đi sâu vào tìm hiểu các tác phẩm mang tính chất hiện thực phê phán xã hội rõ rệt thì đến nay, ngƣời ta lại nhận thấy những tác phẩm trữ tình cũng có sức hấp dẫn riêng biệt của nó mà ẩn giấu dƣới những lời văn nhẹ nhàng, trong trẻo chính là hiện thực của nội tâm con ngƣời thật phong phú và sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá một cách trân trọng các tác phẩm của Thạch Lam, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh,... nhƣng cũng còn có nhiều tác giả 6 chƣa đƣợc tìm hiểu một cách hệ thống dù đóng góp của họ trong dòng văn học trữ tình là không nhỏ nhƣ Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao,... Cũng nhƣ vậy, cho đến nay, trong khi các tập truyện ngắn của Thạch Lam, Hồ Dzếnh liên tục đƣợc xuất bản thành tập riêng và tái bản nhiều lần thì truyện ngắn của các nhà văn Thanh Châu, Ngọc Giao,… chỉ đƣợc chọn in cùng các nhà văn khác trong các tuyển tập. Truyện ngắn của Thanh Tịnh ngoài tập Quê mẹ đƣợc in lại các năm 1957, 1983, thì mới chỉ đƣợc chọn in trong cuốn Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc do Nhà xuất bản Hội nhà văn xuất bản từ năm 1998 và cho đến nay chƣa thấy tái bản lại. Nhằm tiếp tục việc tìm tòi sự đóng góp của các tác giả, tác phẩm văn học trữ tình, ở luận văn này chúng tôi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu về truyện ngắn Thanh Tịnh trước năm 1945 - những truyện ngắn mang một phong vị riêng, đầy chất thơ và tràn đầy một tình yêu quê hƣơng tha thiết. 3. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự gần gũi nhau về phong cách, quan niệm thẩm mỹ trong các truyện ngắn của các tác giả Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Thanh Châu,… Điều đó đƣợc thể hiện trong cách lựa chọn cốt truyện tâm lý, nhìn nhận khám phá hiện thực, chọn lọc các chi tiết của đời sống, cách xây dựng nhân vật truyện, cách tổ chức các tình huống truyện… Trong khi nghiên cứu về truyện ngắn Thanh Tịnh, chúng tôi cũng cố gắng phân tích sự ảnh hƣởng của các tác giả văn xuôi trữ tình khác đối với ông cũng nhƣ sự ảnh hƣởng của ông đối với các tác giả khác, đồng thời từ đó tìm hiểu xem sự phát triển của dòng văn xuôi trữ tình đã có tác động, ảnh hƣởng tới các dòng văn học khác nói riêng và văn học nói chung giai đoạn 1930-1945 nhƣ thế nào, và nếu có thể, nó có ảnh hƣởng gì tới văn học giai đoạn sau nữa hay không? Truyện ngắn Việt Nam 7 đƣơng đại giai đoạn này (cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI) cũng đang phát triển rất rầm rộ về số lƣợng tác giả, tác phẩm. Nhƣng liệu nó có chịu ảnh hƣởng của văn học giai đoạn 1930-1945 trƣớc kia không, theo chiều hƣớng tích cực hay tiêu cực? Điều đó không dễ dàng gì khi nhận xét, đánh giá, nhƣng để tìm đƣợc mạch ngầm sự vận động liên tục trong dòng chảy truyện ngắn của văn học sử nƣớc nhà là điều mong muốn của bất cứ ngƣời nghiên cứu văn học nào. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đặt tên cho đề tài nghiên cứu của mình là: Truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Bên cạnh hai nhà văn đƣợc coi là gần gũi nhất về phong cách, Thanh Tịnh ít đƣợc nghiên cứu toàn diện, kỹ càng hơn. So với Thạch Lam và Hồ Dzếnh, số lƣợng các bài nghiên cứu về Thanh Tịnh không nhiều lắm. Chƣa có công trình nào nghiên cứu, khảo luận về Thanh Tịnh một cách riêng biệt, độc lập. Từ trƣớc tới nay mới chỉ có luận án Phó Tiến sỹ của Phạm Thị Thu Hƣơng (năm 1995) là đặt vấn đề nghiên cứu những đặc trƣng về phong cách truyện ngắn của ba tác giả Thạch Lam-Thanh TịnhHồ Dzếnh và sự nghiên cứu về Thanh Tịnh nằm trong tƣơng quan chung với hai tác giả kia. Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hƣơng đã tìm ra một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của Thanh Tịnh, đi sâu vào phân tích không gian làng Mỹ Lý, đặt làng giữa không gian sóng đối, coi các hình tƣợng dòng sông, con thuyền, câu hò, nhà ga, con tàu, tiếng còi là các biểu trƣng. Có thể nói đây là những phân tích sắc sảo và sâu sắc. Bên cạnh 8 đó, luận án còn đề cập đến nghệ thuật truyện ngắn của Thanh Tịnh nhƣ tìm hiểu chất thơ trong văn xuôi, giọng điệu trần thuật xen trào phúng nhẹ nhàng. Mặc dù vậy, do yêu cầu cũng nhƣ mục đích đặt ra của đề tài nên luận án dừng lại ở việc tìm hiểu, đặt phong cách của Thanh Tịnh trong dòng phong cách chung của cả ba nhà văn Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. Những ngƣời đã từng viết hoặc nhắc đến Thanh Tịnh trong các bài viết nghiên cứu của mình là : Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Huy Cận, Vƣơng Trí Nhàn, Vũ Ngọc Phan, Ngô Văn Phú, Thạch Lam, Thế Phong, Tầm Dƣơng, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Việt Thắng, Hoài Anh, Phan Quốc Lữ, Ngô Vĩnh Bình, Trần Hữu Tá, Lƣu Khánh Thơ, Phạm Thị Thu Hƣơng,… Trong số các bài viết đó thì có tới năm, sáu bài đƣợc viết theo thể loại chân dung tác giả, trong đó có lƣợc qua toàn bộ sự nghiệp của Thanh Tịnh bao gồm cả truyện ngắn, truyện dài, thơ, độc tấu, kịch,… Nói chung, các ý kiến đánh giá về truyện ngắn Thanh Tịnh trƣớc 1945 là khá thống nhất, đều cho rằng “mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh nhƣ một bài thơ vịnh gọn và có dƣ vị trữ tình lắng sâu” (Trần Hữu Tá), “tấm lòng nghệ sĩ biết rung cảm một cách thiết tha trƣớc cuộc sống chân chất, nguyên sơ, thuần phác đã mang đến cho truyện ngắn của ông không chỉ có chân, có tình mà còn rất có duyên” (Phan Quốc Lữ), “cái mơ hồ bàng bạc” (Nguyễn Nam Trân), “nhiều truyện của Thanh Tịnh có khuynh hƣớng lãng mạn rõ rệt”, và “một số truyện khác lại có khuynh hƣớng hiện thực. Một chủ nghĩa hiện thực trữ tình”… 9 Có thể nói ngƣời đầu tiên nhận ra tài năng văn xuôi của Thanh Tịnh chính là Thạch Lam khi ông viết lời tựa cho tập truyện ngắn đầu tiên Quê mẹ của Thanh Tịnh xuất bản năm 1946. Thạch Lam đã dùng những câu chữ đẹp nhất để ca ngợi nó. Ông đã hiểu và nhận thấy sự chi phối mạnh mẽ của con ngƣời thi sĩ ở Thanh Tịnh đối với cách nhìn nhận cuộc sống: “Có lẽ linh hồn ngƣời ở đấy còn nhiều màu sắc khác nhau, trong cuộc sống còn nhiều bi kịch khác, nhƣng mà tác giả chỉ tả có cái vẻ êm ả và nên thơ. Tâm hồn ƣa thích cái gì vừa đẹp đẽ, vừa nhè nhẹ, tác giả không lách đi sâu, nhƣng dừng lại ở một làn gió, ở một cái thoảng hƣơng thơm của hoa cỏ bốn mùa”. Ông nhận thấy ở Thanh Tịnh một tình yêu quê hƣơng xứ sở đằm thắm, thiết tha. Thạch Lam đã có những nhận xét tinh tế về Thanh Tịnh: “Thanh Tịnh đã muốn làm ngƣời mục đồng ngồi dƣới bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và làn gió lƣớt bay trên cánh đồng ca hát những vẻ đẹp của đời thôn quê” [57,350]. Là ngƣời thứ hai đánh giá về Thanh Tịnh, Vũ Ngọc Phan đã xếp Thanh Tịnh vào cùng dòng “tiểu thuyết tình cảm” với Thạch Lam, ông cho rằng : “Thứ tình cảm ở tiểu thuyết Thanh Tịnh là thứ tình êm dịu, nhẹ nhàng, thứ tình của những ngƣời dân quê hồn hậu Trung kì, diễn ra trong những khung cảnh sông nƣớc, đồng ruộng… Cái tình quê trong hầu hết các truyện ở tập Quê mẹ bao giờ cũng rung rinh, lai láng trong những đêm trăng sáng, trên những mặt sông im hay trong những buổi chiều tà, gió hiu hắt thổi. Tình, trăng, nƣớc, đó là tất cả những cái làm tài liệu cho Thanh Tịnh để xây dựng nên những truyện trong tập Quê mẹ” [26,193]. Theo 10 ông, “hầu hết những truyện ngắn của Thanh Tịnh lại chỉ rặt những cái đầy thơ mộng, đầy huyền ảo”, một số ít còn lại nhƣ Ngậm ngải tìm trầm, Am cu ly xe là có “cốt truyện hay, xây dựng vững chắc, phải cái văn viết cẩu thả” [26,197]. Hà Minh Đức đã so sánh sự gần gũi về chất trữ tình, chất thơ trong sáng tác của Thanh Tịnh và một số nhà văn khác với nhà văn Nga Pauxtôpxki : “…kết hợp giữa phản ánh và bộc lộ cảm xúc cá nhân đậm chất trữ tình, chất thơ nhƣ sáng tác của Pauxtôpxki, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh …” [42,33], “Có thể nói mạch truyện của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh đã nói lên vẻ đẹp nội cảm của tâm hồn trƣớc cuộc sống…” [42,37]. Nhà thơ Huy Cận phát hiện ra cái “mùi vị quê rất đậm” trong truyện ngắn của Thanh Tịnh : “Tôi muốn nói thêm một điều: bao áng văn đẹp ấy gợi đậm lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc, yêu những gì là văn minh, văn hoá nƣớc nhà, lại có những tác phẩm mà “mùi vị đất quê” rất đậm (nhƣ các truyện ngắn của Thanh Tịnh) thật là đáng trân trọng…” [46,1369]. Trong khi hầu hết các nhà nghiên cứu khác thƣờng chỉ đặt Thanh Tịnh trong mạch liên tƣởng tới các tác giả, tác phẩm gần gũi cùng giai đoạn thì Nguyễn Hoành Khung, trong một số bài tiểu luận của mình đã dành nhiều sự chú ý tới Thanh Tịnh : “Và cả Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, nếu nhƣ đƣợc gọi là những cây bút hiện thực – một thứ hiện thực trữ tình – thì đâu phải là không có căn cứ” [44,10], “ Cây bút xứ Huế ấy có một hồn thơ lai láng, ngọt ngào, man mác, trữ tình…” [44,40], “Đúng nhƣ có ngƣời 11 nhận xét, mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ. Với một tâm hồn quê hƣơng đằm thắm, Thanh Tịnh không những dựng nên những bức tranh thiên nhiên thi vị mà còn đi vào những cuộc đời hiền lành, lầm lụi mà đáng quý, đáng thƣơng của ngƣời dân quê, đặc biệt là ngƣời phụ nữ…”[44,40], “Mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ, mang chất thơ của cảnh vật và tâm hồn con ngƣời Việt Nam bình dị xiết bao thƣơng mến. Song ngòi bút rất thi sĩ ấy không chỉ khai thác những gì thi vị, ngọt ngào, mà còn viết nên những trang nhức nhối, đầy ám ảnh về số phận thê thảm của ngƣời nghèo khổ trong cuộc sống vật lộn dữ dội với đời sống” [45,14]. Hoài Anh khi viết chân dung Thanh Tịnh đã nhận xét: “Hầu hết truyện ngắn Thanh Tịnh là truyện kể (récit)”[59,1148], “Thanh Tịnh để tâm hồn tràn ngập ánh trăng, dòng sông và câu hát, sống giữa những con ngƣời quê chất phác, giản dị nhƣ chị Sƣơng trong Tình thư, cô Hƣơng trong Quê bạn” [59,1150]. Vƣơng Trí Nhàn thì cho rằng: “Chỗ khác của Thanh Tịnh so với một số tác giả thời tiền chiến, là khi diễn tả những nỗi bất hạnh của con ngƣời ông không làm cho nó chói lên quá đáng, nhân vật trong truyện cũng nhƣ tác giả không kêu to sau các trang sách, song sự bất hạnh vì thế lại hiện ra không ai có thể cƣỡng lại nổi, nó nhƣ không khí bao quanh ngƣời ta, và sống lâu với nó, ta quen đi lúc nào không biết” [64,230]. Nguyễn Mạnh Trinh viết về Thanh Tịnh : “Quê hƣơng của ông là nơi chốn của thơ mộng huyền ảo, của những lãng mạn thăng hoa thành ngôn 12 ngữ. Đọc lại, những câu văn mang âm hƣởng thi ca với văn phong tuỳ bút sang cả làm cho trí tƣởng tƣợng nhƣ bị kích thích và đi xa hơn những phong cảnh thƣờng nhật”… “Thơ Thanh Tịnh bình dị, truyện ngắn Thanh Tịnh sâu sắc, và hình nhƣ trong tất cả văn mạch của ông phảng phất những nỗi buồn” [58]. Điểm lại tất cả những bài viết mà chúng tôi tìm đọc đƣợc, có thể thấy một điều nhƣ sau: mặc dù các công trình nghiên cứu về Thanh Tịnh chƣa thật nhiều nhƣ một số tác giả khác nhƣng hầu hết các ý kiến đánh giá đều thừa nhận sự đóng góp của Thanh Tịnh trong nền văn học nƣớc nhà nói chung và trong thể loại truyện ngắn nói riêng. III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Trong luận văn này, chúng tôi thực hiện nhiệm vụ cơ bản : - Khảo sát, tìm hiểu và phân tích truyện ngắn Thanh Tịnh qua các bình diện: tìm hiểu con đƣờng sáng tác của Thanh Tịnh; thân phận con ngƣời và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn Thanh Tịnh; một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Thanh Tịnh. - Tìm ra những nét đặc sắc riêng của truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, ảnh hƣởng hai chiều của truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện này và ảnh hƣởng của cả dòng truyện tới văn học giai đoạn 1930-1945 và các giai đoạn sau. 13 IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Trong tổng thể sáng tác của Thanh Tịnh, chúng tôi chọn toàn bộ truyện ngắn sáng tác trƣớc năm 1945 làm đối tƣợng nghiên cứu. Đó là các tập truyện ngắn: - Quê mẹ (1941) - Chị và em (1942) - Ngậm ngải tìm trầm (1943) Các thể loại khác nhƣ thơ, truyện dài, các tập truyện ngắn viết sau năm 1945 đều không thuộc đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, chúng sẽ chỉ đƣợc sử dụng để liên hệ, so sánh khi cần thiết. V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện công trình này, chúng tôi tiến hành các thao tác: - Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp. - Phƣơng pháp so sánh đối chiếu. - Phƣơng pháp lịch sử. - Phƣơng pháp thống kê. VI. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 1. Bằng việc tìm ra những nét đặc sắc riêng trong truyện ngắn Thanh Tịnh sáng tác trƣớc năm 1945, luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói trong việc khẳng định vị trí của ông trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, 14 góp phần vào việc giảng dạy và nghiên cứu về tác phẩm của ông trong nhà trƣờng nói riêng và trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam nói chung. 2. Ngoài ra luận văn còn muốn đề cập đến ảnh hƣởng hai chiều của truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, ảnh hƣởng của dòng truyện ngắn này trong văn học Việt Nam giai đoạn 19301945 và các giai đoạn sau. VII. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN Luận văn đƣợc bố cục theo các phần sau: 1. Mở đầu Phần này bao gồm các mục: Lý do chọn đề tài; lịch sử vấn đề; nhiệm vụ nghiên cứu; phạm vi nghiên cứu; phƣơng pháp nghiên cứu; đóng góp của luận văn; cấu trúc của luận văn. 2. Nội dung Đƣợc chia thành ba chƣơng: Chƣơng 1: Từ nhận thức về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đến việc tìm hiểu con đƣờng sáng tác của Thanh Tịnh. Chƣơng 2: Thân phận con ngƣời và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn của Thanh Tịnh. Chƣơng 3: Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh qua một số phƣơng diện nghệ thuật. 3. Kết luận 4. Tài liệu tham khảo 15 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỪ NHẬN THỨC VỀ DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 19301945 ĐẾN VIỆC TÌM HIỂU CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA THANH TỊNH I. QUAN NIỆM VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH Ruby V. Redinger trong Bách khoa toàn thư Mỹ (Encyclopedya American) xác định: “Truyện ngắn là một hình thức văn học, bản chất của nó bao hàm trong những từ làm thành phần tạo nên tên gọi của nó. Với tƣ cách là một câu chuyện, nó kể lại một chuỗi sự kiện hoặc một biến cố liên quan đến con ngƣời trong hoạt động thể chất hoặc tinh thần. Vì thế, giống 16 mọi hình thức văn xuôi hƣ cấu khác, nó mô tả bằng ngôn từ; và thành công của nó phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp đạt đƣợc giữa ngƣời đọc và đối tƣợng miêu tả. Với tƣ cách là truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực hiện mối tiếp xúc trực tiếp này bởi các phƣơng tiện phổ biến đối với tiểu thuyết, nhƣ là xây dựng nhân vật chậm rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại. Đặc biệt là nó phải miêu tả với độ nhanh nhạy và trọn vẹn giống nhƣ một tấm gƣơng” (dẫn theo Lê Huy Bắc) [14,19]. Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi viết : “… truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc khắc hoạ một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống của tâm hồn con ngƣời… Cốt truyện của truyện ngắn thƣờng diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình ngƣời… Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lƣợng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chƣa nói hết.” [6,371] Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê (chủ biên) ghi : truyện ngắn là “truyện bằng văn xuôi, có dung lƣợng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật” [8,1034] ; trữ tình : “có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của con ngƣời, kể cả bản thân ngƣời nghệ sĩ, trƣớc cuộc sống” [8,1035]. Về thuật ngữ “trữ tình”, trong Từ điển thuật ngữ văn học viết : “Nếu tự sự thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm của tác giả bằng con đƣờng tái hiện lại một cách khách quan các hiện tƣợng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời 17 sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con ngƣời, nghĩa là con ngƣời tự cảm thấy mình qua những ấn tƣợng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh. Phƣơng thức trữ tình cũng tái hiện các hiện tƣợng của đời sống, nhƣ trực tiếp miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tƣơng đối liên tục, … nhƣng sự tái hiện này không mang mục đích tự thân, mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tƣởng của mình. Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng. Do đó, nó thƣờng không có cốt truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này và dung lƣợng của nó thƣờng ngắn (vì một trạng thái tâm trạng không thể kéo dài) … [6,373] Bùi Việt Thắng gọi truyện ngắn trữ tình là kiểu truyện ngắn tâm tình: “Truyện-tâm tình còn đƣợc gọi là truyện ngắn gần với thơ vì trong đó có sự phối hợp giữa việc diễn tả cảm xúc trữ tình với kể chuyện. Truyện ngắn trong bản chất của nó là một thể loại tự sự - trữ tình cô đúc, ý ngoài chữ, tạo ấn tƣợng và liên tƣởng [15,138] … “Trong kiểu truyện ngắn-tâm tình, sự cảm thụ thiên nhiên trong toàn bộ các giác quan là một đặc điểm trong cách miêu tả của nhà văn” [15,140] Nguyễn Minh Châu lý giải về bản chất của loại truyện này: “Có những ngƣời viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến bên ngoài, hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên trong, vào cái mà nhân vật thu nhận đƣợc ở bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại, bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện ngắn mà ta thƣờng gọi là truyện không có cốt truyện. Chẳng qua chỉ là một thủ đoạn văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp tiếp xúc với ngƣời đọc” (dẫn theo Bùi Việt Thắng) [15,138]. 18 Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hƣơng viết: “Trong tác phẩm trữ tình, yếu tố chủ quan của nhà văn bao giờ cũng rất đậm nét, và nó đƣợc thể hiện ở tất cả các phƣơng diện nghệ thuật: Dù tả cảnh, tả ngoại hình nhân vật hay nội tâm nhân vật,… Truyện ngắn trữ tình thƣờng không có cốt truyện. Nó có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình. Truyện ngắn trữ tình thƣờng đi sâu miêu tả một cách tinh tế những phản ứng của tâm thức đối với “kinh nghiệm sống” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ý nghĩa của truyện thƣờng gắn với không khí bàng bạc, tâm trạng… bàng bạc trong tác phẩm” [80]. Có thể thấy, truyện ngắn trữ tình chƣa có một khái niệm chính thức nào. Là một dạng trong thể loại truyện ngắn, có ngƣời quan niệm nó là “kiểu truyện-tâm tình”, có ngƣời cho là “truyện ngắn trữ tình”, có ngƣời gọi là “truyện không có cốt truyện”, hoặc “văn xuôi trữ tình” … Trong luận văn này, chúng tôi xin đƣợc mƣợn những phân tích đặc trƣng về “phong cách truyện ngắn trữ tình” của các nhà phê bình văn học đi trƣớc để làm cơ sở phân tích truyện ngắn của Thanh Tịnh trƣớc năm 1945 (tính phi cốt truyện, cấu trúc tác phẩm lỏng lẻo, sự bộc lộ chủ thể ở mức độ cao, hƣớng tới thiên nhiên, tình huống truyện, nhân vật truyện, ngôn ngữ truyện, …). II. DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945 TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI Sự phân kỳ các giai đoạn văn học trong tiến trình văn học sử luôn là điều khó, gây nhiều tranh cãi, và câu hỏi văn học Việt Nam hiện đại hình thành từ bao giờ, cho đến nay vẫn chƣa có câu trả lời thống nhất. Nền văn 19 học hiện đại hình thành trên cơ sở những tiền đề về lịch sử, xã hội và văn học nhất định. Có ngƣời lấy năm 1900 làm một cái mốc của văn học hiện đại, có ngƣời cho rằng văn học hiện đại gắn với thời kỳ 1930-1945, có ngƣời xếp văn học thế kỷ XX vào văn học hiện đại, … Do giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, ở đây chúng tôi chỉ đặt vấn đề xem xét, nghiên cứu về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX, cụ thể hơn là trong quá trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam hiện đại thế kỷ XX. Đầu thế kỷ XX, truyện ngắn dân tộc viết bằng Quốc ngữ đƣợc đánh dấu bởi sáng tác của nhiều tác giả nhƣ: Phan Kế Bính, Tản Đà, Nguyễn Phƣơng Chánh, Tam Lang, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Ái Quốc, Trần Quang Nghiệp, Huỳnh Minh Phụng, … Những truyện ngắn trong thời kỳ này thƣờng đƣợc viết với lối viết biến nhân vật thành ngƣời phát ngôn tƣ tƣởng chủ quan của nhà văn, đối thoại dài dòng, ngôn ngữ ƣớc lệ, khuôn sáo, biền ngẫu, kết thúc có hậu… Bƣớc sang thập kỷ 30, truyện ngắn khởi sắc và nhanh chóng trở thành một thể loại mạnh, thực sự chiếm lĩnh văn đàn. Trong vòng mƣời lăm năm từ 1930 đến 1945, số truyện ngắn đăng rải rác trên các báo chí và xuất bản thành tập riêng chắc phải hàng ngàn. Riêng nhà văn Nguyễn Công Hoan đã có khoảng 250 truyện ngắn. Công chúng trở nên quen thuộc với tên tuổi của hàng loạt nhà văn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân, … Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét truyện ngắn thời kỳ này thật sự phong phú, đặc sắc, đa dạng, đa dạng về khuynh hƣớng thẩm mỹ, về phong cách, về bút pháp, về đề tài, màu sắc địa phƣơng… Văn đàn dần hình thành nên những dòng truyện ngắn khác 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan