MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 01
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 01
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 02
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 09
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................ 10
5. Bố cục luận văn : ........................................................................................................ 10
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 11
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG.. ............................................. 11
1.1.Nho giáo và tƣ tƣởng Xả thân thủ nghĩa ................................................................... 12
1.2. Phật giáo và cái nhìn liễu sinh tử. ............................................................................ 20
1.3. Đạo giáo và quan niệm tề sinh tử............................................................................. 25
Tiểu kết ............................................................................................................ 31
CHƢƠNG 2: KHÁI LƢỢC VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC THẾ KỶ XVIII .......................... 33
2.1. Thơ Thiền sƣ: Thái độ ung dung điềm tĩnh trƣớc cái chết ...................................... 34
2.1.1. Thấm nhuần quan niệm thân xác là huyễn ảo,
cái chết là lẽ thƣờng .................................................................. 35
2.2.2. Cái nhìn vô úy trƣớc cái chết ..................................................... 38
2.2. Thơ văn nhà nho: sẵn sàng chết để bảo toàn nghĩa lớn. ...................... 44
2.2.1. Trung thần tiết nghĩa vì nƣớc quên thân ....................................................... 44
2.2.2. Ngợi ca những tấm gƣơng liệt nữ .............................................. 52
Tiểu kết ............................................................................................................ 55
CHƯƠNG 3: SỰ PHÂN HÓA QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - ĐẦU XIX ................ 56
3.1. Tiếp tục cái nhìn duy lý về vấn đề cái chết. ......................................... 56
3.2. Cái nhìn chủ tình về vấn đề cái chết. ...................................................................... 65
3.2.1. Tiếng khóc tình riêng ly biệt ...................................................... 66
3.2.2. Tiếng khóc đồng cảm thƣơng thân bạc mệnh ............................. 80
3.3. Cái nhìn trân trọng và bảo vệ quyền sống của thân xác ...................... 87
Tiểu kết ............................................................................................................ 97
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 101
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài.
Thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX là thời kỳ văn học đạt tới đỉnh
cao với những thành tựu rực rỡ nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam.
Những nghiên cứu về văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX cho tới nay
đã có thể khẳng định đƣợc một cách xác đáng và toàn diện vị trí của văn học
giai đoạn này với những giá trị to lớn của nó trong tiến trình lịch sử văn học
dân tộc. Điểm đặc sắc nhất của văn học giai đoạn này chính là sự khẳng định
cuộc sống trần thế và đề cao tình cảm của con ngƣời với tƣ cách là một cá
nhân đầy cảm xúc trong đời sống ấy. Thay thế cho mẫu hình lý tƣởng là thánh
nhân – quân tử chủ trƣơng khắc chế tình cảm, đề cao lý trí trong văn học
những thế kỷ trƣớc; những con ngƣời trần thế tài hoa, đầy cảm xúc, những
thân phận nhỏ bé trong xã hội bƣớc vào văn chƣơng thế kỷ XVIII – XIX với
những rung động tinh tế và tình cảm chân thực, sống động chƣa từng có trƣớc
đó.
Nhìn lại lịch sử văn học trung đại Việt Nam suốt một thời gian dài,
chúng tôi nhận thấy văn học giai đoạn XVIII – đầu XIX viết nhiều về vấn đề
cái chết. Cùng với đó, là sự thay đổi quan trọng trong thái độ ứng xử đối với
vấn đề cái chết thể hiện rõ nét trong các sáng tác văn học thời kỳ này. Nhìn
một cách tổng thể, sự thay đổi thái độ trƣớc cái chết phản ánh sự thay đổi
trong tƣ tƣởng và quan niệm của các tác giả - nằm trong mạch nguồn nhân
bản của văn học thế kỷ XVIII – XIX. Thái độ đối với vấn đề cái chết thể hiện
trong văn học thời kì này xuất hiện những cung bậc tình cảm hết sức đa dạng
1
và sâu sắc, nhƣ một sự khẳng định mạnh mẽ và đề cao quyền sống, quyền
đƣợc hạnh phúc của con ngƣời trong chính cuộc sống thực tại. Đó là điều mà
suốt từ thế kỷ X – XVII không hề có trong văn học, khi mà cái chết đƣợc nói
tới nhƣ một sự bảo toàn đạo lý theo chuẩn mực đạo đức đã đƣợc quy định,
đƣợc mô hình hóa.
Sự thay đổi quan niệm về vấn đề cái chết trong văn học thế kỷ XVIII –
đầu XIX có thể nói, là một vấn đề văn học sử quan trọng trong tiến trình văn
học Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chƣa có công trình nào đi sâu vào
tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề cái chết trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII
– đầu thế kỷ XIX một cách toàn diện.
Với những cách tiếp cận đa dạng, nhiều chiều, bức tranh văn học thế kỷ
XVIII – XIX đã đƣợc soi sáng dƣới rất nhiều góc độ khác nhau. Song với mỗi
góc nhìn mới, cách tiếp cận mới bức tranh văn học ấy lại hứa hẹn thêm những
gam màu mới còn ẩn dấu, những giá trị mới đƣợc khám phá.
Lựa chọn đề tài “Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX với vấn đề
cái chết”, chúng tôi mong muốn với một cách tiếp cận mới, góc nhìn mới sẽ
góp phần làm phong phú hơn những nhận định, tìm hiểu về văn học giai đoạn
này, cũng nhƣ góp phần hiểu thêm, hiểu sâu hơn những giá trị của một thời kỳ
văn học đỉnh cao của nƣớc nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Qua quá trình khảo sát và tìm hiểu của chúng tôi, Vấn đề cái chết trong
văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX hiện chƣa đƣợc coi là vấn đề trung
tâm của bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tuy nhiên, các công trình khảo cứu
về văn học giai đoạn này đều ít nhiều có đề cập tới thái độ, cảm xúc của con
ngƣời trƣớc cái chết nhƣ là một trong những biểu hiện của tình cảm cá nhân
2
con ngƣời. Do vậy có tính định hƣớng, có giá trị tham khảo cho đề tài của
chúng tôi.
2.1. Hầu hết các giáo trình, các công trình nghiên cứu mang tính khái
quát, tổng hợp về văn học Việt Nam trong thời kỳ trung đại giai đoạn từ thế
kỷ XVIII đến đầu XIX đều đi sâu vào trào lƣu nhân đạo chủ nghĩa trong văn
học nhƣ một bƣớc ngoặt lớn của văn học dân tộc. Từ những thành tựu nghiên
cứu về cảm hứng chủ đạo của văn học trong trào lƣu này, chúng tôi có thể tìm
thấy đƣợc nhiều lý giải và gợi ý quan trọng cho việc tiến hành nghiên cứu đề
tài của mình.
Dƣơng Quảng Hàm viết Việt Nam văn học sử yếu xuất bản năm 1943,
đây là công trình rất có giá trị, đã “bao quát quá trình văn học dân tộc từ khởi
nguyên đến đƣơng thời, thu góp đƣợc hầu hết những kết quả sƣu tầm, nghiên
cứu của giới học giả tính đến thời điểm ấy, từ đó phác thảo một lịch trình diễn
biến của văn học dân tộc”. Trong công trình này, Dƣơng Quảng Hàm đã dành
ra hai thiên nhận định khái quát, tổng hợp và tuyển chọn những tác giả, tác
phẩm tiêu biểu cho văn học thế kỷ XVIII và XIX. Những tác phẩm gắn với
những tác giả tiêu biểu đƣợc ông tóm tắt lại, kèm với những nhận định ngắn
gọn nhƣng rất cụ thể, rất có ích cho việc định hƣớng tham khảo tƣ liệu.
Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu XIX, Nxb ĐH&THCN: công trình đánh giá vị trí và thành tựu của văn
học Việt Nam giai đoạn nửa cuối XVIII – nửa đầu XIX. Trong đó, Nguyễn
Lộc đặc biệt đi sâu vào phân tích bình diện thứ hai của trào lƣu nhân đạo chủ
nghĩa là “Đề cao con ngƣời, cuộc sống trần tục” với vấn đề trung tâm: “Đấu
tranh đƣợc tự do yêu đƣơng” trong giai đoạn văn học này. Trong muôn vẻ
biểu hiện của tình yêu, nỗi buồn thƣơng trƣớc sự chia ly sống chết với ngƣời
vợ, ngƣời yêu mà các tác giả bộc lộ trong tác phẩm của mình đƣợc nhà nghiên
3
cứu nhìn nhận nhƣ là cung bậc cảm xúc cá nhân, chứ chƣa đƣợc đánh giá nhƣ
là một vấn đề mang tính bản thể luận quan trọng của con ngƣời. Dù vậy, tác
giả cũng đã khẳng định tầm giá trị và thời đại của những tác phẩm viết về cái
chết mà chúng tôi đang tìm hiểu, chẳng hạn nhƣ: “Phạm Nguyễn Du viết
Đoạn trường lục, Ngô Thì Sĩ viết Khuê ai lục là hai tập thơ khóc vợ, mà các
nhà nghiên cứu cho là không khác mấy Giọt lệ thu và Linh Phượng ký, cũng
là hai tác phẩm khóc chồng, khóc vợ của những tác giả ở những năm 20 của
thế kỷ này”. Nói một cách khác, điều này cũng tƣơng đồng với nhận định của
nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam:
“Tiếng khóc vợ của Phạm Nguyễn Du và Ngô Thì Sĩ đã đƣợm tính chất cận
đại”.
Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX (Huỳnh Lý
chủ biên, In lại lần 2 có sửa chữa bổ sung 1978, Nxb Văn học): công trình
đƣợc biên soạn với hai phần. Phần đầu đã khái quát văn học Việt Nam thế kỷ
XXVIII – XIX với hai đặc điểm: (1). Nội dung văn học mang tính chất hiện
thực và Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc; và (2). Văn học tiếng Việt phát triển đến
trình độ một nền văn học dân tộc phong phú. Phần thứ hai là hợp tuyển các
sáng tác văn học của các tác giả giai đoạn này đƣợc tuyển chọn theo từng thời
kỳ: (1). Thời vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn; (2). Thời cuối Lê, Tây Sơn,
đầu Nguyễn; (3). Thời nhà Nguyễn. Công trình này ngoài những lý luận mang
tính khái quát của văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX, còn cung cấp thêm nguồn
tƣ liệu văn bản là những sáng tác tiêu biểu đã đƣợc tuyển chọn và sắp xếp
theo trình tự giai đoạn lịch sử rất rõ ràng. Trong đó, có không ít những tác
phẩm thể hiện thái độ trực tiếp, hoặc gián tiếp trƣớc chuyện sinh – tử, vấn đề
sống chết.
4
2.2. Bên cạnh các công trình nghiên cứu mang tính tổng thể về văn học
Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX, các công trình mang tính chuyên khảo,
đặc biệt đi sâu vào tìm hiểu các tác giả cụ thể, tiêu biểu cũng nhƣ công việc
sƣu tầm, dịch thuật, giới thiệu các tác phẩm văn học có giá trị của văn học
giai đoạn này cũng đem lại những gợi ý quan trọng.
Thơ khóc vợ đã qua đời của Phạm Nguyễn Du với Đoạn trường lục,
Ngô Thì Sĩ với Khuê ai lục đƣợc khá nhiều nhà nghiên cứu (NCC) đề cập
đến. NNC Trần Thị Băng Thanh trong Ngô Thì Sĩ – những chặng đường thơ
văn coi đó là “tiếng nói lạ” trong văn học đƣơng thời và “hé mở ra những vấn
đề mang ý nghĩa rộng và chung, có tính chất thời đại”. NNC Phan Văn Các
tiến hành dịch chú và giới thiệu Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du với
mong muốn góp thêm phần “làm rõ nét mới ấy trong tiến trình văn học Việt
Nam ở một giai đoạn phát triển mạnh mẽ”, cũng đã đƣa ra một số nhận định
về giá trị của Đoạn trường lục thông qua phân tích một số bài thơ trong tác
phẩm này. Đó là những ý kiến đánh giá và nhận định rất có tính khơi mở.
2.3. Văn học viết về cái chết không thể bỏ qua thể loại văn học đặc
trƣng là Văn tế. Với Văn tế cổ và kim, Phong Châu – Nguyễn Văn Phú đã tiến
hành sƣu tầm, chú thích và giới thiệu các bài văn tế trong lịch sử văn học Việt
Nam. Các tác phẩm đƣợc sắp xếp theo từng giai đoạn lịch sử nên có giá trị
tham khảo.
Đặc biệt, trong một số bài viết gần đây, tác giả Nguyễn Đông Triều đã
dành nhiều quan tâm cho thể loại văn tế trung đại Việt Nam. Với “Một số
công trình nghiên cứu liên quan đến văn tế trung đại Việt Nam – Điểm lại và
định hƣớng nghiên cứu”, chúng tôi đã đƣợc hệ thống và tiếp cận với các tác
phẩm văn tế quan trọng thời trung đại, cũng nhƣ thuận lợi hơn trong việc tìm
đọc và tra cứu các công trình đã thực hiện nghiên cứu thể loại văn học đặc
5
trƣng này. Cùng với đó, bài viết “Cảm hứng vô thƣờng trong một số bài văn
tế trung đại Việt Nam” cũng đã tiến hành phân tích một số các tác phẩm văn
tế trung đại có ảnh hƣởng triết lý Phật giáo “nhằm tìm hiểu suy nghĩ của
ngƣời xƣa về sinh tử theo thế giới quan Phật giáo”. Đây cũng là một tài liệu
tham khảo thiết thực đối với luận văn này của chúng tôi.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu về các tác giả lớn thời trung đại,
hay văn học giai đoạn trong thế kỷ XVIII- đầu XIX, đều có sự phân tích
những tác phẩm văn tế có giá trị. Điều này cũng là một thuận lợi cho chúng
tôi khi tiếp cận với thể loại này.
2.4.
Ngoài các cách tiếp cận văn học sử truyền thống, những công trình
nghiên cứu văn học trung đại trong đó có giai đoạn thế kỷ XVIII – đầu XIX
của nhiều tác giả đã có những cách tiếp cận mới, góp phần đa dạng thêm điểm
nhìn cũng nhƣ góp phần đánh giá một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn về tác
giả, tác phẩm, văn học giai đoạn.
NNC Trần Đình Sử tiếp cận dƣới góc độ thi pháp: Thi pháp văn học
trung đại Việt Nam. Công trình này đem lại một cái nhìn tổng thể và hệ thống
của văn học trung đại Việt Nam dƣới góc độ thi pháp. Trong đó có phân tích
sự phát triển của con ngƣời trong thơ, trong các thể loại văn học trung đại mà
chúng tôi có thể tham khảo, áp dụng cho vấn đề nghiên cứu cụ thể của mình
trong đề tài này.
NNC Trần Ngọc Vƣơng tiếp cận bằng phƣơng pháp loại hình học tác
giả. Trong công trình công phu và đầy tâm huyết Nhà nho tài tử và Văn học
Việt Nam, ông đã phân tích rất cụ thể về ba loại hình nhà nho: hai chính thống
(hành đạo và ẩn dật) và đặc biệt là loại hình nhà nho phi chính thống – nhà
nho tài tử - những con ngƣời điển hình của thời đại đã tạo nên chân dung mới
6
của văn học thế kỷ XVIII-XIX đầy thành tựu. NNC Trần Ngọc Vƣơng đã
khẳng định tính chất “thị tài” và “đa tình” của lớp nhà nho tài tử. Trƣớc
những thay đổi của thời đại, đó là những con ngƣời đã dám vƣợt thoát ra khỏi
vòng lễ giáo, lên tiếng đòi hỏi thẳng thắn về tình yêu và hạnh phúc, không
ngại ngần bộc lộ những khao khát cá nhân đa dạng, mãnh liệt. Chính từ sự
xuất hiện của những nhà nho tài tử này, chúng tôi nhận thấy việc bộc lộ thái
độ cá nhân đối với vấn đề cái chết có sự thay đổi, đó cũng là một trong những
tiếng nói cất lên đòi quyền sống, quyền đƣợc hƣởng hạnh phúc của cá nhân
con ngƣời trong chính đời sống hiện tại. Với những phân tích và nhận định
sắc sảo, xác đáng của tác giả, công trình này là một tài liệu tham khảo vô
cùng hữu ích đối với chúng tôi. Các tác giả nhà nho tài tử tiêu biểu đƣợc NNC
Trần Ngọc Vƣơng nghiên cứu theo hệ thống một cách kỹ lƣỡng, cụ thể; kèm
theo đó là phần phụ lục tuyển chọn các tác phẩm văn chƣơng tài tử tiêu biểu
đã tạo thuận lợi cho chúng tôi khi tìm hiểu, tiếp cận và thực hiện đề tài của
mình.
Với cách tiếp cận mới: tiếp cận văn hóa học, NNC Trần Nho Thìn đã
có nhiều công trình viết về văn học thế kỷ XVIII – XIX có tính định hƣớng và
giá trị tham khảo đặc biệt quan trọng đối với luận văn này của chúng tôi.
Công trình Văn học trung đại Việt nam dưới góc nhìn văn hóa với những bài
viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều nhƣ: Triết lý Truyện Kiều trong bối cảnh
văn hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX; Nhân vật Truyện
Kiều và vấn đề tiếp cận nhân học văn hóa; NNC Trần Nho Thìn đã đi sâu vào
phân tích giá trị to lớn của Truyện Kiều với một góc nhìn mới. Vấn đề cái
chết lần đầu tiên đƣợc định danh, nằm trong hệ thống các phạm trù giá trị văn
hóa khi ông tiến hành phân tích nhân vật trong Truyện Kiều với cách tiếp cận
nhân học văn hóa với hai khái niệm “Thân” và “Tâm”. Đây cũng là một cách
làm mà chúng tôi lựa chọn và kế thừa khi thực hiện luận văn này. Qua những
7
tranh cãi khen chê trái chiều về nhân vật Kiều của các nhà Nho thời trung đại,
đặc biệt là chuyện Kiều không tự tử chết để bảo toàn danh tiết theo quan điểm
truyền thống của Nho giáo, NNC Trần Nho Thìn đã chỉ ra sự phân hóa quan
điểm đạo đức trong văn học thời kỳ trung đại về vấn đề cái chết. Bài viết còn
cung cấp những đánh giá và phân tích cụ thể về tiến trình vận động của quan
niệm về cái chết trong lịch sử tƣ tƣởng và văn học trung đại.
Cũng trong sách này, bài viết Trào lưu chủ tình của Văn học Việt Nam
thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX và dấu vết ảnh hưởng của sách Thế thuyết tân
ngữ đã đem tới thêm một cách lý giải rất thuyết phục cho yếu tố ngoại sinh
ảnh hƣởng tới sự thay đổi đời sống và tƣ tƣởng văn học trung đại Việt Nam
giai đoạn này. Trong sự thay đổi mạnh mẽ của văn học Việt Nam thế kỷ
XVIII – đầu XIX với trào lƣu chủ tình – coi trọng tình cảm, tất yếu có sự thay
đổi thái độ ứng xử, thay đổi quan niệm về vấn đề cái chết.
Trong bài viết “Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói
phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ
quyền” (Tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt
Nam và văn hóa Đông Á, tổ chức tại Viện Triết học, ngày 23-24/6/2009);
NNC Trần Nho Thìn cũng chỉ ra quan điểm đạo đức Nho giáo truyền thống
chi phối và áp chế mạnh mẽ tới sự sống – chết của ngƣời phụ nữ thể hiện rõ
nét trong văn học trung đại Việt Nam.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu ở nhiều quy mô khác nhau về văn
học giai đoạn này đều ít nhiều đề cập tới vấn đề cái chết trong văn học. Tuy
nhiên, coi thái độ đối với cái chết trong văn học nhƣ một vấn đề văn học sử
làm đối tƣợng nghiên cứu và đánh giá nhƣ là một bƣớc chuyển biến hết sức
quan trọng trong cả một giai đoạn từ thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX thì chƣa có
công trình nào tiến hành một cách toàn diện.
8
3.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Với đề tài “Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX với vấn đề
cái chết”, chúng tôi tiến hành khảo sát, nghiên cứu nguồn tƣ liệu văn học
trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Với vấn đề trung tâm là
Vấn đề cái chết trong văn học, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu các tác phẩm,
các thể loại viết về cái chết hay thể hiện quan điểm, thái độ của tác giả đối với
vấn đề sống – chết. Đó là phạm vi nghiên cứu chính của luận văn.
Mặt khác, nhằm mục đích chỉ ra đƣợc sự thay đổi về quan niệm, thái độ
đối với vấn đề cái chết trong văn học, đòi hỏi chúng tôi cũng phải tiến hành
việc tìm hiểu lịch sử văn học viết về vấn đề cái chết ở những giai đoạn trƣớc
đó cũng nhƣ việc tìm hiểu nguồn gốc quan niệm về cái chết đã chi phối thái
độ ứng xử trong suốt một thời gian dài của lịch sử văn học Việt Nam. Việc
mở rộng phạm vi nghiên cứu vì vậy cũng là một đòi hỏi bắt buộc.
4.
Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên
cứu xã hội học và văn hoá học để tìm hiểu, soi chiếu các vấn đề đã đƣợc đặt
ra. Tất nhiên, điều này không mang nghĩa loại trừ đối với các phƣơng pháp
nghiên cứu khác (phƣơng pháp thống kê phân loại, phƣơng pháp liên
ngành…).
Các thao tác bổ trợ đƣợc sử dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài
là thao tác phân tích, khảo sát, thống kê, so sánh…
5.
Bố cục luận văn gồm:
Phần mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài.
Phần nội dung:
Ngoài Phần mở đầu, cấu trúc luận văn gồm có ba chƣơng chính:
Chƣơng 1. VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG VĂN HÓA PHƢƠNG ĐÔNG.
Chƣơng 2. KHÁI LƢỢC VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC THẾ KỶ XVIII.
Chƣơng 3. SỰ PHÂN HÓA QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – ĐẦU XIX.
Tổng kết phần chính văn còn có phần Kết luận.
Cuối luận văn là phần Danh mục tài liệu tham khảo.
PHẦN NỘI DUNG.
CHƢƠNG 1.
VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG
10
VĂN HÓA PHƢƠNG ĐÔNG.
Vấn đề cái chết trong lịch sử tƣ tƣởng văn hóa phƣơng Đông nhìn từ thế
ứng xử với thân xác.
Cái chết đối với con ngƣời luôn là một điều bí mật, không thể trải
nghiệm. Con ngƣời tìm kiếm câu trả lời cho sự tồn tại của mình, cho một thực
tế không thể thay đổi: phải chứng kiến hàng ngày những đứa trẻ đƣợc sinh ra,
và cũng có những ngƣời chấm dứt sự sống của mình. Cũng từ đó mà nảy sinh
ra những quan niệm về ý nghĩa của sự sống và sự chết. Những tôn giáo, học
thuyết, tƣ tƣởng lớn của nhân loại đều có cách luận giải của mình.
Con ngƣời là một thực thể sống có thể xác và tinh thần, tình cảm; mà
ngƣời xƣa gọi là Thân và Tâm. Con ngƣời hiện diện trong cuộc đời này, biểu
lộ Tâm của mình không cách gì khác chính là bằng thân xác. Thân xác là hữu
thể cho phép con ngƣời có mặt trên đời đích thực và hiển nhiên với tƣ cách là
“con ngƣời” theo đúng nghĩa. Bằng thân xác của mình, con ngƣời “dự định,
ước muốn, hành động, và bày tỏ, biểu lộ ý nghĩ, tình cảm, thực hiện những
quan hệ với thế giới sinh vật và những quan hệ giao ngộ với người khác” 1.
Thân biểu hiện phần bản năng của con ngƣời, mà trong đó sống – chết là một
trong những bản năng mạnh mẽ nhất.
Những học thuyết, tƣ tƣởng lớn ở phƣơng Đông nhƣ Nho – Phật – Đạo
đều hƣớng tới xây dựng mẫu hình con ngƣời lý tƣởng. Hòng đạt tới những
mẫu hình lý tƣởng đó, thân xác với tƣ cách là phần biểu hiện bản năng của
con ngƣời, trong quan niệm của các tƣ tƣởng cổ trung đại, cần phải bị kiểm
1
Nguyễn Văn Trung, Ca tụng thân xác, Nxb. Văn nghệ, 2006, tr.177.
11
soát tối đa. Trí thức Việt Nam thời trung đại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của
những quan niệm khắc kỉ với thân xác trong những học thuyết này. Cùng với
sự đối xử khắc nghiệt với thân xác, Tâm đƣợc hết thảy các học thuyết đề cao,
đƣợc coi nhƣ là yếu tố quyết định cuộc sống của mỗi ngƣời, cũng quyết định
thái độ của con ngƣời trƣớc cái chết.
1.1.
Nho giáo và tƣ tƣởng “sát thân thành nhân” – “xả thân thủ nghĩa”.
Nho giáo là một trong những tƣ tƣởng, học thuyết có ảnh hƣởng mạnh
mẽ và sâu sắc nhất trong lịch sử trung đại khu vực Đông Á, trong đó có Việt
Nam. Mẫu hình lý tƣởng của các nhà Nho là bậc “thánh nhân - quân tử”. Để
đạt tới mẫu hình đó, nhà nho cũng nhƣ tất cả mọi ngƣời trong xã hội “từ thiên
tử tới thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc” (Đại học). “Tu thân”, “tu kỉ
trị nhân” chính là rèn luyện bản thân, mà theo quan niệm của Nho gia thì phải
thực hiện với những hình thức rất nghiêm khắc, trƣớc nhất chính là đòi hỏi sự
khắc kỉ đối với thân xác: “tồn thiên lý, khử nhân dục” (bảo tồn thiên lí, diệt
dục vọng bản năng). Để làm đƣợc điều đó, nhà nho phải rèn cách “dĩ tâm
khống thân” (dùng ý chí khống chế dục vọng bản năng). Cho nên Khổng Tử
mới nói: quân tử ăn không cầu ngon, ở không cầu yên vui (Quân tử, thực vô
cầu bão, cƣ vô cầu an – Luận ngữ, Học nhi). Đƣợc nhƣ vậy rồi thì: “Phạn sơ
tự, ẩm thủy, khúc quãng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hĩ. Bất nghĩa như
phú thả quý, ư ngã như phù vân” (Ăn gạo xấu, uống nƣớc lã, co cánh tay mà
gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui. Làm điều bất nghĩa mà đƣợc giàu sang
thì ta coi nhƣ mây nổi – Luận ngữ, Thuật nhi). Sự khổ ải của thể xác ở đây
không có ý nghĩa gì so với việc bảo vệ đạo lý, thực hành điều nhân nghĩa.
Cũng xuất phát từ quan niệm đạo đức làm ngƣời của nho giáo, coi hiếu
đạo là nền tảng đạo đức của một ngƣời có “nhân”, Nho giáo dạy ngƣời ta phải
biết trọng thân, quý thân mình vì thân xác đó là do cha mẹ ban cho. Trong
12
sách Hiếu kinh có ghi: “ (…) thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn
thƣơng đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, dƣơng danh với hậu thế,
để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu. Xét về hiếu, khởi đầu là lo việc
song thân, kế đến là việc vua tôi, sau cùng mới đến việc lập thân” – cũng cho
thấy một sự thực rằng nho gia quan niệm việc gìn giữ thân thể, trân trọng thân
thể của mình cũng chính là để bảo toàn đạo hiếu, giữ gìn nền tảng đạo đức
của ngƣời quân tử, lập thân hành đạo chứ không xuất phát từ nguyên giá trị
của thân xác. Điều này cũng giúp chúng ta hiểu đƣợc một phần quan niệm về
cái chết toàn thây của nho gia. Chuyện Tăng Tử trƣớc khi chết bảo học trò
xem thân thể của mình, thấy nguyên vẹn thì thanh thản vì đã tránh đƣợc tội
bất hiếu, là một dẫn chứng cho thấy mối quan tâm của nhà nho trƣớc khi chết.
Đó không phải là nỗi băn khoăn chỗ chết rồi sẽ đi về đâu, cuộc sống sau khi
chết sẽ ra sao, mà là cuộc đời đã trải qua có tỳ vết gì không, có tội lỗi gì
không, có toàn vẹn để gặp cha mẹ tổ tiên hay không?. Lúc này ta không bắt
gặp đƣợc tâm thế của một con ngƣời thông thƣờng trƣớc cái chết, vốn là nỗi
sợ hãi và bi thƣơng sẽ không còn đƣợc sống trên cõi đời này nữa. Tâm thế của
nhà nho trƣớc cái chết là nỗi lo lắng về việc mình có giữ đƣợc đạo nghĩa, có
làm tròn đƣợc trách nhiệm của mình hay không. Chính vì thế, cái chết không
toàn thây là hình phạt đau đớn và khổ nhục nhất đối với nhà nho. Các hình
phạt thời trung đại đều nhằm vào thân thể kẻ có tội, đƣợc giới cầm quyền sử
dụng nhƣ cách thức chế ngự và củng cố lòng trung thành của kẻ dƣới. Tàn
khốc nhất là những hình thức tra tấn đến chết làm thể xác không còn nguyên
vẹn nhƣ tùng xẻo, ngũ mã phanh thây, chặt đầu… trở thành nỗi răn đe đầy ám
ảnh đối với nhà nho.
Quan niệm trọng tâm nhất trong học thuyết Nho giáo chính là chữ
Nhân. Đối với nhà nho, đạo Nhân phải đƣợc đặt lên trên chuyện giàu nghèo,
đặt lên trên những cám dỗ của tình ái, và đặc biệt, phải đƣợc đặt lên trên
13
chuyện sống chết của bản thân. Ý nghĩa căn bản nhất của chữ Nhân là hy sinh
cái tôi nhỏ để hoàn thiện cái tôi lớn hơn, để đạt tới hình mẫu con ngƣời mẫu
mực của Nho giáo: “là con ngƣời vô kỷ, vị tha, lúc cần thiết có thể chịu đựng
và phải chịu đựng đƣợc mọi sự ma chiết của hoàn cảnh, đến mức cao nhất,
hoặc do tình huống đòi hỏi, phải sát thân thành nhân, xả thân thủ nghĩa”2.
Khổng Tử nhấn mạnh: “Chí sĩ nhân nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân, vô cầu
sinh dĩ hại thân” (Luận ngữ, Vệ linh công). Nghĩa là: bậc chí sĩ ngƣời có đạo
Nhân là những ngƣời không ham sống mà sợ chết, khi cần thiết, phải tự mình
chết để bảo toàn đạo Nhân. Kế thừa những học thuyết của Khổng Tử, Mạnh
Tử tiếp tục nói rõ thêm về “chết vì đạo đức nhân nghĩa”, đó là “xả thân thủ
nghĩa” (xả thân để bảo vệ nghĩa lớn). Mạnh Tử nói: “Sinh diệc ngã sở cầu dã,
nghĩa diệc ngã sở cầu dã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xả thân nhi cử nghĩa giả
dã”, nghĩa là: sinh mệnh là cái bản thân ta muốn gìn giữ; chính nghĩa cũng là
điều bản thân ta muốn gìn giữ, nhƣng trong trƣờng hợp sinh mệnh và chính
nghĩa không thể đồng thời đƣợc bảo toàn, phải hy sinh sinh mệnh của mình để
bảo toàn chính nghĩa. Quan niệm này của Nho gia có thể khái quát trong câu
“Sát thân thành nhân” – dù tính mệnh là quý nhất, nhƣng vì đại nghĩa mà hy
sinh nó thì mới là nhân vậy. Nho gia có tƣ tƣởng “trọng thân”, coi thân là gốc
(thân vi bản) nhƣng lại mang nghĩa là coi trọng tu thân, đề cao vai trò của tâm
- ý chí chứ không có ý đề cao thân xác bản năng của con ngƣời. Đúng nhƣ
NNC Trần Nho Thìn đã nhận định: “Khắc kỉ và sẵn sàng chết khi cần thiết để
bảo vệ đạo Nhân, đặt các giá trị luân lí đạo đức cao hơn giá trị của thân xác là
mô hình lí tƣởng của nhà nho” 3.
2
Trần Ngọc Vƣơng, Nhà nho tài tử và Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1995, tr.42.
3
Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.389.
14
Cái chết vì nhân nghĩa đƣợc các nhà Nho đề cao, những tấm gƣơng xả
thân vì nghĩa lớn theo quan niệm của Nho giáo đƣợc lƣu truyền trong sử sách.
Chết vì đạo nghĩa đã trở thành những câu cách ngôn trong sự nghiệp lập thân
của các nhà nho, cũng nhƣ là lời cảnh tỉnh với ngƣời khác khi đối diện với cái
chết. Coi “sát thân thành nhân”, “xả thân thủ nghĩa” là điều tâm niệm, Nho
gia đánh giá nhân cách ngƣời quân tử nhận trọng trách trong lúc nguy nan
cũng giống nhân cách ngƣời quân tử tranh đấu cho đến lúc chết, liều chết mà
can gián. Nhân cách ngƣời quân tử có giá trị hơn giá trị của sinh mệnh nhiều
lần. Có vô số nhân sĩ chết vì điều nhân và xả thân vì đại nghĩa, đƣợc nhắc tới
nhƣ những tấm gƣơng sáng cho muôn đời. Nhƣ ba nhân sĩ thời Ân: Bỉ Cán bị
xử tội chết vì dám can gián, Vi Tử dở điên dở dại trôi giạt nơi nhân gian, Cơ
Tử bị giam cầm rồi trở thành nô lệ - đều đƣợc Khổng Tử khen là bậc nhân
(Xem Luận ngữ, Vi tử). Đối với nho gia, nỗi đau đớn của thể xác không có gì
đáng kể, cái chết của thân nhục thể không có gì đáng tiếc nếu đó là sự hy sinh
vì đạo nghĩa, khi đó thân danh tiết mới để lại tiếng thơm cho muôn đời sau.
Lập công danh, bảo tồn đạo lý chính nghĩa là mục đích của đời ngƣời. Cho
nên kẻ nho sĩ mới có câu “sĩ khả sát, bất khả nhục” – kẻ sĩ có thể chết chứ
không thể chịu nhục, cũng là ý nghĩa đó.
Chính bởi quan niệm đề cao nhân cách lý tƣởng, đề cao đạo lý, Nho
giáo đã xác lập nên mô hình của một cuộc sống ý nghĩa không nằm ở chỗ thỏa
mãn những nhu cầu dù là bản năng nhất của con ngƣời, thậm chí còn coi
những nhu cầu đó là dục vọng thấp kém, hạ nhân cách của kẻ sĩ quân tử. Lịch
sử của Nho giáo là lịch sử của những tấm gƣơng trung thần tiết liệt đƣợc ngợi
ca truyền tụng, cũng là lịch sử lƣu truyền tiếng xấu muôn đời của những kẻ
“ham sống sợ chết”. Cho nên: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử
tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử thần chết, thần không chết là bất trung;
cha xử con chết, con không chết là bất hiếu – Phù Tô) đã dần trở thành tâm
15
niệm ăn sâu của kẻ làm tôi, bậc làm con của con ngƣời trong thời đại Nho
học.
Những quan niệm, tƣ tƣởng của Nho giáo đối với bậc nam nhân quân
tử thì khắc kỉ với bản thân, theo đòi nghĩa lớn nhƣ vậy; đối với ngƣời phụ nữ
thì càng trở nên khắt khe hơn, đặc biệt là quan niệm nghiệt ngã về trinh tiết.
Chồng có thể tái thú, vợ không tiếng hai chồng”, đàn ông có thể năm thê bảy
“
thiếp, nhƣng phụ nữ trung trinh chỉ thờ một chồng, ngƣời đó đƣợc gọi là tiết
phụ. Nho giáo đề cao những tấm gƣơng phụ nữ thờ chồng nuôi con, đƣợc
phong gƣơng “tiết liệt phu nhân”; đề cao những ngƣời phụ nữ thủ tiết, tuẫn
tiết theo chồng, coi đó là vì đạo nghĩa… còn lƣu truyền lại đời sau qua kiểu
truyện về liệt nữ. Đặc biệt là Tống Nho có cái nhìn cực kì khắc nghiệt bởi chủ
trƣơng “tồn thiên lý, diệt nhân dục” của Trình – Chu. Từ triều Tống trở về
sau, phụ nữ cải giá bị coi nhƣ "thất tiết", không đƣợc xã hội đƣơng thời dung
thứ. Những truyện nhƣ "Quả phụ đoạn tý" (gái góa chặt cánh tay sau khi tình
cờ bị một ngƣời đàn ông chạm phải), "Nhũ thƣơng bất y" (Ngực bị thƣơng bỏ
mặc không chữa, vì phụ nữ để phô ngực ra cho thầy thuốc nhìn còn tệ hơn là
chết) đƣợc dùng làm gƣơng mẫu và tuyên dƣơng rộng rãi. Câu nói của Trình
Di: "Nga tử sự tiểu, thất tiết sự đại" (Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết mới là
chuyện lớn) đã trở thành quan niệm đạo đức không chỉ ăn sâu vào tƣ tƣởng
của các bậc nam nhân, mà nặng nề hơn ở chính đầu óc của những ngƣời phụ
nữ. Thân xác ngƣời phụ nữ không đƣợc nhìn nhận và đánh giá nhƣ một giá
trị, đó chỉ là công cụ để đánh giá đạo đức, ý chí; khi cần có thể hy sinh để bảo
vệ trinh tiết – cái đƣợc coi là danh dự sống còn của ngƣời phụ nữ trong xã
hội. Quả phụ thờ chồng, thờ con hay chết theo chồng đƣợc phong bảng vàng,
là niềm tự hào của cả làng, cả trấn. Tấm thân không giữ đƣợc trinh tiết là tấm
thân nhục nhã, dơ bẩn - ngƣời phụ nữ không tìm đến cái chết nếu bị thất tiết
bị cả xã hội lên án. Những ngƣời phụ nữ ấy sống vì người khác, chứ không
16
sống vì mình với những khao khát bình thƣờng nhất của một ngƣời phụ nữ.
Những quan niệm khắc nghiệt, thậm chí có thể nói là “bất cận nhân tình” này
đã đƣợc thể hiện rõ nét trong các tác phẩm văn học thời trung đại không chỉ ở
Trung Quốc, mà hẳn nhiên là cả ở Việt Nam. Nặng nề hơn là tƣ tƣởng “chết
để bảo toàn danh tiết” vẫn còn ám ảnh và ăn sâu vào tâm trí của không ít
ngƣời phụ nữ ở tận thế kỷ XXI này.
Chính bởi sự đề cao tuyệt đối giá trị đạo lý, những ràng buộc của “tam
cƣơng ngũ thƣờng”, kẻ nam quân tử chết vì vua, vì nƣớc, vì danh tiết; phận
nữ nhi cũng sẵn sàng hy sinh tính mạng, thân mạng của mình để bảo toàn
trinh tiết. Đó đều là những cách ứng xử với thân xác đầy khắc nghiệt, thậm
chí phản nhân tình khi mà sự sống không còn là mục đích tối thƣợng của con
ngƣời.
Nho giáo chủ trƣơng kiểm soát thân xác bản năng, cũng chủ trƣơng
kiểm soát cả tình cảm của con ngƣời. NNC Trần Nho Thìn phân tích khái
niệm “tâm” trong quan điểm của nho gia gồm có hai trạng thái cần phân biệt
là “tính” và “tình”4. Trong đó, nhà nho bàn về tâm ở trạng thái tính – là bản
tính, thiên tính của con ngƣời là cái cần đƣợc bảo vệ và khẳng định; tình là
những cung bậc cảm xúc, tình cảm của con ngƣời khi tiếp xúc với ngoại vật
mới chính là cái cần phải kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt. Các nhà nho thừa
nhận con ngƣời có tình, nhƣng chủ trƣơng tiết chế tình cảm theo đạo trung
hòa. Khổng Tử khen Quan thƣ, Kinh thi vì “lạc nhi bất dâm, ai nhi bất
thƣơng” (vui mà không dâm dật, buồn mà không bi thƣơng) cũng chính là bởi
tình ở trong đó đạt tới trung hòa, không thái quá, không bất cập. Chu Hi cũng
viết: “Tính chi sở cảm, ƣ vật nhi động, tắc vị chi tình. Thị tam giả, nhân giai
4
Xem bài Nhân vật Truyện Kiều và vấn đề tiếp cận nhân học văn hóa trong sách Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần Nho Thìn, Sdd.
17
hữu chi, bất dĩ thánh phàm vi hữu vô dã…Học giả tắc đƣơng tồn tâm dĩ
dƣỡng tính nhi tiết kì tình dã” (Cái mà tính cảm đƣợc, do tiếp xúc với vật mà
động thì gọi là tình. Ba điều này ngƣời ta ai cũng có, không phải là chuyện có
không của bậc thánh nhân hay kẻ phàm tục…Học giả nên bảo tồn tâm, nuôi
dƣỡng bản tính mà tiết chế tình – Đáp Từ Cảnh Quang)5. Sự đòi hỏi tồn tâm
dƣỡng tính tiết tình này thực chất chính cũng là để phù hợp với đạo đức, nhân
nghĩa theo quan niệm của nho gia, không gì khác là dùng lý trí để chế ngự
cảm xúc. Vì thế trƣớc cái chết, vốn là “ác mộng to lớn của đời ngƣời” (Lễ
vận, Kinh lễ) nho giáo vẫn chủ trƣơng tiết chế tình cảm. Nhà nho vì đại nghĩa
có thể hy sinh thân mình, tâm thế vì vậy hoặc luôn ở trạng thái hiên ngang
lẫm liệt đối mặt với cái chết, hoặc thanh thản mãn nguyện khi đã thỏa đƣợc
chí làm trai, có công danh sự nghiệp. Còn đối với cái chết của ngƣời thân, nho
gia tuân thủ những quy tắc đã đƣợc điển chế hóa trong Kinh Lễ. Kinh Lễ quy
định cách tang ma, tang phục…, thậm chí cả cách bày tỏ tình cảm bi thƣơng
trƣớc cái chết, những cảm xúc tự nhiên nhất của con ngƣời cũng phải hợp lễ,
đúng thời điểm. Thế nên trƣớc sự mất mát, ngƣời ta phải làm rất nhiều điều
theo lễ chế chứ không đƣợc thuận theo cảm xúc tự nhiên: “khi cƣ tang thì sắc
diện phải buồn bã, phải khóc lóc bi ai”, phải để tang cha mẹ ba năm, phải mặc
áo xô gai, chống gậy, ăn đồ ăn nhạt… Lễ nghĩa nhƣ vậy, cũng có thể thấy,
ứng xử với thân xác, tình cảm của chính mình, nhà nho cũng phải tuân theo
quy định, phải hợp với lễ giáo. Có thể nói, từ lúc sống đến khi chết, còn sinh
hoạt đời sống hay đến lúc tang ma, thế ứng xử với thân xác của nhà nho đều
chú vào sự thanh đạm, khắc kỉ.
Nhìn ở mặt biện chứng, nói tới cái chết là nói tới sự sống. Sự sống
chính là hành trình con ngƣời đi tới cái chết. Chính bởi vì từ cái chết mà con
5
Dẫn theo Trần Nho Thìn, Sdd, tr. 446.
18
- Xem thêm -