Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Luận văn văn xuôi ninh bình sau 1975

.PDF
110
130
129

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐINH THỊ THU VĂN XUÔI NINH BÌNH SAU 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐINH THỊ THU VĂN XUÔI NINH BÌNH SAU 1975 Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ THU THỦY THÁI NGUYÊN - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Văn xuôi Ninh Bình sau 1975” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Ngô Thu Thủy. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả luận văn Đinh Thị Thu i LỜI CẢM ƠN Với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Ngô Thu Thủy - người đã hết lòng tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, phòng sau Đại học và các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người thân yêu đã luôn bên cạnh động viên, khích lệ tôi trong những ngày học tập ở trường. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày tháng Tác giả luận văn Đinh Thị Thu ii năm 2019 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỤC LỤC............................................................................................................iii MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 10 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 10 NỘI DUNG ........................................................................................................ 11 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN XUÔI NINH BÌNH SAU 1975 ...... 11 1.1. Diện mạo văn học Ninh Bình sau 1975 ...................................................... 11 1.1.1. Sự vận động của lịch sử, xã hội ............................................................... 11 1.1.2. Sự vận động của văn học ......................................................................... 13 1.2. Những nét chính về văn xuôi Ninh Bình sau 1975 .................................... 18 1.2.1. Về đội ngũ sáng tác ................................................................................. 19 1.2.2. Về thể loại ................................................................................................ 22 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 27 Chương 2. VĂN XUÔI NINH BÌNH SAU 1975 TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG.... 28 2.1. Đề tài chiến tranh và người lính ................................................................. 28 2.1.1. Ký ức chiến tranh .................................................................................... 28 2.1.2. Sự tác động của chiến tranh đến nhân cách con người ........................... 37 2.2. Đề tài thế sự, đời tư .................................................................................... 43 2.2.1. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc gia đình .................................................. 44 2.2.2. Hiện thực cuộc sống đa chiều, sinh động ................................................ 49 iii 2.2.3. Bản sắc văn hóa độc đáo.......................................................................... 56 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66 Chương 3. VĂN XUÔI NINH BÌNH SAU 1975 TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT .................................................................................................. 67 3.1. Sự đa dạng hóa ngôi kể và điểm nhìn......................................................... 67 3.1.1. Trần thuật từ ngôi thứ nhất ...................................................................... 68 3.1.2. Trần thuật từ ngôi thứ ba ......................................................................... 75 3.2. Sự đa dạng về ngôn ngữ ............................................................................. 80 3.2.1. Ngôn ngữ giản dị đời thường .................................................................. 80 3.2.2. Ngôn ngữ mang màu sắc địa phương ...................................................... 84 3.3. Sự phong phú trong giọng điệu .................................................................. 87 3.3.1. Giọng điệu ngợi ca................................................................................... 87 3.3.2. Giọng điệu triết lí ..................................................................................... 90 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 95 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 99 PHỤ LỤC ............................................................................................................... iv MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học hiện đại Ninh Bình có quá trình hình thành và phát triển tương ứng với quá trình hình thành và phát triển của nền văn học dân tộc. Những thành tựu sau năm 1975 đã mang đến cho văn học Ninh Bình một diện mạo mới, đánh dấu bước phát triển trong lịch sử văn học Việt Nam, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong bước ngoặt của dòng chảy hiện đại ấy. Sự đổi mới của văn học Ninh Bình sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng ngày càng phản ánh sâu sắc, phong phú quá trình tiếp nhận sự tác động của đời sống và lịch sử, có sự kế thừa những giá trị tinh hoa của văn học truyền thống và có điều kiện hội nhập với văn hóa thế giới. Là một bộ phận của văn học Việt Nam, văn xuôi Ninh Bình đã và đang có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học nghệ thuật. Tuy sự phát triển ở các giai đoạn văn học không đều nhau nhưng nó vẫn tạo thành dòng chảy liên tục tương ứng với dòng chảy của văn học dân tộc. 1.2. Được coi là thể loại có nhiều thành tựu, văn xuôi đã có những bước chuyển mình đáng kể, có sự đổi mới về nội dung và cách tân về nghệ thuật. Với một đội ngũ sáng tác đông đảo có tính kế thừa và phát triển, văn xuôi giai đoạn này có nhiều khởi sắc góp phần làm nên diện mạo văn học Ninh Bình. Hàng loạt các tác phẩm thuộc các thể loại: truyện ngắn, bút kí, tùy bút, tản văn được công bố trên sách báo tạp chí từ Trung ương đến địa phương. Ngoài các tác giả văn xuôi tiêu biểu là: Kao Sơn, Hoàng Phương Nhâm, Vũ Huy Anh, Phạm Việt Long,…gần đây còn xuất hiện những cây bút văn xuôi có nhiều triển vọng như: Phạm Thị Duyên, Vũ Thanh Lịch, Quyên Quyên,… Về nội dung, bên cạnh việc tập trung ca ngợi vẻ đẹp của quê hương và con người Ninh Bình trong xây dựng cuộc sống mới, các cây bút văn xuôi đã chú ý hơn đến những số phận riêng của con người, mang đến cho những trang viết một chiều sâu nhân bản, nhân văn. 1 1.3. Văn xuôi Ninh Bình sau 1975 đã có mặt ở hầu hết các chương trình giáo dục từ Trung học cơ sở đến Cao đẳng, Đại học chuyên ngành Ngữ Văn từ lâu. Ở bậc Trung học cơ sở các tác giả, tác phẩm được đưa vào giảng dạy là những tác giả đã thành danh; là những tác phẩm hay, có giá trị về nội dung và nghệ thuật, có tính giáo dục, tính thẩm mĩ, phù hợp và gắn bó chặt chẽ với chương trình chính khóa. Trong chương trình Đại học, giảng viên giới thiệu chân dung văn học của các tác giả đã thành danh - là hội viên hội Nhà văn Việt Nam. Đó là các tác giả: Lâm Xuân Vi, Trần Lâm Bình, Kao Sơn, Hoàng Phương Nhâm, Bình Nguyên, đi sâu tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp văn học của các tác giả, khẳng định những đóng góp của các tác giả cho sự nghiệp phát triển văn học tỉnh nhà. Các tác giả, tác phẩm được nghiên cứu khá kĩ càng, đem đến cho người học một cái nhìn toàn diện, chính xác và đầy đủ về những vấn đề văn hóa, diện mạo văn học của quê hương. 1.4. Là một người con của quê hương Ninh Bình yêu dấu, tôi rất tự hào khi được sinh ra và lớn lên ở đây - mảnh đất hiền hòa đầy yêu thương. Nghiên cứu “Văn xuôi Ninh Bình sau 1975” là một trong những điều kiện thuận lợi để tôi có dịp bày tỏ thái độ, sự hiểu biết, tình cảm, lòng thành kính, biết ơn đối với quê hương của mình. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Trong những năm hợp nhất tỉnh (1976 - 1992), Ninh Bình thay đổi về mọi mặt, tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Phong trào sáng tác văn thơ từng bước được đẩy mạnh. Các cây bút sáng tác thơ, văn xuất hiện nhiều. Tuy nhiên, lĩnh vực văn xuôi hầu như chưa có công trình gì đáng kể, có chăng chỉ là những công trình lẻ tẻ, thưa thớt của một số nhà giáo, nhà nghiên cứu, phê bình. Ngoài một vài truyện ngắn của Kao Sơn, Ngô Xuân Hành, Phạm Việt Long, hoặc truyện kí của Nguyễn Thế Kiểm, được đăng tải trên Tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh, tác giả văn xuôi là người Ninh Bình số lượng ít. 2 2.2. Từ khi tái lập tỉnh (1992), văn học Ninh Bình chứng kiến những bước chuyển mình đổi thay của quê hương từ một tỉnh nghèo nàn, lạc hậu vươn lên với những bước phát triển mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Các văn nghệ sĩ sống và làm việc trên địa bàn tỉnh cũng như những người sống xa quê hương cũng cảm nhận rõ nét sự đổi thay của quê hương, đất nước trong cơ chế kinh tế thị trường với tất cả mọi khía cạnh của đời sống. Tình yêu đó đã tạo động lực cho những sáng tạo của các văn nghệ sĩ Ninh Bình trong thời gian qua. Có thể nói, văn học Ninh Bình thật sự khởi sắc cả về số lượng và chất lượng, từ đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tác đến thể loại, đề tài. Bên cạnh thơ là thể loại sáng tác chủ đạo có nhiều thành tựu, thì các thể loại khác như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, kịch bản sân khấu, phê bình văn học, nghiên cứu sưu tầm,… cũng không ngừng phát triển, làm nên một diện mạo vô cùng khởi sắc của văn học Ninh Bình. Nhiều tác giả đã trở thành hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, có những tác giả là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, trở thành những cây bút vững chắc, làm nòng cốt cho bộ môn văn xuôi của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh (Kao Sơn, Hoàng Phương Nhâm, Đinh Ngọc Lâm…). Năm 1994, Ninh Bình đã có một Tạp chí chuyên ngành Văn học nghệ thuật, đó là Tạp chí văn nghệ Ninh Bình. Tạp chí này đăng tải hầu hết các tác phẩm do các tác giả Ninh Bình sáng tác với hàng trăm truyện ngắn, bút kí, làm phong phú cho văn học Ninh Bình. Từ đây, văn xuôi Ninh Bình thật sự phát triển, các truyện ngắn, truyện dài và những bài kí xuất hiện đều đặn trên các báo, tạp chí của tỉnh và Trung ương. Năm 2002, văn học địa phương Ninh Bình được đưa vào giảng dạy ở trường Trung học cơ sở và được phổ biến rộng rãi đến đông đảo sinh viên, giáo viên và học sinh trên địa bàn tỉnh. Năm 2009, Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Bình đã biên soạn tài liệu “Ngữ văn Ninh Bình” để giảng dạy phần văn học địa phương trong chương trình Ngữ văn cơ sở. Tài liệu được biên soạn theo từng lớp (từ lớp 6 đến lớp 9) và có 21 tiết thực hiện nội dung giáo dục địa phương. Ở 3 mỗi lớp học đều có các phần: văn, tiếng việt và tập làm văn theo đơn vị tiết học, bài học được ấn định trong sách giáo khoa và khung phân phối chương trình Trung học cơ sở môn Ngữ văn. Giúp các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa lịch sử, về con người, quê hương nơi mình đang sinh sống và làm việc. Nhằm góp phần giáo dục toàn diện học sinh, giữ gìn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội và truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã ban hành công văn số 73/HD - BVHTTDL ngày 16/1/2013 về việc “hướng dẫn sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông”, trong đó nêu rõ: “lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa vào các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông. Văn học địa phương Ninh Bình chính là một sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng và cá nhân trong hệ thống di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh. Cũng trong năm 2002, trường Cao đẳng sư phạm Ninh Bình (nay là Đại học Hoa Lư) đã tổ chức biên soạn cuốn “Những vấn đề văn hóa, văn học và ngôn ngữ địa phương Ninh Bình” để làm tài liệu giảng dạy cho sinh viên ngành văn - sử trình độ Cao đẳng. Học phần có ý nghĩa quan trọng, trang bị cho người học cái nhìn toàn diện, chính xác về các lĩnh vực văn hóa, diện mạo văn học và việc sử dụng từ ngữ địa phương; giúp sinh viên hiểu biết và hòa nhập hơn với môi trường mà mình đang sống, có ý thức tìm hiểu, giữ gìn và tái tạo những giá trị văn hóa, văn học của quê hương. Giáo dục cho sinh viên lòng tự hào về quê hương xứ sở của mình. Từ đó, nhằm chuẩn bị cho giáo sinh khi ra trường có thể dạy tốt 21 tiết “Ngữ văn địa phương” quy định trong chương trình Trung học cơ sở. Năm 2008, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành nghị quyết số 23-NQ/TW về việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kì mới. Những quan điểm của Đảng tại Nghị quyết này đến nay vẫn là quan điểm chỉ 4 đạo căn bản nhất đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật. Những quan điểm được nhấn mạnh tại Nghị quyết về phát triển văn học nghệ thuật tại địa phương như sau: thứ nhất, khẳng định văn học, nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của văn hóa Ninh Bình; thứ hai, phát triển văn học, nghệ thuật Ninh Bình thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế phải mang tính toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn dân chủ, vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa của nhân dân, hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ và phát triển toàn diện; thứ ba, tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ vì quê hương, đất nước, dân tộc và nhân dân. Nghị quyết 05 Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa VI đã xác định văn học “là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mĩ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội…” Năm 2013, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình thực hiện thành công đề tài: “Định hướng phát triển văn học, nghệ thuật Ninh Bình đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” là cơ sở cho các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước về văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh ban hành chủ trương, chính sách phát triển văn học nghệ thuật, tạo điều kiện cho đội ngũ văn nghệ sỹ, những người làm công tác lý luận phê bình văn học, nghệ thuật phát huy khả năng sáng tạo, có những tác phẩm, tác giả xuất sắc, xứng tầm quốc gia. Năm 2017, đánh giá sự phát triển của văn học địa phương Ninh Bình, Trường Đại học Hoa Lư đã tổ chức thành công hội thảo khoa học “Nghiên cứu 25 năm phát triển của văn học địa phương Ninh Bình (1992 - 2017)”, từ đó đề 5 xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sáng tác, nghiên cứu văn học Ninh Bình trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, nghiên cứu những tiền đề lý luận về văn học sử và những ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,… tới sự phát triển của văn học địa phương Ninh Bình trong 25 năm (1992 - 2017). Từ những đặc điểm cơ bản của văn học Ninh Bình 25 năm qua, đánh giá những thành tựu nổi bật của văn học từ nhiều phương diện thể loại (thơ ca, kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết), đời sống văn học (sáng tác, tiếp nhận, lý luận phê bình). Từ đó, nhận rõ trách nhiệm của bản thân, nâng cao ý thức giữ gìn truyền thống tốt đẹp của quê hương, phát huy khả năng để xây dựng quê hương phát triển trong thời đại hội nhập. Văn học địa phương Ninh Bình, cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, sân khấu dân gian, ca nhạc,… đã và đang góp sức mình trong việc giới thiệu, quảng bá quê hương, con người Ninh Bình, con người Tràng An ngàn năm văn hiến với bạn bè trong nước và quốc tế. Đặc biệt, đây cũng là giai đoạn mà những ưu thế thiên nhiên ban tặng cho tỉnh nhà như: danh lam thắng cảnh, các di tích văn hóa, lịch sử đã được khai thác, bảo tồn một cách hệ thống đem lại nguồn lợi kinh tế, khơi gợi cảm xúc cho con người và cảm hứng sáng tác của văn nghệ sĩ. Bên cạnh đó, còn có một số ý kiến, đánh giá về tác phẩm như: Đánh giá về tập truyện Trú rét của Vũ Thanh Lịch, tác giả Việt Hà đã viết: “Cốt truyện tuy không mới, nhưng cách miêu tả của Vũ Thanh Lịch vô cùng tinh tế. Dưới ngòi bút của chị, những con chữ không còn là những con chữ nằm yên trên giấy, mà chúng biết nhảy nhót, biết cựa quậy, biết khóc, biết cười cùng nhân vật…”. [15] Tiểu thuyết Chân núi có một con đường (Vũ Thanh Lịch), nhà văn Cao Sơn cho rằng: “Cuốn sách như một bản tình ca trong sáng cho tuổi mới lớn, được thể hiện với nhiều bè trầm, phảng phất, hoài nhớ. Một lưu giữ đẹp và cần thiết”. [43] 6 Tác phẩm Khúc đồng dao lấm láp của Kao Sơn, tác phẩm đạt giải A - Nhà xuất bản Kim Đồng trong cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi 1999 - 2000 đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Nhà văn Ma Văn Kháng (thành viên hội đồng chung khảo - Báo Tiền Phong số 58 - 15/05/2001) đã từng chia sẻ về tác phẩm này “Truyện biểu lộ năng lực đi sâu mô tả tâm lí trẻ thơ, năng lực tìm biết, phát hiện những vùng sâu kín trong tâm hồn thơ dại, nơi đầu nguồn nhân cách của các em… Bằng ngôn ngữ tỉnh lược, hàm xúc, một chú bé kể lại chuyện đời mình… rất thật thà, thật thơ ngây, tự nhiên và không ít tâm trạng. Giàu chất sống hiện thực, truyện có những khám phá đặc sắc trong đó rất đáng chú ý là cái phần chìm sâu không nói ra…”. [21] Nhà văn Văn Chinh (báo Nông nghiệp Việt Nam 26/06/2001) nhận xét: “Không phải thơ. Chất thơ chỉ phảng phất như hương đồng gió nội làm mềm mại cái gian khó nhọc nhằn ở một ngôi làng chiêm trũng. Nó nâng câu chuyện của những đứa trẻ nghèo thành Khúc Đồng dao có thể của năm đã xa, có thể của hôm nay nhưng cũng có thể còn hát về lâu dài… Cả quyển sách bõ công 15 năm gạch xóa, mỗi chữ mỗi chăm chút mà không bị tước bỏ những ba - via vốn là đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi. Văn Kao Sơn khỏe mà mềm mại, chan chứa cảm xúc. Qua văn thấy ông thật yêu trẻ con!... Khúc đồng dao lấm láp do “tôi” dẫn ta đến với số phận đứa trẻ từ lúc nó khóc chào đời… cho đến khi dứt nó khỏi tuổi thơ êm ả,… khỏi mối tình ấu thơ của mình như cây bị bứng khỏi gốc, khỏi tuổi thơ một đi không trở lại. Câu chuyện kết thúc ở đây, trong dư âm kèn đám như một ẩn dụ về tuổi thơ ngọt ngào và lấm láp đã chết để tiếp cận với đắng cay, chua ngọt của người lớn, một dư vị bùi ngùi… Trong văn xuôi Việt Nam hiếm có tác phẩm nào duy trì được một nhạc cảm như ở Khúc đồng dao lấm láp. Nó như dàn nhạc giao hưởng chơi bè trầm riêng tôn tiếng đàn bầu số phận nhân vật thánh thót và nức nở trong cảm nhận của người đọc…”. [11] Nhà văn Nguyễn Thị Ấm - Báo Giáo dục Thời đại số 68 khẳng định: “Thú thật, đã lâu lắm tôi mới được đọc một tập truyện viết về thiếu nhi hay đến như vậy. Truyện viết 7 bằng một thứ văn mới đọc cứ như một mạch suối tuôn trào. Nhưng tôi trộm nghĩ, loại truyện này người lớn đọc mới thích, còn trẻ em chưa chắc chúng đã hiểu hết cái hay của tác phẩm…”. [3] Ngoài ra còn phải kể đến một số bài viết khoa học, bài báo giới thiệu, phân tích tác phẩm của một số tác giả văn học địa phương Ninh Bình trên báo chí, tạp chí của Trung ương và địa phương như các bài viết của Lâm Xuân Vi, Bình Nguyên, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Mạnh Quỳnh, Nguyễn Thị Phương… Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy các bài viết mới chỉ dừng lại ở góc nhìn nhỏ lẻ, chưa có những thành công đáng kể, sự đột phá không nhiều. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy các công trình bài viết đều có cái nhìn rộng rãi trong việc nghiên cứu, đánh giá về tình hình văn học Ninh Bình sau 1975 ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình bài viết này chỉ dừng lại ở mặt diện mạo văn học Ninh Bình chứ chưa khai thác sâu về văn xuôi Ninh Bình sau 1975. Hơn nữa, nếu như có đề cập đến thì cũng chỉ dừng lại ở khía cạnh nhỏ lẻ chứ chưa đi sâu khám phá toàn bộ văn xuôi Ninh Bình sau 1975. Tuy nhiên các công trình, bài viết nghiên cứu đã khảo sát là cơ sở hết sức quan trọng và hữu ích để giúp tác giả tham khảo, nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài làm rõ quá trình vận động, tồn tại và phát triển của văn xuôi Ninh Bình sau 1975; khẳng định vị trí và những đóng góp của văn xuôi Ninh Bình sau 1975 trong tiến trình văn học Ninh Bình nói riêng và trong văn học Việt Nam đương đại nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu chúng tôi xác định một số nhiệm vụ chính của đề tài như sau: - Tìm hiểu diện mạo văn xuôi Ninh Bình sau 1975. 8 - Chúng tôi tập trung nghiên cứu một số phương diện nổi bật nhất về nội dung và nghệ thuật thể hiện của văn xuôi Ninh Bình từ sau 1975 ở đề tài chiến tranh - người lính và đề tài thế sự - đời tư với những đặc sắc về ngôi kể, ngôn ngữ và giọng điệu. - Đánh giá thành tựu và hạn chế của văn xuôi Ninh Bình sau 1975. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một cách hệ thống về “Văn xuôi Ninh Bình sau 1975”. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của địa phương Ninh Bình trong phạm vi từ sau 1975, tập trung chủ yếu vào ba tác giả: Kao Sơn, Hoàng Phương Nhâm, Vũ Thanh Lịch. Ngoài ra, chúng tôi còn mở rộng so sánh với tác phẩm văn xuôi của một số nhà văn Ninh Bình khác (Ngô Xuân Hành, Trần Duy Đới, Thanh Thản, Ninh Đức Hậu,…) và các tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thống kê - phân loại Phương pháp này được luận văn sử dụng để khảo sát và thống kê tất cả các tác phẩm tiêu biểu từ đó tiến hành phân loại các ngữ liệu theo các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp Từ các tài liệu thu thập được về văn xuôi Ninh Bình sau 1975, chúng tôi tiến hành phân tích, xử lý, tổng hợp thông tin để có cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. 5.3. Phương pháp so sánh Phương pháp này được sử dụng để so sánh các khía cạnh khác nhau của nội dung đề tài với tác phẩm của một số tác giả khác. Qua đó chỉ ra sự đổi mới 9 và sáng tạo của văn xuôi Ninh Bình sau 1975 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. 5.4. Phương pháp liên ngành Sử dụng phương pháp này, chúng tôi có thể đặt văn xuôi Ninh Bình trong một cái nhìn đa chiều từ góc độ văn học, lịch sử, xã hội, văn hóa,… 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Về lý luận Luận văn khái quát sự vận động, phát triển và chỉ ra những đặc điểm cơ bản nhất về nội dung và nghệ thuật của văn xuôi Ninh Bình sau 1975. Qua đó, chúng tôi muốn góp thêm cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về diện mạo văn xuôi Ninh Bình sau 1975 trong sự phát triển của văn học Ninh Bình. Luận văn góp phần xác định vị trí, vai trò và những đóng góp của văn xuôi Ninh Bình sau 1975 trong dòng chảy văn học dân tộc. 6.2. Về thực tiễn Chúng tôi hy vọng luận văn phần nào có thể làm tài liệu tham khảo cho ngành giáo dục trong dạy học phần văn học địa phương ở các cấp học, ngành văn hóa - du lịch để giới thiệu bản sắc văn hóa, vẻ đẹp của con người Ninh Bình trong công cuộc đổi mới của đất nước. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về văn xuôi Ninh Bình sau 1975 Chương 2: Văn xuôi Ninh Bình sau 1975 từ phương diện nội dung Chương 3: Văn xuôi Ninh Bình sau 1975 từ phương diện nghệ thuật 10 NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN XUÔI NINH BÌNH SAU 1975 1.1. Diện mạo văn học Ninh Bình sau 1975 1.1.1. Sự vận động của lịch sử, xã hội Năm 1975 đánh dấu mốc sự kiện lịch sử quan trọng mang tính bước ngoặt trong cuộc đấu tranh anh hùng của dân tộc Việt Nam, đất nước thống nhất, đời sống dân tộc có nhiều đổi thay to lớn trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa nghệ thuật. Mọi hoạt động được chuyển từ thời chiến sang thời bình, nhân dân Ninh Bình cùng nhân dân cả nước vượt qua khó khăn tích cực lao động, cống hiến xây dựng quê hương, đất nước. Năm 1986, đất nước tiến hành đổi mới toàn diện, dần dần chấm dứt được khủng hoảng và bước sang giai đoạn phát triển. Xu hướng dân chủ hóa tạo điều kiện thuận lợi để các nhà văn được bộc lộ tư tưởng riêng, cá tính và tài năng của mình. Ý thức nghệ thuật của nhiều nhà văn đã có sự đổi mới. Tỉnh Ninh Bình có thay đổi về địa giới hành chính. Quốc hội khóa V (12/1975) đã thông qua nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Trong những năm hợp nhất tỉnh, nhân dân Ninh Bình cùng nhân dân cả nước tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, góp phần quan trọng cùng cả tỉnh giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng an ninh,… vượt qua giai đoạn khó khăn thử thách, tạo ra những động lực cơ bản thúc đẩy xã hội phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Trước yêu cầu đổi mới của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Quốc hội khóa VIII họp ngày 26/12/1991 đã ra nghị quyết phân định lại địa giới hành chính tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập. Ninh Bình được hình thành từ vùng đất phù sa cổ, con người cư trú từ sớm cách nay khoảng ba vạn năm, một vùng mang đậm dấu tích lịch sử chống ngoại 11 xâm, bảo vệ, phát triển đất nước. Lịch sử sản sinh cho vùng đất Ninh Bình nhiều danh nhân gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước như: Đinh Tiên Hoàng, Trương Hán Siêu, Nguyễn Minh Không, Ninh Tốn, Vũ Duy Thanh, Phạm Thận Duật,… Chặng đường lịch sử hơn 30 năm chiến tranh, dân tộc Việt Nam nói chung, nhân dân Ninh Bình nói riêng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn sau chiến tranh. Những ngày đầu trên con đường độc lập, tự do nhân dân bắt đầu đối mặt với muôn vàn thách thức, hậu quả nặng nề của chiến tranh: mất mát, hy sinh, tổn thất về vật chất và tinh thần; nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kìm hãm, đời sống nhân dân sa sút đã làm cho tỉnh Ninh Bình bộc lộ nhiều bất cập, trì trệ. Đặc biệt là từ khi tái lập tỉnh, kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của quê hương, quân và dân Ninh Bình luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, khai thác tốt các tiềm năng sẵn có và không ngừng khôi phục, phát triển kinh tế; tích cực xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ đời sống và sản xuất, tăng cường lực lượng quốc phòng an ninh, góp phần cùng cả nước đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, đưa quê hương, đất nước vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Lối sống và tác phong công nghiệp, khoa học, văn minh được khẳng định góp phần tăng cường nề nếp kỷ cương cho xã hội. Các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống vẫn tiếp tục được quan tâm, bảo tồn và phát triển. Các lĩnh vực như dịch vụ thương mại, ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông,… cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Văn hóa xã hội có bước phát triển, đóng góp tích cực vào thành tựu của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đây là niềm tin, động lực to lớn, là cơ sở vững chắc để Ninh Bình tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới, phát triển nhanh và bền vững hơn trong những năm tiếp theo. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế Ninh Bình thoát khỏi trì trệ, dần chấm dứt được khủng hoảng, phát triển liên tục đồng đều với tốc độ nhanh. 12 Bộ mặt kinh tế, xã hội nhất là khu vực nông thôn thay đổi rõ rệt. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Cuộc sống văn minh xã hội chủ nghĩa đang từng bước trở thành hiện thực trên quê hương Ninh Bình. Ninh Bình được thiên nhiên ban tặng cho nhiều thắng cảnh đẹp, đa dạng như: Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu danh thắng Tam Cốc - Bích Động, khu du lịch sinh thái ngập nước Vân Long,… cùng với các tài nguyên nhân văn như: Cố đô Hoa Lư, quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm, núi chùa Non Nước, chùa Bái Đính,… Đặc biệt, Quần thể danh thắng Tràng An đã được UNESCO ghi danh Di sản văn hóa và Thiên nhiên thế giới. Nhân dân Ninh Bình đời sau nối tiếp đời trước đã sáng tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc với những thành tựu rực rỡ về kiến trúc, điêu khắc; những áng thơ văn, hát chèo, ca trù, hát xẩm,… những làng nghề thủ công truyền thống; những phong tục, tập quán, lễ hội dân gian,… Những giá trị văn hóa đó còn được giữ gìn và phát triển đến ngày nay. Những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc như yêu nước, cần cù, sáng tạo, nhân ái, thủy chung, khoan dung,… vẫn được người Ninh Bình tiếp tục giữ gìn và phát huy. Tình yêu đó được thể hiện sinh động bằng những nỗ lực lao động, cống hiến xây dựng quê hương, đất nước của các văn nghệ sĩ Ninh Bình trong thời gian qua. Như vậy, tất cả những hiện thực sinh động của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đó đã tác động trực tiếp, sâu sắc đến đời sống văn học, nghệ thuật Ninh Bình. Đây là niềm tin, là cơ sở vững chắc để Ninh Bình tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới, phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo. 1.1.2. Sự vận động của văn học Theo các nhà nghiên cứu của văn học Việt Nam hiện đại, tiến trình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay có ba xu hướng vận động chính tương ứng với ba giai đoạn phát triển. Từ đầu thế kỉ XX đến 1945, văn học vận động theo hướng hiện đại hóa; từ 1945 đến 1975, xu hướng vận động cơ bản của nền 13 văn học cách mạng là đại chúng hóa và cách mạng hóa. Từ sau 1975, nhất là từ nửa cuối những năm 80, dân chủ hóa là xu hướng vận động bao trùm của nền văn học đất nước. Cùng với văn học Việt Nam hiện đại, văn học hiện đại Ninh Bình cũng có lịch sử phát triển qua các thời kì: thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945; thời kì từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975 và thời kì từ 1975 đến nay. Mỗi giai đoạn văn học đều có diện mạo với quy luật và đặc điểm riêng. Thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và sự phát triển của cách mạng, văn học Ninh Bình đã xuất hiện những tác giả, tác phẩm nhưng chưa nhiều. Tuy chưa trở thành phong trào phát triển sâu rộng, còn nặng tính tự phát nhưng những sáng tác ở giai đoạn này có tác dụng tích cực trong việc tuyên truyền cách mạng, khích lệ tinh thần yêu nước, chống Pháp của nhân dân. Một số tác giả tiêu biểu: Phạm Tăng, Nguyễn Lương Ngọc, Tạ Hữu Yên,… Thời kì từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975, văn học Ninh Bình nói riêng và văn học dân tộc nói chung là nền văn học của chế độ mới - nền văn học mang lí tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. So với lực lượng sáng tác ở giai đoạn trước, đội ngũ văn nghệ sĩ từng bước được tập hợp, khích lệ và có định hướng nội dung sáng tác cụ thể cho từng chủ điểm. Phong trào sáng tác thơ văn địa phương ngày càng mở rộng. Các tác phẩm đều được viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Vẻ đẹp của người Ninh Bình hiện lên trong các tác phẩm với những phẩm chất cao quý, nổi bật là tinh thần chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, đặt lợi ích của tập thể, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Nhiều cây bút sáng tác thơ văn xuất hiện, trình độ tri thức của họ đã được nâng cao hơn và đã dần hình thành nên những cây bút chuyên sáng tác theo từng thể loại: văn xuôi, thơ, kịch,… Ở giai đoạn này thơ ca vẫn tiếp tục phát triển và giữ vai trò chính. Một số tác giả đã có tập thơ in riêng dần trở nên quen thuộc với công chúng địa phương như Tạ Hữu Yên, Mai Ngọc Uyển,… Văn 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan