Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn xuân diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930 1945...

Tài liệu Luận văn xuân diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930 1945

.PDF
124
105
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- NGUYỄN THANH HỒNG XUÂN DIỆU TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945 Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn : PGS.TS Lƣu Khánh Thơ HÀ NỘI - 2011 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xuân Diệu là một trong những tác giả lớn trong nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Xuân Diệu đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học hiện đại trước và sau cách mạng và để lại một khối lượng đồ sộ các tác phẩm gồm nhiều thể loại khác nhau : thơ, bút kí, tiểu luận, phê bình văn học...Ở lĩnh vực nào Xuân Diệu cũng đạt được những thành tựu xuất sắc tạo nên những dấu ấn mang bản sắc riêng. Bạn đọc biết nhiều đến ông với tư cách là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, chàng “hoàng tử của thi ca Việt Nam hiện đại” và là nhà thơ tình sống để yêu và phụng sự cho tình yêu. Với tư cách là nhà thơ, Xuân Diệu trở thành một hiện tượng hiếm có của phong trào Thơ Mới và đưa nó lên đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Sáng tác của ông không chỉ phong phú về mặt số lượng mà còn dày dặn về mặt chất lượng. Bạn đọc mến mộ tài năng của Xuân Diệu, yêu quý những trang thơ của ông bởi ở đó có một cái tôi thi sĩ luôn rạo rực tình yêu đến khát khao, cháy bỏng, một tình yêu cuộc sống, lòng yêu đời, yêu người đến thiết tha. Đọc những trang thơ của ông, chúng ta cảm nhận được một tâm hồn tươi trẻ, sống để yêu, để khát vọng, để bừng sáng, cảm mà ngấm mà thấm hết tình yêu “cho đến mãi muôn đời, đến tan cả đất trời” “mới thôi dào dạt” của Xuân Diệu. Cái tôi thi sĩ ấy luôn rạo rực, cuống quýt, hối hả gấp gáp với nhịp trôi chảy của thời gian để toàn tâm toàn ý toàn hồn và “sắc nhọn giác quan” cho cuộc sống hiện tại. Song Xuân Diệu còn được biết đến là một trong những nhà văn tài năng của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Nói đến dòng truyện ngắn trữ tình là nói đến một đội ngũ đông đảo các cây bút đã thành danh trên văn đàn văn học nghệ thuật như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Đỗ Tốn, Ngọc Dao, Thanh Châu…Những tên tuổi trên đã tạo nên và đưa dòng truyện ngắn trữ tình trở thành một trong những dòng truyện ngắn nổi bật trên 2 văn đàn thời bấy giờ. Lối viết với sức lan tỏa sâu rộng, với những trang văn nhẹ nhàng nhưng rung động, sâu sắc đã ngấm ngầm thấm sâu vào lòng người đọc tạo nên những ấn tượng khó phai mờ và những rung cảm thẩm mỹ khẽ khàng mà thật tinh tế, sâu xa. Vì thế quan tâm và tìm hiểu về Xuân Diệu trong mảng văn xuôi nói chung và về truyện ngắn trữ tình nói riêng sẽ vừa thấy được thấy được mối tương quan của văn xuôi trữ tình Xuân Diệu với văn xuôi trữ tình đương thời, đồng thời nhận ra được phong cách riêng của ông cũng như những đóng góp của Xuân Diệu cho dòng truyện ngắn trữ tình. Bên cạnh đó có thể thấy rằng, nếu thơ là địa hạt cho Xuân Diệu kết tinh những tình cảm, cảm xúc dạt dào thì văn xuôi lại cho phép ông phát biểu và trình bày quan điểm, tư tưởng sáng tác một cách đầy đủ hơn, rành mạch hơn và sâu sắc hơn. Đó là sự nối dài, mở rộng ý tưởng mà ông đã từng gửi gắm, từng nói đến…Những sáng tác văn xuôi của ông trong đó phải kể đến tập Phấn thông vàng (1939) và Trường ca là sự tiếp nối và hoàn chỉnh hơn những tư tưởng của Xuân Diệu trong thơ mà cụ thể là tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Điều đó đồng nghĩa với việc muốn hiểu rõ về con người Xuân Diệu, các quan điểm sáng tác, ý thức nghệ thuật của Xuân Diệu một cách toàn diện thì cần phải nghiên cứu các sáng tác bằng văn xuôi của ông. Trong chương trình giáo dục bậc trung học phổ thông và đại học hiện nay, Xuân Diệu là tác gia lớn được quan tâm, cũng như những sáng tác của ông được tìm hiểu, học tập và nghiên cứu. Tiếp cận Xuân Diệu với tư cách không chỉ là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà văn xuất sắc sẽ đóng góp thêm cái nhìn đầy đủ hơn về ông. Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945” làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn này. 2 Lịch sử vấn đề Xuân Diệu được xem là một tài năng đa dạng, một nghệ sĩ lớn, một nhà 3 văn hóa lớn. Vì thế, những sáng tác của ông đã được bạn đọc và những nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về văn xuôi Xuân Diệu. Trong số đó có thể kể đến những bài viết tiêu biểu gồm: Vũ Ngọc Phan, tác giả của Nhà văn hiện đại đã rất tinh tế khi phát hiện ra chất thơ chan chứa ở văn xuôi Xuân Diệu; “Xuân Diệu ở đâu cũng đem theo một hồn thơ bát ngát và mộng mơ. Trong quyển Phấn thông vàng mà Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôi chỉ thấy thơ là thơ. Không phải thơ bằng những câu có vần, có điệu, không phải thơ ở những lời gọt đẽo mà là thơ ở những lối diễn tính tình cùng tư tưởng, ở những cảnh vật cỏn con mà tác giả vẽ nên nhưng nét tỉ mỉ, khi ảm đạm lúc xinh tươi tuỳ theo cái hứng sáng tạo của tác giả” [72,52]. Đồng thời, Vũ Ngọc Phan sau khi đọc Phấn thông vàng cũng đưa ra nhận xét về mố i quan hệ giữa ý và lời văn Xuân Diệu : “lời chẳng qua chỉ là những dấu hiệu để ghi những ý nghĩ và tình cảm, vậy cứ gì lời thanh, lời thô, lời nào phô diễn được hết tình ý đều có thể dùng được cả” [72,53]. Huy Cận - người bạn thân thiết nhất của Xuân Diệu trong bài Phấn thông vàng và những truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu đưa ra nhận xét về một đặc trưng của văn xuôi Xuân Diệu: “Truyện mà gần như không có truyện, không phải là truyện đời mà là chuyện tâm hồn, còn văn là những bài thơ văn xuôi dạt dào cảm xúc, gợi cảm cực kì [11,442] và chính Xuân Diệu cũng cho rằng: Tâm hồn người có biết bao nhiêu là chuyện. Vấn đề tâm hồn mà Xuân Diệu muốn nói ở đây là vấn đề nhân bản chủ nghĩa, trong đó tác giả đầu tư cảm nghĩ của mình về cuộc sống, về con người, nhưng trong đó cũng đầy rẫy những nét, những tình tiết của cuộc đời “thiên hạ”. Rõ ràng là tác phẩm của một người có các thớ lòng đã gắn bó xoắn xuýt với đồng loại” [11,442]. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong nghiên cứu về lối viết văn xuôi của Xuân Diệu, khẳng định ngay rằng cái đ iều tưởng như “chơi vơi”, 4 tưởng như “trẻ con học nói, hay người ngoại quốc võ vẽ tiếng Nam, câu văn tuồng bỡ ngỡ” lại chính là chỗ “Xuân Diệu hơn người”. Sở dĩ theo Hoài Thanh, đó là do “dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những điều sẵn có, ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn cũng phải lung lay” [11,116]. Tác giả Lưu Khánh Thơ cũng dành nhiều tâm huyết viết về Xuân Diệu trong rất nhiều các bài viết và công trình nghiên cứu của mình. Trong đó đáng ý chú là bài “ Xuân Diệu - một tài năng đa dạng” (in trong Xuân Diệu về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục 2003), tác giả đã đánh giá một cách khái quát, toàn diện về sự sáng tạo của Xuân Diệu trên suốt nửa thế kỷ, ngoài những nhận định về thơ, tiểu luận, phê bình, dịch thuật…Tác giả đã đưa ra những nhận xét về văn xuôi Xuân Diệu (Thời trước cách mạng 1945): “Đặc điểm nổi bật trong văn xuôi Xuân Diệu thời kỳ này là trữ tình lãng mạn. Những trang văn thật đẹp với những câu văn, những hình ảnh được trau chuốt, gọt giũa kĩ càng. Câu văn giàu nhạc điệu, không sa vào biền ngẫu, song lại luôn tạo được âm hưởng riêng. Chất thơ thẫm đẫm trên từng trang văn xuôi Xuân Diệu”. Và khẳng định âm hưởng chủ đạo trong truyện ngắn, bút kí Xuân Diệu là tấm lòng yêu tha thiết với cuộc sống và tình yêu; “bao trùm lên trang văn Xuân Diệu là niềm khao khát gắn bó với cuộc đời, là một tình yêu say đắm không giới hạn”[72,43]. Đồng thời, tác giả Lưu Khánh Thơ cũng đưa ra lời nhận định: “Trong văn xuôi trước Cách mạng, Xuân Diệu đã sớm hình thành một giọng điệu riêng, tinh tế, tự nhiên, mượt mà, pha chút buồn duyên dáng. Văn xuôi trong Phấn thông vàng và Trường ca dường như là sự nối dài, mở rộng những ý tưởng mà ông đã từng gửi gắm, từng nói đến trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Có thể dễ dàng tìm thấy trong văn xuôi những hình ảnh, những tư tưởng nghệ thuật mà Xuân Diệu đã nhiều lần nói tới trong thơ. Ở văn xuôi, với những đặc trưng riêng của thể loại, Xuân Diệu đã giãi bày được đầy đủ, rõ ràng và đậm nét hơn những quan niệm về tình yêu, con người và cuộc sống.” 5 Mã Giang Lân trong bài Sự đa dạng của Xuân Diệu cũng thống nhất về vẻ đẹp và chất thơ lai láng trong văn Xuân Diệu: “Văn Xuân Diệu cũng mang một hình thức hoàn mỹ và rất thơ” [72,38] Là một người quan tâm và nghiên cứu sâu sắc về Xuân Diệu, Trong Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đề cập tới toàn bộ văn xuôi của Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Ông nhận định: “Văn xuôi Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu gồm trong hai tập Phấn thông vàng và Trường ca. Phấn thông vàng là một tập tùy bút tâm tình (tác giả gọi là “truyện ý tưởng”). Xen vào đấy có một ít truyện ngắn: Người học trò tốt. Cái hỏa lò, Đứa ăn mày, Tỏa nhị kiều. Trường ca là áng văn thật đẹp, lời trau ý chuốt, chứa đầy thơ. Cả hai tác phẩm đều mang một đặc tính chung: Tính trữ tình “mà nội dung trữ tình khi thì sôi sục mãnh liệt…khi thì tha thiết vỗ về như ru lòng người trong tình thương mến” [72,98]. Về nghệ thuật văn xuôi Xuân Diệu, ông cho rằng văn xuôi Xuân Diệu có thể coi giống như những tứ thơ được chau chuốt công phu, cầu kì mà ở đó “kĩ thuật thơ còn giúp cho Xuân Diệu điểm xuyết trong những bài viết của mình những chi tiết, hình ảnh đẹp, vừa ngụ nhiều ý nghĩa vừa đầy chất thơ…[72,106]. Bởi “văn xuôi Xuân Diệu là văn xuôi của một người làm thơ, của một thi sĩ đầy kinh nghiệm” [72,104]. Nhìn chung, các tác giả đều đã đề cập ít nhiều đến mảng văn xuôi của Xuân Diệu và những đóng góp của ông đối với nền thơ ca trước và sau Cách mạng. Điều đó cho thấy cho thấy văn xuôi Xuân Diệu đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, đánh giá. Song, phần nhiều các nhà nghiên cứu mới đi vào một số khía cạnh nhất định trong mảng truyện ngắn của Xuân Diệu, còn thiếu một cái nhìn bao quát về phần đóng góp cũng có nhiều giá trị này của ông. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn có một cái nhìn có hệ thống và 6 đầy đủ hơn về mảng truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Qua đó có thể thấy được sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp sáng tạo của một tác gia lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. 3 Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu 3.1 Phạm vi - Toàn bộ truyện ngắn của Xuân Diệu qua: Tập truyện ngắn Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) cùng một số tác phẩm lẻ in trong Tuyển tập Xuân Diệu 2, Nxb Văn học Hà Nội 1987. - Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thơ, bút kí, phê bình tiểu luận của Xuân Diệu để hiểu rõ hơn tâm thế sáng tạo nhiều mặt của tác giả. - Tìm hiểu truyện ngắn trữ tình của một số nhà văn khác cùng thời trong cái nhìn so sánh, đối chiếu để làm nổi rõ những đặc điểm chung và riêng của Xuân Diệu. 3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu 3.2.1 Phƣơng pháp thống kê Chúng tôi sử dụng phương pháp này để xem xét các yếu tố về nghệ thuật trong sáng tác của Xuân Diệu từ đó làm nổi bật hơn những đóng góp của ông cho nghệ thuật dòng truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930-1945 3.2.2 Phƣơng pháp phân tích tổng hợp Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi tiến hành phân tích các truyện ngắn tiêu biểu của Xuân Diệu làm sáng tỏ những đặc điểm lớn có tính đặc trưng trong truyện ngắn trữ tình của ông, đồng thời làm rõ hơn những nét tiêu biểu của nội dung và hình thức nghệ thuật của các truyện ngắn. 3.2.3 Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu Để nhìn nhận rõ hơn về truyện ngắn Xuân Diệu có ý nghĩa và có đóng góp như thế nào cho dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu nhà văn Xuân Diệu và những sáng tác của ông với những tác 7 giả cùng thời như Thạch Lam, Thanh Tịnh…để thấy được rõ nét hơn nét đặc trưng trong truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu so với các tác giả cùng thời. 3.2.4 Phƣơng pháp lịch sử Nhìn nhận truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu trong quan hệ tương cận với lịch sử phát triển của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, trong việc nhìn nhận quá trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật của tác giả. Mặt khác những yếu tố liên quan đến cuộc đời và những trải nghiệm cuộc sống của Xuân Diệu cũng cần được quan tâm nhìn nhận phân tích để có thể thấy được sự ảnh hưởng của nó đến phong cách sáng tác của nhà văn. 4. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn được phân bố trong ba chương : - Chương 1 : Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945 và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu - Chương 2 : Truyện ngắn Xuân Diệu nhìn từ phương diện nội dung - Chương 3: Truyện ngắn Xuân Diệu nhìn từ một số phương diện nghệ thuật 8 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT NAM 1930-1945 VÀ CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA XUÂN DIỆU 1.1 Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945 1.1.1 Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn trữ tình 1.1.1.1 Quan niệm về truyện ngắn Truyện ngắn vốn là một thể loại phổ biến của nền văn học hiện đại. Đã từ lâu, quan niệm về “truyện ngắn” đã được đề cập đến trong nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Như theo Ruby V. Redinger trong Bách khoa toàn thư Mỹ (Encyclopedya American) xác định: “Truyện ngắn là một hình thức văn học, bản chất của nó bao hàm trong những từ làm thành phần cấu tạo nên tên gọi của nó. Với tư cách là một câu chuyện, nó kể lại một chuỗi sự kiện hoặc một biến có liên quan đến con người trong hoạt động thể chất hoặc tinh thần. Vì thế, giống mọi hình thức văn xuôi hư cấu khác, nó mô tả bằng ngôn ngữ, và hành động của nó phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp đạt được giữa người đọc và đối tượng miêu tả. Với tư cách là truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực hiện mối tiếp xúc trực tiếp này bởi các phương tiện phổ biến đối với tiểu thuyết, như là xây dựng nhân vật chậm rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại. Đặc biệt là nó phải miêu tả với độ nhanh nhạy và trọn vẹn giống như một tấm gương” [10,19]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi viết: “…truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống của tâm hồn con người…Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người…Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.” [24,37] 9 Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê (chủ biên) cho rằng: truyện ngắn là “ truyện bằng văn xuôi, có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật” [54,1034] ; trữ tình là: “ có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của con người, kể cả bản thân người nghệ sĩ, trước cuộc sống”. [54,1035] Nói tóm lại, dù đề cập đến như thế nào nhưng nhìn chung đã có những điểm thống nhất trong khái niệm của các nhà nghiên cứu được đề cập đến trong những điểm như sau: Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung truyện ngắn bao trùm gần hết các phương diện của cuộc sống con người và xã hội. Nét độc đáo của nó là ngắn. Nên cốt truyện của truyện ngắn thường giới hạn về thời gian, không gian. Nó thường là yếu tố để nhân vật trong truyện nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời, về con người. Kết cấu của truyện ngắn thường không nhiều tuyến, nhiều tầng mà thường được xây dựng theo hai chiều; liên tưởng và tương phản. Truyện ngắn thường có ít nhân vật và sự kiện phức tạp. Nhân vật truyện ngắn thường là hiện thân của một ý thức xã hội, một trạng thái tồn tại của con người hoặc một trạng thái quan hệ xã hội, ít khi tạo thành một thế giới hoàn chỉnh, một tính cách đầy đặn như trong tiểu thuyết, dù ít nhiều nó có mang những đặc tính của tư duy tiểu thuyết. Có lẽ vì thế mà truyện ngắn mang những đặc điểm thể tài riêng biệt, chỉ thực sự phát triển gắn với nền văn học hiện đại; gắn với sự xuất hiện và phát triển của báo chí. Yếu tố ngôn ngữ; lời kể và cách kể chuyện và chi tiết là một trong những yếu tố được đánh giá rất cao nhằm đem lại cho người viết truyện ngắn những điều mình mong muốn. 1.1.1.2.Quan niệm về truyện ngắn trữ tình Truyện ngắn trữ tình không phải là một cái tên xa lạ đối với những nhà nghiên cứu văn học và đối với bạn đọc. Mặc dù chưa có khái niệm chính thức 10 về “truyện ngắn trữ tình” song nó đã được các tác giả đề cập đến với những tên gọi, định nghĩa khác nhau. Truyện ngắn trữ tình cũng là tên gọi quen thuộc trong nhiều bài viết, công trình nghiên cứu bàn về vấn đề này. Có thể kể đến là: Truyện ngắn một số vấn đề nghề nghiệp – Vương Trí Nhàn ( Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, 1980), Về chất thơ trong truyện ngắn – Nguyễn Kiên ( 03/1996), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại – Bùi Việt Thắng ( Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000), Luận án tiến sĩ Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 : Thạch Lam – Thanh Tịnh – Hồ Dzếnh của Phạm Thị Thu Hương (1945), Luận án tiến sĩ Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại (Trên cơ sở tư liệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945) của Nguyễn Văn Đấu (2001)… Về thuật ngữ “trữ tình”, trong Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Nếu tự sự thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện lại một cách khách quan các hiện tượng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp thức của con người, nghĩa là con người tự thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh. Phương thức trữ tình cũng tái hiện các hiện tượng của đời sống, như trực tiếp miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục…nhưng sự tái hiện này không mang mục đích tự thân, mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng. Do đó nó thường không có cốt truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này và dung lượng của nó thường ngắn (vì một trạng thái tâm trạng không thể kéo dài)…”[24,373] Trong Từ điển Tiếng Việt viết về thuật ngữ “trữ tình”: “có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện ý nghĩa, xúc cảm, tâm trạng riêng của con người, kể cả bản thân người nghệ sĩ, trước cuộc sống.” Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã đề cập đến trong bài viết của mình về loại hình truyện ngắn trữ tình khi ông phân chia truyện ngắn thành hai dạng “Nhìn vào thực tế: có truyện có cốt truyện thật đầy đủ, các khâu thắt nút, cao 11 trào, mở nút. Ngược lại, có truyện gần như thơ, rất khó tóm tắt được cốt truyện” [43,147]. “…Nhưng có một tiêu chuẩn nữa đáng chú ý hơn, tạo nên hai cực của truyện ngắn – như Antônốp mệnh danh. Một, đó là loại truyện kể về một trường hợp đặc biệt nào đó, và một loại kể về những sự kiện đơn giản, bình thường”, loại truyện thứ hai “xuất hiện muộn hơn, khi mà yêu cầu đặt ra đối với văn học không phải chỉ là việc miêu tả những cái kì dị, lạ lùng, mà cả những cái bình thường” [43,148]. Tác giả cũng khẳng định “một xu hướng của truyện ngắn hiện đại là đi vào tâm lý, dựng lên những “ca” tâm lý gây ấn tượng mạnh mẽ - lối viết này vẫn bị buộc tội là lảng tránh cốt truyện, tuy xét về một mặt nào đó, đây là một sự lảng tránh cần thiết, mà cũng là cách lảng tránh thông minh bậc nhất [43,149]. Như vậy, Vương Trí Nhàn đã nêu ra những nét khác biệt giữa truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn truyền thống (truyện có cốt truyện nổi bật). Ông đã chỉ ra rằng truyện ngắn trữ tình là một xu hướng phát triển của truyện ngắn hiện đại: “Thêm nhiều truyện ngắn trữ tình, bên cạnh những truyện ngắn có cốt truyện sắc nhọn như đã quen biết” [43,154]. Đồng thời, ông nhấn mạnh đó là “loại truyện ngắn gần với thơ, chỉ cốt tạo ấn tượng, ngoài ra không quan tâm gì tới nhân vật, cốt truyện gì hết” [43,150]. Năm 1996, Nguyễn Kiên cũng có những lời bàn gián tiếp về truyện ngắn trữ tình trong bài Về chất thơ trong truyện ngắn. Sau khi khẳng định: “Sự thâm nhập của thơ vào truyện ngắn là một yếu tố tự nhiên, gây kích thích, thuộc quy luật vận động nội tại của nghệ thuật”, nhà văn đã nhắc đến loại truyện ngắn “Từ ý tưởng nghệ thuật đến giọng điệu, hơi văn…đều hòa hợp và cùng mang cái phẩm chất trữ tình gần với thơ” [33,297]. Tác giả bài viết nhận thấy “truyện ngắn hiện đại gần với thơ, vì trong sự phá cách của nó, nó sử dụng những thao tác nghề nghiệp gần gũi với cách tư duy nghệ thuật của thơ”[33,300]. Một công trình nghiên cứu tương đối công phu và quy mô truyện ngắn từ định nghĩa, nguồn gốc, đặc trưng thể loại, sự phát triển…đến các kiểu truyện ngắn đáng ghi nhận là cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại của Bùi Việt Thắng. Trong công trình nghiên cứu này, tác 12 giả sau khi chia truyện ngắn thành năm loại hình cơ bản đã đi vào một số nét khái quát của từng loại hình, chú ý là phần viết về truyện ngắn trữ tình mà tác giả gọi là “truyện ngắn tâm tình”, ông gọi và cho rằng: “Truyện ngắn tâm tình là truyện ngắn thiên về tính trữ tình, gần với thơ, trong truyện ta cảm nhận được tâm thức hoặc nhân cách nhân vật hơn là ý nghĩa của câu truyện” [65,136], hay “ Truyện – tâm tình còn được gọi là truyện ngắn gần với thơ vì trong đó có sự phối hợp giữa sự diễn tả cảm xúc trữ tình với kể chuyện” Truyện ngắn trong bản chất của nó là một thể loại tự sự - trữ tình cô đúc, ý ngoài chữ, tạo ấn tượng và liên tưởng [65,138]… “Trong kiểu truyện ngắn – tâm tình, sự cảm thụ thiên nhiên trong toàn bộ các giác quan là một đặc điểm trong cách miêu tả của nhà văn” [65,140]. Tác giả Bùi Việt Thắng cũng nêu lên những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn tâm tình là tính tự sự giảm dần, tính trữ tình tăng lên “Tính phi cốt truyện: truyện ngắn trữ tình không kể lại được vì cốt truyện không tiêu biểu, nếu có thì đó lại là cốt truyện bên trong – tức cốt truyện tâm lý diễn tả những tâm trạng điển hình của nhân vật…Cấu trúc của truyện rất lỏng lẻo – sự lỏng lẻo cố ý để làm cho truyện co dãn linh hoạt phù hợp vớ việc thể hiện các sắc thái tâm lý, tình cảm của con người” [65,136-137]. Nhà văn Nguyễn Minh Châu lại lý giải về bản chất của loại truyện này: “Có những người viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến bên ngoài, hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên ngoài, vào cái mà nhân vật thu nhận được ở bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại, bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện ngắn mà ta thường gọi là truyện không có cốt truyện. Chẳng qua chỉ là một thủ đoạn văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp tiếp xúc với người đọc” [65,138]. Ngoài những bài viết, những công trình nghiên cứu vừa nêu còn có những luận án, luận văn, khóa luận đề cập tới truyện ngắn trữ tình. Đầu tiên phải kể đến luận án của tiến sĩ Phạm Thị Thu Hương: Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (Thạch Lam – 13 Thanh Tịnh – Hồ Dzếnh). Tuy mục tiêu của luận án tập trung vào nghiên cứu phong cách sáng tác của ba nhà văn nhưng trong quá trình tiến hành đề tài, tác giả đã nêu lên được những ý kiến có giá trị về loại hình truyện ngắn trữ tình: “Trong tác phẩm trữ tình, yếu tố chủ quan của nhà văn bao giờ cũng rất đậm nét, và nó được thể hiện ở tất cả các phương diện nghệ thuật: Dù tả cảnh, tả ngoại hình nhân vật hay tả nội tâm nhân vật…Truyện ngắn trữ tình thường không có cốt truyện. Nó có kết cấu gần với câu thơ trữ tình. Truyện ngắn trữ tình thường đi sâu miêu tả một cách tinh tế những phản ứng của tâm thức đối với “kinh nghiệm sống” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ý nghĩa của truyện thường gắn với không khí, tâm trạng…bàng bạc trong tác phẩm” [27,7]. Theo tác giả luận án, “Truyện ngắn trữ tình đã đưa vào văn xuôi nghệ thuật Việt Nam một chất thơ man mác, bàng bạc rất riêng. Truyện ngắn trữ tình mang lại cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, sau những trang viết tràn trề hiện thực của các nhà văn hiện thực”. Năm 2001, với luận án “Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại (Trên cơ sở cứ liệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945)” tiến sĩ Nguyễn Văn Đấu đã chứng minh được có ba loại hình truyện ngắn hiện đại cơ bản là: “Truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn – trữ tình hóa, truyện ngắn – tiểu thuyết hóa”. Trong chương viết về truyện ngắn – trữ tình hóa, người viết đã phát hiện nhiều điểm độc đáo trong tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật của loại hình truyện ngắn này. Theo luận án “Truyện ngắn – trữ tình hóa về cơ bản không phải là truyện về quan hệ xã hội, truyện về cuộc đời cùng với những sự thay đổi khôn lường của nó. Nó là truyện về thế giới đời sống đã được nội cảm hóa đậm nét, là truyện tâm hồn, tình cảm, truyện về sự giác ngộ, thức tỉnh niềm vui, nỗi buồn của con người trước cuộc sống…Chức năng chủ yếu của cốt truyện là thể hiện trạng thái tâm tưởng của con người trước đời sống” [17,107]. Sự kiện nội tâm là chất liệu cơ bản của truyện: “Ở truyện ngắn – trữ tình hóa, sự kiện hành động thường chỉ giống như cái mắc áo để sự kiện nội tâm như chiếc áo trùm lên” [17,113]. Xét về cấu trúc – chức năng, nhân vật văn học có bốn loại nhưng “loại nhân vật tiêu 14 biểu của truyện ngắn – trữ tình hóa thường là nhân vật loại hình và nhân vật tư tưởng. Qua nhân vật, các cây bút trữ tình chủ yếu không nhằm khái quát tính cách, khái quát bản chất xã hội – lịch sử của con người mà nhằm bộc lộ một tư tưởng có ý nghĩa nhân sinh sâu rộng” [17,121]. “Chi tiết nội tâm là chất liệu chủ yếu trong xây dựng nhân vật” [17,126]. Trần thuật trong truyện ngắn – trữ tình hóa có “Chức năng cơ bản là chức năng gợi cảm” [17,135]. Như vậy, có thể coi đây là công trình đầu tiên có nhiều đề xuất mới mẻ, có những nhận định về đặc trưng loại hình truyện ngắn trữ tình khá sâu sắc. Khi tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn trữ tình, Nguyễn Thị Duyên cho rằng đối tượng của truyện ngắn trữ tình là “thiên nhiên gợi cảm xúc, cảm giác nhẹ nhàng” [16,10] và “con người với cảm xúc, tâm tư biến chuyển nhẹ nhàng” [16,15]. Trong truyện ngắn trữ tình, “cốt truyện không có nhiệm vụ tạo kịch tính, gây căng thẳng. Cốt truyện trong truyện ngắn trữ tình không tái hiện các xung đột xã hội, mà hướng tới tạo ra các tình huống khơi gợi trạng thái tâm tưởng, cảm xúc, suy tư của con người. Hướng tới nhiệm vụ như vậy nên truyện ngắn trữ tình thường tạo nên những cốt truyện giảm nhẹ kịch tính, những truyện dường như “không có chuyện” và sử dụng cốt truyện tâm lý”. Theo tác giả, truyện ngắn trữ tình có ba kiểu kết cấu thường gặp là: kết cấu hồi tưởng, kết cấu cảnh tình tương ứng, kết cấu lắp ghép. Về trần thuật, “Truyện ngắn trữ tình khá tiêu biểu cho loại truyện để đọc – tức là chỉ thấy thú vị khi đọc, còn khi kể thì sự hấp dẫn của nó không còn nữa” [17,36], điểm nhìn trần thuật mang đậm dấu ấn chủ quan, nhịp điệu trần thuật khoan thai, giọng điệu trần thuật sâu lắng thiết tha và biểu cảm… Như vậy, qua các công trình nghiên cứu, ta đã có thể xác định đặc trưng của truyện ngắn trữ tình và bước đầu khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng của loại hình truyện ngắn này trong lịch sử phát triển truyện ngắn nói riêng và các thể tài văn học nói chung. Song, qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận thấy: Thứ nhất, không phải mọi truyện ngắn trữ tình đều có chất thơ và cũng không phải chỉ riêng truyện ngắn trữ tình mới có chất thơ. Thực tế, nhiều 15 truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn – tiểu thuyết hóa thấm đẫm chất thơ (Chẳng hạn, truyện ngắn của Nam Cao). Trong khi đó, một số truyện ngắn trữ tình hiện thực lại không hề có chất thơ. Ví như truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp tạo nhiều sức gợi, có trữ tình nhưng không có chất thơ. Kết luận chất thơ chỉ phù hợp với truyện ngắn trữ tình lãng mạn. Thứ hai, vấn đề có cốt truyện hay không có cốt truyện (hiểu theo quan niệm truyền thống) phụ thuộc vào phong cách sáng tác của nhà văn. Chẳng hạn, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao thích tạo dựng những cốt truyện sắc nhọn còn Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu lại không lựa chọn kiểu cốt truyện đó. Nhưng đặc điểm cấu trúc của truyện ngắn trữ tình không nằm ở các thành phần mà nó có, không hề phụ thuộc vào việc nó có cái này mà thiếu cái kia. Đặc điểm cấu trúc của nó nằm ở khuynh hướng giải cấu trúc, tái cấu trúc các hình thức thể loại truyền thống. Do những hạn chế trong nghiên cứu, nhiều tác phẩm truyện ngắn trữ tình chưa hoàn toàn được lý giải đúng đắn. Nhược điểm này thể hiện rõ nét trong những công trình phân tích sáng tác của những nhà văn cụ thể như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. Chẳng hạn, Vũ Ngọc Phan đã từng cho rằng truyện của Thạch Lam “ Nhiều truyện không được đậm đà, làm cho người đọc dễ chán”, Thạch Lam “cố ý làm cho đơn giản, đơn giản cả về văn lẫn cốt truyện, nên làm mất cả hứng thú” [11,49]…Hay như Vũ Ngọc Phan cho rằng văn xuôi Xuân Diệu rất chú trọng vào việc phô diễn ý nghĩ và tình cảm con người nên không quá chú ý đến lời, bởi thế, bất luận là lời thanh hay lời thô ông đều không đắn đo khi sử dụng, miễn sao nói được hết ý nghĩ và tình cảm của mình: “Có lẽ Xuân Diệu chú trọng về ý nghĩ về tình cảm thái quá nên không nghĩ đến sự lựa lời, dùng chữ [11,209]. Tuy nhiên, những nhận xét này không hoàn toàn chính xác. Vì thế, hiểu đúng cấu trúc thể loại truyện ngắn trữ tình chính là khẳng định giá trị nghệ thuật đích thực của các tác phẩm này, đồng thời khẳng định được tài năng, sáng tạo độc đáo của các nhà văn. 16 Dẫu sao khám phá của những người đi trước cũng trở thành cơ sở, gợi ý cho chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về thể loại này cũng như làm sáng rõ những nét tiêu biểu và đặc trưng của truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. 1.1.2 Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại 1.1.2.1 Vị trí, đặc trưng của dòng truyện ngắn trữ tình Truyện ngắn hiện đại nói chung và truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng đã phát triển thành nhiều dòng, nhiều khuynh hướng văn học. Khảo sát về truyện ngắn giai đoạn này ta thấy có ba khuynh hướng (loại hình) văn học tiêu biểu mà tên gọi chung của chúng chỉ có ý nghĩa tương đối đã được các nhà nghiên cứu định danh, đó là: truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn – trữ tình hóa và truyện ngắn tiểu thuyểt hóa. Trong đó, truyện ngắn – kịch hóa, là tác phẩm tự sự kể lại câu chuyện mà nòng cốt là một hành động của nhân vật đang tự diễn ra trong môi trường xung đột giàu kịch tính. Đại diện tiêu biểu là Nguyễn Công Hoan. Khuynh hướng thứ hai là truyện ngắn – tiểu thuyết hóa, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ nhưng có cấu trúc “phức hợp”. Truyện thường tập trung vào việc phân tích, lý giải quá trình đời sống, tính cách và thân phận con người. Đại diện là Nam Cao. Và khuynh hướng thứ ba là truyện ngắn – trữ tình hóa, là tác phẩm tự sự thuật lại một câu chuyện để tạo ra ấn tượng về thế giới đang tồn tại trong tâm tưởng con người. Đại diện cho khuynh hướng này là những tên tuổi đã từng được định danh như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh… Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930 – 1945, tìm hiểu những đặc trưng của nó rồi soi vào tác phẩm cụ thể, đặc biệt là qua sáng tác của Xuân Diệu để làm rõ văn xuôi của ông trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. 17 Về vị trí của dòng truyện ngắn trữ tình, chúng tôi đồng tình với ý kiến của Ts Phạm Thị Thu Hương khi đưa ra nhận định rất đúng đắn: “Nếu xét trong lịch sử của dòng truyện ngắn trữ tình thì có thể nhận thấy nó chỉ thực sự phát triển khi văn chương Tự Lực văn đoàn và thơ của phong trào Thơ mới đạt đến những thành tựu rực rỡ. Phần lớn truyện ngắn trữ tình thường xuất hiện sau 1936, và từ 1936 – 1945 truyện ngắn trữ tình mới thực sự trở thành một dòng với số lượng tác giả, tác phẩm đáng kể và trong phong cách đã có sự định hình” [27,160]. Về đóng góp đặc sắc của dòng truyện ngắn trữ tình, theo tác giả luận án “Truyện ngắn trữ tình đã đưa vào văn xuôi nghệ thuật Việt Nam một chất thơ man mác, bàng bạc rất riêng. Truyện ngắn trữ tình mang lại cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng sau những tràn trề hiện thực của các nhà văn hiện thực” [27] Như vậy có thể thấy, văn chương của Tự lực văn đoàn và Thơ Mới đạt đến những thành tựu rực rỡ đã tạo đà cho truyện ngắn trữ tình phát triển mà tác giả tiêu biểu nhất cho dòng truyện này chính là Thạch Lam. Từ đó có thể nhìn nhận mạch truyện này khởi nguồn và đạt được những thành tựu đặc sắc trong giai đoạn 1930-1945 Đến giai đoạn 1945-1955, truyện ngắn trữ tình có phần chững lại do giai đoạn này truyện ngắn theo phong cách sử thi và thể loại kí phát triển mạnh hơn.Từ 1955-1975 và những năm tám mươi của thế kỉ XX, thể loại truyện ngắn nghiêng sang truyện ngắn thơ. Cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, thể loại truyện ngắn nói chung và dòng truyện ngắn trữ tình có xu hướng phát triển mạnh trở lại với những tên tuổi như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bản, Linh Vang, Mai Linh và đặc biệt là cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Nói tóm lại, dòng truyện ngắn trữ tình ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình trong dòng truyện ngắn Việt Nam nói riêng và làm phong phú thêm các thể loại văn học nói chung. Chỗ đứng của truyện ngắn trữ tình đang ngày càng củng cố trong lòng bạn đọc. 18 Như ở trên đã nói, các công trình nghiên cứu đã chứng minh trong văn học Việt Nam có ba khuynh hướng truyện ngắn tiêu biểu. Điều này cho thấy dòng truyện ngắn trữ tình có một vị trí ngang bằng và độc lập với các dòng truyện ngắn khác. Với những đóng góp không nhỏ, truyện ngắn trữ tình có một vị trí quan trọng trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam hiện đại và tạo nên sự đa diện cho bộ mặt văn học dân tộc. Tuy các công trình có những cách tiếp cận, lý giải khác nhau nhưng chúng tôi thấy vẫn có sự thống nhất trong việc nêu lên những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn trữ tình với đặc trưng nổi bật như: - Truyện ngắn trữ tình gần với thơ, mang đậm chất thơ. - Truyện ngắn trữ tình, tính chủ quan của người nghệ sỹ sáng tạo cũng được thể hiện tương đối đậm nét. - Về bút pháp nghệ thuật: hướng nội, tuân theo nguyên tắc miêu tả và xây dựng nhân vật, thường chú trọng miêu tả đời sống bên trong – thế giới nội tâm, đặc biệt là thế giới của cảm xúc, cảm giác với những rung động tinh vi nhất - Nhân vật truyện ngắn trữ tình thường không được tập trung khắc họa thành những tính cách điển hình mà chủ yếu được khám phá, tái hiện thế giới nội tâm với những cảm giác. - Về cốt truyện: Truyện ngắn trữ tình thường phi cốt truyện hoặc chỉ có cốt truyện tâm lý giàu sức gợi. - Kiểu kết cấu truyện: theo nguyên tắc đối lập (ánh sáng – bóng tối, buồn – vui, quá khứ - hiện đại, làng (nông thôn) – phố (thành thị), ấm – lạnh…) có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình. - Ngôn ngữ: câu văn mượt mà, giàu hình ảnh, đậm chất nhạc, chất thơ. Với những đặc trưng nổi bật như trên, chúng ta có thể thấy với sự góp mặt của mình, dòng truyện ngắn trữ tình đã tự tạo ra dòng chảy riêng của mình và làm phong phú thêm cho thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam, 19 đồng thời đóng góp những gương mặt tiêu biểu, các nhà văn tài năng cho nền văn học dân tộc. 1.1.2.2 Một vài gương mặt tiêu biểu tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945 Thạch Lam : Thạch Lam (sinh năm 1910, mất năm 1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân là người khởi xướng một cách không chính thức đồng thời cũng là đại điện tiêu biểu của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Truyện của Thạch Lam đem đến cho văn xuôi đương thời một cách cảm thụ tinh vi, bình dị, mới mẻ, đầy khám phá đối với thế giới nội tâm của con người. Ông đặc biệt tinh tế khi phát hiện, phân tích những biến thái nhỏ nhất của tâm hồn. Thạch Lam thường khai thác chất thơ trong đời sống hằng ngày. Ông quan tâm, phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú của nhân vật hơn là những biến cố, sự kiện bề ngoài hay những xung đột giàu kịch tính. Truyện của ông thường mang yếu tố phi cốt truyện, loại truyện không có truyện. Hai đứa trẻ không hề có hàng động phát triển xung đột, mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí. Nó chỉ là câu chuyện kể lại cái cảnh hai chị em ngồi trong một ngôi hàng tạp hoá nghèo nàn trong một buổi tối như bao buổi tối khác. Buổi tối – bầu trời và những liên tưởng, những kỉ niệm. Ở đây, người đọc không chỉ cảm nhận được tâm hồn đầy lãng mạn với những ước mơ đẹp đẽ của hai đứa bé nghèo ở một cái gác xép nhỏ mà còn cảm thấy hồn quê hương, đất nước toả ra từ cái không gian thanh bình thấm đẫm chất thơ của những buổi chiều “ êm như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, những buổi tối có “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào những cành cây” và những đêm mùa hạ êm ả như nhung và thoảng qua gió mát”… Sở trường của Thạch Lam trong truyện ngắn là đưa ra một biến thái về tâm hồn, một chuyển hướng tâm lý. Từ buồn ra vui, từ giận ra thương, từ lãnh đạm ra tha thiết, từ yêu ra ghét, hay ngược lại. Một anh chàng ăn chơi trác táng về nhà khuya mệt mỏi chán 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan