Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Một số giải pháp dạy biện pháp nhân hóa trong phân môn luyện từ và câu trên địa ...

Tài liệu Một số giải pháp dạy biện pháp nhân hóa trong phân môn luyện từ và câu trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc.

.DOCX
15
4
147

Mô tả:

Một số giải pháp dạy biện pháp nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên. 1. Tác giả sáng kiến: Bùi Thị Xuân - Ngày tháng năm sinh: 06/3/1976 Nam, nữ: Nữ - Đơn vị công tác (hoặc hộ khẩu thường trú): Trường tiểu học Phú Xuân Bình Xuyên – Vĩnh Phúc - Chức danh; Phó hiệu trưởng - Trình độ chuyên môn; Đại học - Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng tác giả, nếu có): 100% 2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Bùi Thị Xuân 3. Tên sáng kiến: lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các thông tin cần được bảo mật (nếu có): - Tên sáng kiến: Một số giải pháp dạy biện pháp nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. - Lĩnh vực áp dụng: Sáng kiến được áp dụng dạy cho học sinh tiểu học ở lớp 3 trong tất cả các trường tiểu học để giải quyết việc học sinh có nhận thức chưa tốt về biện pháp tu từ nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu. - Mô tả sáng kiến: + Về nội dung của sáng kiến: Tiếng Việt trong chương trình tiểu học là môn học chiếm vị trí quan trọng, ngoài việc cung cấp các kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ nó còn nhằm trang bị cho học sinh một hệ thống các kĩ năng hoạt động giao tiếp bằng Tiếng Việt, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và khả năng giao tiếp.Thông qua môn Tiếng Việt rèn cho học sinh năng lực tư duy, khả năng quan sát, óc tưởng tượng, óc thẩm mỹ...Giáo dục cho học sinh những tư tưởng đạo đức trong sáng, lành mạnh. Tất cả các kỹ năng đó đều được cụ thể hoá trong từng phân môn của tiếng Việt. Trong đó biện pháp tu từ nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu góp phần không nhỏ làm nên điều này. Tuy nhiên nội dung dạy học biện pháp tu từ nhân hóa còn gặp nhiều những vướng mắc lúng túng ở cả giáo viên và học sinh. Vậy làm thế nào để việc dạy và học có hiệu quả, học sinh hứng thú học tập, học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp khi sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Qua thực tiễn làm công tác giảng dạy môn Luyện từ và câu nói chung và phần kiến thức về biện pháp nhân hóa nói riêng đạt hiệu quả, tôi đã tư duy, nghiên cứu đưa ra “Một số giải pháp dạy biện pháp nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.” với mong muốn nâng cao chất lượng dạy và học trong phân môn Luyện từ và câu ở nội dung kiến thức về biện pháp tu từ nhân hóa. Trong chương trình sách giáo khoa, có rất nhiều các bài tập có sử dụng rất nhiều biện pháp nhân hóa. Đòi hỏi học sinh nhận biết được các sự vật được nhân hóa, hiểu được tác dụng của biện pháp nhân hóa, vận dụng để đặt câu, viết văn cho hay. Nhờ có nhân hóa mà các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự sinh động của thế giới xung quanh ta. Để giúp học sinh nhận biết và phân tích hiệu quả sử dụng biện pháp nhân hóa một cách nhanh chóng, chính xác thì giáo viên phải có biện pháp cụ thể. Qua thực tiễn làm công tác giảng dạy, để khắc phục tình trạng học sinh còn nhận thức chưa cao về biện pháp tư từ nhân hóa và để học sinh có thể nắm chắc, nhận biết và sử dụng tốt biện pháp tư từ nhân hóa trong phân môn Tiếng Việt . Tôi đã vận dụng một số giải pháp sau: Giải pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc, hiểu rõ thế nào là nhân hóa. Có thể nói đây là mấu chốt quan trọng để học sinh hiểu được bản chất của nhân hóa là gì. Khi học sinh hiểu được chắc lý thuyết thì việc vận dụng làm bài tập là rất dễ dàng, vì vậy làm cho học sinh nắm chắc hiểu rõ khái niệm nhân hóa có thể nói là một bước rất quan trọng. Vì vậy giáo viên cần cung cấp cho các em hiểu rõ thế nào là nhân hóa. Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, … bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật, … trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.Có ba kiểu nhân hóa thường gặp là: + Dùng những từ ngữ vốn gọi người để gọi vật + Dùng những từ ngữ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động, tính chất của vật + Trò chuyện xưng hô với vật như đối với con người Giải pháp 2: Nắm vững các cách nhân hóa trong chương trình. Đây cũng là bước quan trọng, vì khi nắm chắc được các cách nhân hóa thường gặp học sinh sẽ dễ dàng làm tốt các bài tập.Giáo viên sẽ cho học sinh nắm bắt được có các cách nhân hóa sau đó cho học sinh tự lấy ví dụ minh họa để khắc sâu các cách nhân hóa thường gặp cho học sinh. a. Nhận biết nhân hóa theo cách dùng những từ gọi sự vật bằng những từ dùng để gọi người. -Trước hết giáo viên cho học sinh tập hợp những danh từ chỉ quan hệ thân thuộc của con người như: ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, thím, cậu, mợ,… - Giáo viên hướng dẫn học sinh những danh từ chỉ quan hệ thân thuộc của con người trong nhóm trên khi đi với một danh từ chỉ , con vật, đồ vật, sự vật tự nhiên thì con vật, đồ vật, sự vật tự nhiên đó đã được nhân hóa. Ví dụ: ông trời, bà mưa, chị gió, anh đom đóm, cô cò, thím vạc, bạn bút chì, em búp bê, … Trời, mưa, gió, … trong những cách dùng trên đã được nhân hóa . - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài tập đọc và tìm các hình ảnh nhân hóa trong bài theo cách mà giáo viên đã hướng dẫn. Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện và phân tích hiệu quả sử dụng biện pháp nhân hóa trong đoạn thơ sau: Mặt trời gác núi Bóng tối lan dần Anh Đóm chuyên cần Lên đèn đi gác. Theo làn gió mát Đóm đi rất êm Đi suốt một đêm Lo cho người ngủ. Tiếng chị Cò Bợ: “Ru hỡi! Ru hời! Hỡi bé tôi ơi Ngủ cho ngon giấc”. Ngoài sông thím Vạc Lặng lẽ mò tôm Bên cạnh sao Hôm Long lanh đáy nước. (Anh Đom Đóm – Võ Quảng – TV3, Tập 1 trang 143) - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn thơ trên. - Giáo viên hỏi học sinh : Trong đoạn thơ trên có những từ nào vốn được dùng để chỉ quan hệ thân thuộc của con người? Học sinh trả lời : Trong đoạn thơ trên những từ vốn được dùng để chỉ quan hệ thân thuộc của con người là anh, chị, thím. - Giáo viên hỏi học sinh : Các từ anh, chị, thím được dùng để gọi tên con vật nào? Học sinh : Các từ anh, chị, thím được dùng để gọi tên các con vật sau : Đom đóm, Cò Bợ, Vạc. Giáo viên hỏi cách dùng các từ đó giúp em hình dung về các con vật được miêu tả như thế nào? Vì sao em có sự hình dung đó ? Học sinh : Cách dùng các từ đó giúp em tưởng tượng các con vật như con người bởi các con vật đó đã được nhân hóa. b. Nhận biết nhân hóa theo cách dùng những từ ngữ tả sự vật bằng những từ ngữ tả người. - Trước hết giáo viên cho học sinh tập hợp những động từ chỉ hoạt động của con người, tập hợp những tính từ chỉ tính chất, trạng thái của con người. Những động từ chỉ hoạt động của con người như: suy nghĩ, học tập, phát minh, hát, múa, cười,… Những tính từ chỉ tính chất của con người như: cao, thấp, xinh, đẹp, xấu, hiền lành, đanh đá, thông minh,… Những tính từ chỉ trạng thái của con người như: buồn, vui, ngẩn ngơ, xao xuyến, bồi hồi, e ấp,… - Giáo hướng dẫn học sinh những từ chỉ hoạt động, tính chất, trạng thái của con người được gắn cho đối tượng không phải là người thì đối tượng đó đã được nhân hóa. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài tập đọc và tìm các hình ảnh nhân hóa trong bài theo cách mà giáo viên đã hướng dẫn. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc các hình ảnh nhân hóa đó. - Giáo viên hướng dẫn học sinh chọn hình ảnh nhân hóa mà em thích nhất và nêu cảm nhận của em về hình ảnh đó. + Em thích hình ảnh nào nhất trong bài thơ? + Cách sử dụng biện pháp nhân hóa đã giúp em cảm nhận được gì về nội dung, ý nghĩa đẹp đẽ của bài thơ? Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện và phân tích hiệu quả sử dụng biện pháp nhân hóa trong đoạn thơ sau: Trời thu bận xanh Sông Hồng bận chảy Cái xe bận chạy Lịch bận tính ngày Con chim bận bay Cái hoa bận đỏ Cờ bận vẫy gió Chữ bận thành thơ Hạt bận vào mùa Than bận làm lửa… ( Bận – Trinh Đường – TV3 , tập 1, trang 59 ) - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn thơ trên. - Giáo viên hỏi học sinh : Trong đoạn thơ trên, những từ ngữ chỉ hoạt động, tính chất, trạng thái của con người? Học sinh : Trong đoạn thơ trên, những từ ngữ chỉ hoạt động, tính chất, trạng thái của con người là: bận , tính, vẫy, vào, làm. - Giáo viên hỏi học sinh : Các từ bận, tính, vẫy, vào, làm được dùng để miêu tả hoạt động, tính chất, trạng thái của đối tượng nào? Học sinh: Các từ đó được dùng để miêu tả hoạt động, tính chất, trạng thái của trời thu, sông Hồng, cái xe, lịch, con chim, cái hoa, cờ, chữ, hạt, than. - Giáo viên hỏi học sinh: Cách dùng các từ bận, tính, vẫy, và, làm đã giúp em hình dung về các đối tượng vừa liệt kê như thế nào? Vì sao em có sự hình dung đó? Học sinh: Cách dùng những từ đó giúp em tưởng tượng những sự vật vừa liệt kê là những con người đang mải mê làm việc bởi các sự vật đó đã được nhân hóa. c. Nhận biết nhân hóa theo cách dùng các từ ngữ biểu thị ý nghĩa để nói với sự vật thân mật như nói với người. - Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh những từ con người dùng để tâm tình, trò chuyện với nhau như : ơi, hỡi,ôi, … - Giáo viên hướng dẫn học sinh những từ biểu cảm trên dùng để nói với các sự vật, con vật, đồ vật thì chúng đã được nhân hóa . - Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm nhận về giá trị của biện pháp nhân hóa trong bài thơ. Ví dụ : Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện và phân tích hiệu quả sử dụng biện pháp nhân hóa trong đoạn thơ sau: Rừng cọ ơi! Rừng cọ! Lá đẹp lá ngời ngời ! Tôi yêu thường vẫn gọi Mặt trời xanh của tôi. (Mặt trời xanh của tôi- Nguyễn Viết Bình- TV 3- tập 2 trang 126) Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn thơ trên. - Giáo viên hỏi : Trong đoạn thơ trên nhà thơ đã gọi rừng cọ bằng những từ ngữ nào? Học sinh : Nhà thơ gọi rừng cọ bằng từ ơi, mặt trời xanh của tôi. - Giáo viên hỏi : Những từ ngữ ấy được dùng để nói với ai ? Học sinh : Những từ ngữ ấy vốn được dùng để nói với con người. - Giáo viên nói : Rừng cọ đã được tác giả gọi như một người bạn, được yêu quý, được gọi là “ Mặt trời xanh của tôi”. Giải pháp 3: Nắm chắc các dạng bài tập về biện pháp nhân hóa. Đây là bước quan trọng vì mỗi dạng bài tập có các yêu cầu, cách làm và trình bày khác nhau. Nếu học sinh nhận biết chắc từng dạng bài tập thì các em sẽ dễ dàng làm được bài tập và trình bày một cách ngắn gọn, xúc tích, đủ ý, đúng yêu cầu của bài. a. Dạng bài tập nhận biết biện pháp nhân hóa. Dạng bài tập này thường là nêu nội dung qua các đoạn văn, câu thơ, câu văn... trong đó có sử dụng biện pháp nhân hóa. Dạng bài tập này sẽ cho học sinh hiểu được nhân hóa là gì. Dạng bài tập này có thể chia nhỏ thành các dạng sau: * Dạng bài tập: Tìm sự vật nhân hóa: Ví dụ: Bài tập 1( Luyện từ và câu ở tuần 19) Tiếng việt 3 tập II Đọc hai khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi: Mặt trời gác núi Bóng tối lan dần Anh Đóm chuyên cần Lên đèn đi gác. Theo làn gió mát Đóm đi rất êm Đi suốt một đêm Lo cho người ngủ. Võ Quảng a. Con đom đóm được gọi bằng gì? b. Tính nết và hoạt động của con đom đóm được tả bằng những từ ngữ nào? Đây là kiểu bài bước đầu giúp học sinh nắm được cấu trúc của biện pháp nhân hóa. Với yêu cầu tìm sự vật nhân hóa học sinh sẽ biết được sự vật đưa ra để nhân hóa nó rất gần gùi, quen thuộc với cuộc sống của các em, giúp các em dễ tưởng tưởng ra hình ảnh của chúng. Với kiểu bài tập này đây là bước quan trọng giúp học sinh xác định được các sự vật được nhân hóa trong các câu thơ, câu văn. * Dạng bài tập tìm từ ngữ thể hiện biện pháp nhân hóa trong các đoạn văn, đoạn thơ. - Trong cuộc sống hàng ngày để những sự vật gần gũi với con người chúng ta thường dùng từ nhân hóa, gọi những đồ vật, sự vật, con vật bằng những từ thân mật như: bác ( Bác đồng hồ), chị ( chị chổi), anh ( anh kim phút), cô ( cô gió)...Dùng những từ vốn gọi người để gọi sự vật. Ví dụ: Buổi sáng nhà em Ông trời nổi lửa đằng đông Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay Bố em xách điếu đi cày Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau Cậu mèo đã dậy từ lâu Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng Mụ gà cục tác như điên Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi. Cái na đã mở mắt rồi Đàn chuối đứng vỗ tay cười vui sao. Trần Đăng Khoa - Trong bài thơ trên , những sự vật nào được nhân hóa? Chúng nhân hóa bằng cách nào? Ở dạng bài tập này học sinh sẽ biết được: trời ( gọi bằng ông), cái sân ( gọi bằng bà), mèo ( gọi bằng cậu), gà ( gọi bằng mụ), gà trống ( gọi bằng thằng), na ( gọi bằng cái). * Dạng bài tập phân tích cái hay, cái đẹp khi sử dụng biện pháp nhân hóa. Đây là dạng bài tập kích thích sự tưởng tượng và óc sáng tạo của học sinh. Các em sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp khi sử dụng biện pháp tư từ nhân hóa trong các câu thơ, câu văn. Ở kiểu bài này sẽ mở ra cho mỗi học sinh có cách cảm thụ của riêng mình về cái hay cái đẹp trong mỗi câu thơ, câu văn có sử dụng biện pháp nhân hóa. Ví dụ: Đoạn thơ dưới đây tả những sự vật và con vật nào? Cách gọi và tả chúng có gì hay? Em thích hình ảnh nào nhất? Vì sao? Những chị lúa phất phơ bím tóc Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học Đàn cò áo trắng Khiêng nắng Qua sông Cô gió chăn mây trên đồng Bác mặt trời đạp xe qua ngọn núi. Trần Đăng Khoa Ở trong bài tập này học sinh sẽ tìm được các sự vật được miêu tả trong đoạn thơ dưới sự dẫn dắt của giáo viên. Học sinh sẽ cảm nhận, phân tích cái hay, cái đẹp khi gọi và tả những sự vật ấy như thế nào. Học sinh tự đưa ra hình ảnh mà các em thích qua cảm nhận của riêng mình. * Dạng bài tập vận dụng kiến thức để tạo lời văn có sử dụng biện pháp nhân hóa. Với dạng bài tập này học sinh cần vận dụng kiến thức về biện pháp tu từ nhân hóa để điền vào những câu văn nhằm diễn tả sự vật bằng cách nhân hóa hay viết một đoạn văn ngắn theo chủ điểm có sử dụng biện pháp nhân hóa. Dạng bài tập này không chỉ yêu cầu học sinh làm đúng mà còn phải hay. Để làm được điều đó ngoài việc nắm chắc kiến thức về nhân hóa, các cách nhân hóa, học sinh còn phải hiểu tác dụng của biện pháp nhân hóa. Ngoài ra các em còn cần phải có hiểu biết rõ về thế giới xung quanh các em. Do đó có thể hiểu bài tập tạo lời là dạng bài tập khó, tuy nhiên những dạng bài tập này được cấu tạo đơn giản, dễ hiểu và đặc biệt số lượng bài tập không nhiều. Ví dụ 1:Tìm những từ chỉ người chỉ đặc điểm, dấu hiệu của con người điền vào chỗ trống cho thích hợp nhằm diễn tả sự vật bằng cách nhân hóa a. Mặt trời................................................................................................. b. Bông hoa.............................................................................................. c. Quyển sách........................................................................................... Ví dụ 2: Hãy sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại câu văn dưới đây cho sinh động, gợi cảm a. Mấy con chim đang hoát ríu rít trên cây. b. Những cơn gió thổi nhè nhẹ trên mặt hồ nước trong xanh. Ví dự 3: Viết một đoạn văn ngắn ( 4 đến 5 câu) trong đó có sử dụng phép nhân hóa để miêu tả bầu trời buổi sớm hoặc một vườn cây. Giải pháp 4: Tiến hành các bước dạy các dạng bài tập về nhân hóa cụ thể, dễ hiểu. Đây có thể coi là mấu chốt cuối cùng để học sinh nhận diện, phân tích bài tập và tiến hành làm bài tập đạt kết quả cao. Để học sinh hiểu và làm được bài tập giáo viên cần tiến hành theo 4 bước cơ bản sau: + Bước 1: Nhận diện bài tập. Một học sinh đọc thành tiếng toàn bộ bài tập, cả lớp vừa nghe vừa theo bài tập trong sách giáo khoa để nhận diện ra hình ảnh nhân hóa, sự vật nhân hóa có trong câu văn, câu thơ. + Bước 2:Phân tích bài tập Sau khi đã nhận diện ra hình ảnh nhân hóa có trong câu thơ, câu văn. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích một trường hợp để tìm ra yêu cầu của bài tập. + Bước 3: Hướng dẫn làm bài tập Học sinh sau khi đã tìm ra được dạng bài, phân tích được đề bài, hiểu bài rồi thì học sinh tự trình bày theo ý hiểu của các em. + Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả bài tập của học sinh Sau khi học sinh trình bày bài làm của mình, giáo viên cần để cho học sinh nhận xét bài làm của các em. Tuy nhiên để học sinh nhận xét được bài làm của bạn giáo viên cần đưa ra các tiêu chí đánh giá để yêu cầu từng học sinh đánh giá bài của mình hoặc bài của bạn theo yêu cầu mà giáo viên đưa ra. + Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến đã được áp dụng tại nhà trường và đem lại hiệu quả rõ rệt. Đa số các em trong một lớp dạy đã nắm bắt và hiểu các biện pháp nhân hóa. Làm tốt các bài tập về biện pháp nhân hóa, vận dụng đặt câu, viết đoạn văn rất tốt. - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau: + So sánh việc áp dụng sáng kiến trong đơn tôi viết và việc không áp dụng sáng kiến thì kết quả chênh lệch nhau là rất lớn. Lớp mà tôi sử dụng giải pháp mới học sinh hiểu bài, làm rất tốt các dạng bài tập về biện pháp nhân hóa, nắm được cách nhân hóa trong các bài văn, bài thơ. Từ đó các em thấy được cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm văn thơ. Vận dụng vào đặt câu, viết văn rất hay và sinh động. Còn lớp không áp dụng phương pháp mới, học sinh lung túng không nắm bắt và hiểu được các biện pháp nhân hóa. Vận dụng làm bài tập còn lúng túng, không nắm bắt được các biện pháp nhân hóa có trong các bài văn, bài thơ nên không hiểu hết được cái hay, cái đẹp trong các bài văn bài thơ. Viết văn cũng không hay, không sinh động. So sánh chất lượng môn học khi chưa áp dụng sáng kiến và khi áp dụng thử nghiệm sáng kiến với 69 học sinh. Điểm Trước khi áp dụng sáng kiến Sau khi áp dụng sáng kiến So sánh 9-10 6 = 8,7 % 10 = 14,5 % Tăng 5,8% 7-8 13 = 18,8% 22 = 31,9% Tăng 13,1% 5-6 35 = 50,8% 31 = 44,9% Giảm 5,9% 3-4 12 = 17,4% 6 = 8,7% Giảm 8,7% 1-2 3 = 4,3% 0 Giảm 4,3% + Số tiền làm lợi (nếu có thể tính được) và nêu cách tính cụ thể: Số tiền làm lợi có thể lên đến hàng chục triệu đồng. Vì khi tôi sử dụng giải pháp trên học sinh của tôi hiểu bài, làm được bài không cần cha mẹ các em phải cho các em đến các trung tâm để học thêm và mất tiền mua thêm sách tham khảo. Ví dụ: Mỗi tuần các em đi học 2 buổi/ tháng x 9 tháng = 18 buổi x 40.000 đồng = 720.000 đồng . Cả lớp 30 em x 720.000 đồng = 21.000.000 đồng. Chưa kể các em phải mua thêm sách tham khảo. + Mang lại lợi ích xã hội: nâng cao việc cảm nhận cái hay cái đẹp có trong các tác phẩm văn, thơ.Giúp các em hiểu hết cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong các tác phẩm văn, thơ. Từ đó các em điều kiện để viết văn hay hơn, sinh động hơn. - Các thông tin cần được bảo mật (nếu có); 4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến; Nhà trường cần trang bị đầy đủ trang thiết bị dạy học để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy, ngoài ra từng tiết học mà giáo viên chuẩn bị đồ dùng trực quan để học sinh dễ nắm bắt được nội dung bài học. Học sinh có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa. 5. Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có); Sáng kiến có khả năng áp dụng cho tất cả các trường tiểu học trong huyện, trong tỉnh Vĩnh Phúc. Đối tượng là các em học sinh lớp 3. Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn. Phú Xuân, ngày 20 tháng 01 năm 2019 NGƯỜI VIẾT ĐƠN (Ký và ghi rõ họ tên) Bùi Thị Xuân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan