Bé kÕ ho¹ch vµ ®Çu t−
ViÖn khoa häc thèng kª
B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò tµi cÊp bé
Nghiªn cøu n¨m gèc so s¸nh 1994
sang n¨m 2005 cña mét sè chØ tiªu
trong thèng kª tµi kho¶n quèc gia
Chñ nhiÖm ®Ò tµi: ks . bïi b¸ c−êng
6668
20/11/2007
hµ néi - 2007
MỤC LỤC
PhÇn I
1
2
2.1
2.2
3
3.1
3.2
PhÇn II
I
1
2
II
1
2
III
1
2
PhÇn III
I
1
2
3
II
Lêi nãi ®Çu
Ph−¬ng ph¸p luËn tÝnh chuyÓn mét sè chØ tiªu
thuéc thèng kª Tµi kho¶n quèc gia tõ gi¸
thùc tÕ vÒ gi¸ so s¸nh n¨m gèc vµ tõ mét n¨m
gèc sang mét n¨m gèc kh¸c
Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi các chỉ tiêu kinh tế
thuộc Tài khoản quốc gia giữa các năm gốc với nhau
Lý luận chung để chuyển đổi giá năm gốc và chuyển giá thực tế về
giá so sánh
Chuyển đổi giá năm gốc
Chuyển giá thực tế về giá so sánh
Phương pháp tính chuyển GDP từ giá thực tế về giá so sánh
Giới thiệu về bảng nguồn và sử dụng (S.U.T)
Các ứng dụng của bảng nguồn và sử dụng
Thùc tr¹ng vÒ viÖc chuyÓn ®æi n¨m gèc so
s¸nh vµ tÝnh theo gi¸ so s¸nh ®èi víi mét sè
chØ tiªu trong thèng kª tµi kho¶n quèc gia
Sơ lược về bảng giá cố định và chọn các năm gốc so sánh đối với
một số chỉ tiêu trong thống kê Tài khoản quốc gia
Năm gốc so sánh và bảng giá cố định
Bảng giá cố định năm 1994
Thực trạng tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của hệ thống tài
khoản quốc gia theo giá so sánh năm 1994
Tính chỉ tiêu giá trị sản xuất theo giá so sánh
Tính chỉ tiêu GDP theo giá so sánh
Ưu, nhược điểm của việc tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thuộc
hệ thống tài khoản quốc gia hiện nay
Đối với khối áp dụng bảng giá cố định 1994
Đối với khối áp dụng chỉ số giá
§Ò xuÊt c¸c ph−¬ng ph¸p tÝnh c¸c chØ tiªu tµi
kho¶n quèc gia tõ gi¸ thùc tÕ vÒ gi¸ so s¸nh
Sử dụng bảng nguồn và sử dụng để tính các chỉ tiêu tài khoản quốc
gia về giá so sánh
Những vấn đề cơ bản khi sử dụng bảng SUT để tính chuyển các
chỉ tiêu tài khoản quốc gia về giá so sánh
Tính toán thử nghiệm về năm gốc 2000 qua bảng SUT của năm
2005
Một vài nhận xét trong tính toán thử nghiệm qua sử dụng SUT
Áp dụng phương pháp giảm phát riêng rẽ cho từng ngành, từng
hoạt động và một số chỉ tiêu chủ yếu
KÕt luËn vµ kiÕn nghÞ
Trang
2
6
6
9
10
10
12
12
16
17
17
17
18
20
20
21
24
24
26
28
28
28
42
47
47
62
1
Lêi nãi ®Çu
Để tổng hợp các sản phẩm vật chất và dịch vụ khác nhau trong nền kinh tế
thành các chỉ tiêu thuộc thống kê tài khoản quốc gia (TKQG) nói riêng, các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô nói chung cần phải dùng cùng một thước đo, đó là thước đo giá trị.
Thước đo giá trị được biểu hiện bằng một lượng tiền (tệ), song “giá trị” này lại
thay đổi theo thời gian do có sự biến động của giá cả. Vì vậy, giá so sánh của một
năm chọn làm gốc được dùng để loại trừ ảnh hưởng của sự thay đổi về giá đối với
các chỉ tiêu giá trị theo thời gian. Giá so sánh là giá thực tế bình quân của năm
chọn làm gốc, nhằm nghiên cứu sự thay đổi thuần về khối lượng và loại trừ sự biến
động của yếu tố giá. Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của những thời kỳ khác nhau (có
thể được tính theo tháng, quí hoặc năm) sẽ được tính theo giá của một năm gốc
nào đó. Trên thế giới có ba phương pháp để tính chuyển các chỉ tiêu này từ giá
thực tế của năm báo cáo về giá của năm gốc, đó là:
- Phương pháp đánh giá trực tiếp từ lượng và giá theo từng loại sản phẩm của
năm gốc (ở Việt Nam thường gọi là phương pháp áp dụng bảng giá cố định)
- Phương pháp giảm phát
- Phương pháp ngoại suy khối lượng
Hiện nay, Tổng cục Thống kê đang dùng “Bảng giá cố định 1994”để tính các
chỉ tiêu giá trị sản xuất của các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp
khai thác mỏ; công nghiệp chế biến và sản xuất, phân phối điện, nước, ga. Các
ngành kinh tế cấp I còn lại dùng “phương pháp giảm phát”.
Việc áp dụng phương pháp nào để tính chuyển các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp,
nhất là chỉ tiêu giá trị sản xuất từ giá thực tế về giá so sánh của một năm gốc nào
đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song quan trọng nhất là phụ thuộc vào sự phát triển
của công tác thống kê nói chung, công tác thống kê sản xuất, thống kê giá và thống
kê TKQG nói riêng. Hiện nay trên thế giới hầu hết các nước đều áp dụng “phương
pháp giảm phát”. Ở Việt Nam trước những năm 1990 công tác thống kê giá cả
2
chưa phát triển đầy đủ, nhất là chưa xây dựng được một hệ thống chỉ số giá hoàn
chỉnh để áp dụng phương pháp giảm phát, nên vẫn coi việc áp dụng bảng giá cố
định là phương pháp chủ yếu. Song từ cuối thập niên 1990 đến nay, thống kê giá
và chỉ số giá của nước ta đã từng bước được củng cố, hoàn thiện tạo tiền đề cho
việc áp dụng phương pháp giảm phát để tính chuyển các chỉ tiêu giá trị từ giá thực
tế về giá so sánh.
Đối với các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của một thời kỳ nhất định, đã được tính
theo giá của một năm gốc nào đó, song khi nhận thấy cơ cấu kinh tế có nhiều biến
động so với năm được chọn làm gốc, thì phải chuyển đổi năm gốc so sánh. Năm
được chọn làm năm gốc để thay một năm gốc nào đó thường là năm có nền kinh tế
phát triển ổn định. Từ khi ngành thống kê ra đời đến nay đã có 6 lần thay đổi năm
gốc, đó là các năm 1958, 1961, 1970, 1982, 1989 và 1994. Sau gần 50 năm, với 6
lần thay đổi năm gốc so sánh bằng áp dụng các bảng giá cố định là chủ yếu để tính
toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp (phục vụ cho đánh giá tốc độ phát triển theo
ngành, thành phần, loại hình kinh tế và của cả nền kinh tế); phương pháp dùng
bảng giá cố định đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình, nhất là đã có những đóng
góp to lớn trong việc quản lý, điều hành nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Để nghiên cứu và phân tích kinh tế vĩ mô nền kinh tế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu vẫn tiếp tục dùng bảng giá
cố định như một phương pháp duy nhất để tính chuyển các chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp về giá so sánh của năm gốc (cho dù năm gốc là năm 1994 hay một năm nào đó
gần đây, ví dụ năm 2005) là không còn phù hợp; nhất là trong bối cảnh công tác
thống kê giá và chỉ số giá của nước ta đã đáp ứng cho áp dụng phương pháp giảm
phát để biên soạn một số chỉ tiêu của hệ thống TKQG.
Do tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, năm 2006 Lãnh đạo Tổng cục và
Viện khoa học Thống kê quyết định giao cho vụ Hệ thống TKQG triển khai đề tài
khoa học cấp tổng cục “Nghiên cứu đổi năm gốc so sánh 1994 sang năm gốc so
sánh 2005 của một số chỉ tiêu thuộc thống kê tài khoản quốc gia” do cử nhân
Bùi Bá Cường làm chủ nhiệm, cử nhân Nguyễn Thị Mai Hạnh làm thư ký cùng với
sự tham gia của nhiều lãnh đạo, chuyên viên của Vụ Hệ thống TKQG, Vụ Thống
kê Thương mại - Dịch vụ và Giá cả, Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng, Vụ
Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản.
3
Mục tiêu của đề tài: Nghiên cứu, rà soát phương pháp và nguồn thông tin
để tính chuyển các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm của
các ngành kinh tế từ giá thực tế sang giá so sánh năm gốc (năm gốc 1994 và 2005);
tính chỉ tiêu GDP của cả nước theo phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng
cuối cùng theo giá so sánh năm 2005. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xây dựng
phương pháp chuyển đổi năm gốc so sánh từ năm 1994 sang năm 2005.
Với mục tiêu trên, ban chủ nhiệm đã tập trung vào nghiên cứu các nội dung
chính sau :
1. Nghiên cứu phương pháp luận tính chỉ tiêu GDP theo phương pháp sản xuất
và phương pháp sử dụng cuối cùng, theo giá năm gốc 2005.
2. Đánh giá thực trạng về phương pháp tính một số chỉ tiêu chủ yếu của tài
khoản quốc gia theo giá năm gốc 1994. Rà soát nguồn thông tin, công cụ và các
điều kiện để tính chuyển chỉ tiêu GDP theo năm gốc 2005 phù hợp với thông lệ
Quốc tế và thực tế của Việt Nam.
3. Tính thử nghiệm chỉ tiêu GDP của năm 2004 và năm 2005 về giá năm gốc
năm 2000 bằng phương pháp giảm phát và bảng nguồn và sử dụng (SUT).
Sau một năm nghiên cứu, đề tài đã triển khai và hoàn thành 12 chuyên đề, 1 báo
cáo tổng hợp và 1 báo cáo tóm tắt (danh mục sản phẩm đạt được trang 76-77).
Nội dung và kết quả nghiên cứu đề tài được trình bày theo các phần sau:
Phần I : Phương pháp luận tính chuyển một số chỉ tiêu thuộc thống kê TKQG
từ giá thực tế về giá so sánh năm gốc và từ một năm gốc sang một năm gốc khác.
Phần II : Thực trạng tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp theo giá so sánh thuộc
thống kê TKQG hiện nay ở Việt Nam.
Phần III : Đề xuất các phương pháp tính các chỉ tiêu tài khoản quốc gia từ giá
thực tế về giá so sánh.
Kết luận và kiến nghị
Đề tài khoa học này được kế thừa các kết quả nghiên cứu của đề tài khoa
học cấp tổng cục “ Nghiên cứu vận dụng hệ thống chỉ số giá thay cho bảng giá cố
định” do tiến sĩ Lê Mạnh Hùng làm chủ nhiệm, đã tham khảo nhiều tài liệu trong
và ngoài nước liên quan đến tính chuyển các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp từ giá thực tế
về giá so sánh năm gốc.
4
Các thành viên tham gia :
Bùi Bá Cường
Cử nhân, Vụ trưởng Vụ Hệ thống TKQG, Chủ nhiệm đề tài
Nguyễn Thị Mai Hạnh Cử nhân, chuyên viên Vụ Hệ thống TKQG, Thư ký đề tài
Nguyễn Văn Minh
Cử nhân, Phó Vụ trưởng vụ Hệ thống TKQG
Hoàng Phương Tần
Cử nhân, chuyên viên chính Vụ Hệ thống TKQG
Lưu Văn Vĩnh
Cử nhân, Phó vụ trưởng vụ TK Nông, lâm nghiệp và Thuỷ
sản
Nguyễn Sinh Cúc
PGS. Tiến sĩ, Nguyên vụ trưởng Vụ TK Nông, lâm nghiệp
và Thuỷ sản
Vũ Văn Tuấn
Cử nhân, Vụ trưởng Vụ TK Công nghiệp và Xây dựng
Phạm Đình Thuý
Cử nhân, Phó Vụ trưởng Vụ TK Công nghiệp và Xây dựng
Nguyễn Văn Nông
Cử nhân, chuyên viên cao cấp, phó Vụ trưởng Vụ Hệ thống
TKQG
Nguyễn Văn Đoàn
Thạc sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ Thương mại - Dịch vụ và Giá cả
Nguyễn Đức Thắng
Cử nhân, Phó vụ trưởng Vụ Thương mại - Dịch vụ và Giá
cả
Phạm Đình Hàn
Cử nhân, chuyên viên chính Vụ Hệ thống TKQG
Nguyễn Kim Anh
Cử nhân, chuyên viên chính Vụ Hệ thống TKQG
Bùi Trinh
Cử nhân, chuyên viên Vụ Hệ thống TKQG
Nguyễn Thị Hương
Cử nhân, chuyên viên Vụ Hệ thống TKQG
5
PhÇn I : Ph−¬ng ph¸p luËn tÝnh chuyÓn mét sè chØ tiªu
thuéc thèng kª TKQG tõ gi¸ thùc tÕ vÒ gi¸ so s¸nh n¨m gèc
vµ tõ mét n¨m gèc sang mét n¨m gèc kh¸c
Hiện nay, chỉ tiêu GDP và tốc độ tăng trưởng GDP được Tổng cục Thống kê
tính toán và công bố theo quý và năm. Đây là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp quan trọng và hết sức nhạy cảm, ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của
các nhà lãnh đạo cũng như các tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tế, đặc biệt
trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Vì vậy, không ngừng nâng cao
chất lượng tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nói chung và chỉ tiêu GDP nói
riêng đã và đang được đặt ra như là một nhiệm vụ hàng đầu trong thời gian tới của
toàn ngành Thống kê.
1. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi các chỉ tiêu kinh tế thuộc
TKQG giữa các năm gốc với nhau.
Để so sánh các chỉ tiêu giá trị giữa các năm gốc với nhau, cần phải quan tâm và
giải quyết các vấn đề giữa các năm gốc sau :
- Biến động về ngành kinh tế, ngành sản phẩm và loại hình kinh tế
-
Thay đổi về phương pháp tính và nguồn số liệu để tính các chỉ tiêu giá trị
-
Biến động về giá cả và biên soạn chỉ số giá
a. Biến động về ngành kinh tế, ngành sản phẩm và loại hình kinh tế
Biến động về ngành kinh tế, ngành sản phẩm và loại hình kinh tế là những thay
đổi liên quan đến thay đổi các bảng phân ngành kinh tế, phân ngành sản phẩm và
loại hình kinh tế, qua việc ban hành mới các bảng phân loại trong công tác thống
kê như bảng phân ngành kinh tế (thí dụ bảng VSIC 1993 và VSIC 2007), ngành
sản phẩm; liên quan đến qui định mới về loại hình/ thành phần kinh tế; qua việc
mở rộng, thu hẹp ngành kinh tế, ngành sản phẩm, loại hình kinh tế. Về cơ bản có
hai kiểu biến động, đó là :
- Những thay đổi bên trong nội bộ một ngành, một loại hình kinh tế: loại thay
đổi này chỉ liên quan đến một ngành, một loại hình kinh tế; phụ thuộc vào
việc tính chỉ tiêu giá trị theo ngành kinh tế cấp nào (cấp 1, 2, 3…), loại hình
kinh tế nào (kinh tế Nhà nước, kinh tế ngoài Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
6
nước ngoài)? Về nguyên tắc chỉ tiêu giá trị (thí dụ chỉ tiêu giá trị sản xuất
theo ngành sản phẩm, ngành kinh tế, loại hình kinh tế phải được tách chi tiết
ở mức tối đa, tối thiểu là theo ngành kinh tế cấp 3).
-
Những thay đổi không chỉ ảnh hưởng trong nội bộ một ngành, một loại hình
kinh tế mà còn liên quan tới một ngành, loại hình kinh tế khác, tức là những
thay đổi này dẫn tới “làm tăng” đối với ngành “nhận”, “làm giảm” đối với
ngành “cho”, đối với từng chỉ tiêu giá trị của cả ngành “nhận” và “cho” (thí
dụ việc tính chỉ tiêu giá trị sản xuất từ VSIC 1993 sang VSIC 2007)
b. Thay đổi phương pháp đánh giá các chỉ tiêu giá trị cụ thể, tức là thay đổi
phương pháp hạch toán, phương pháp tính đi liền với thay đổi với đơn vị thu thập
số liệu
Giá thực tế là giá dùng trong giao dịch của năm báo cáo. Giá thực tế phản ánh
giá trị trên thị trường của hàng hoá, dịch vụ, tài sản chu chuyển từ quá trình sản
xuất, lưu thông phân phối tới sử dụng cuối cùng đồng thời với sự vận động của tiền
tệ, tài chính và thanh toán. Qua đó có nhận thức khách quan về cơ cấu kinh tế, mối
quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, phân phối thu nhập, giữa kết quả sản
xuất với phần huy động được vào ngân sách … trong từng năm.
Giá so sánh là giá thực tế của năm được chọn làm gốc. Dùng giá so sánh để
nghiên cứu thay đổi thuần về khối lượng và loại trừ sự biến động của yếu tố giá,
các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của những năm khác được tính theo giá của năm gốc.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, năm được chọn làm gốc để tính giá so sánh có thể
là năm trước hoặc sau năm báo cáo. Trong thực tế thường chọn năm trước là năm
đầu của thời kỳ kế hoạch.
Đối với các chỉ tiêu tính theo giá thực tế khi thay đổi nguyên tắc tính các chỉ
tiêu giá trị (thí dụ chỉ tiêu giá trị sản xuất của một ngành kinh tế, một sản phẩm cụ
thể giữa các năm được chọn làm năm gốc so sánh) sẽ cho tốc độ tăng trưởng hoặc
cơ cấu ngành sản phẩm khác nhau, thể hiện ở các thay đổi:
+ Tính chỉ tiêu giá trị sản xuất theo giá nào: giá cơ bản, giá sản xuất hay giá sử
dụng cuối cùng?
+ Thông tin để tính giá trị sản xuất từ tiêu thụ sản phẩm (doanh thu tiêu thụ),
theo chi phí tạo ra sản phẩm (theo tổng số và cấu thành các loại chi phí để tạo ra
sản phẩm) hay tính trực tiếp từ khối lượng sản xuất nhân ( x ) với đơn giá bình
7
quân của sản phẩm hay tính từ phân tích luồng sản phẩm (lập bảng cân đối sản
phẩm) ?
+ Tính giá trị sản xuất theo đơn vị cơ sở, theo doanh nghiệp hay theo một ngành
kinh tế sẽ gắn với đơn vị thu thập số liệu. Nếu đơn vị thu thập số liệu là đơn vị
cơ sở, giá trị sản xuất chỉ tính cho kết quả cuối cùng của đơn vị cơ sở sẽ cho giá
trị sản xuất “sạch”. Nếu đơn vị thu thập số liệu là doanh nghiệp (đơn vị/ tổ chức
hạch toán độc lập), giá trị sản xuất chỉ tính kết quả cuối cùng của doanh nghiệp
tức là không tính giá trị sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất để sử dụng ngay
trong nội bộ doanh nghiệp. Nếu đơn vị thu thập số liệu là ngành kinh tế thì giá
trị sản xuất không được tính trùng phần giá trị được sử dụng lẫn nhau trong nội
bộ ngành (sẽ cho “giá trị sản xuất chưa sạch”)
+ Tính giá trị sản xuất theo nguyên tắc “chuyển giao quyền sở hữu” hay nguyên
tắc “thực thanh, thực chi”. Nguyên tắc này phản ánh sự khác nhau về thời điểm
hạch toán của thống kê giá trị sản xuất với thời điểm hạch toán trong kế toán tài
chính. Tính giá trị sản xuất cho loại sản phẩm hàng hoá (có bán trên thị trường)
hay sản phẩm phi thị trường ?
Đối với các chỉ tiêu tính theo giá so sánh :
Có ba phương pháp tính giá trị sản xuất theo giá so sánh, đó là :
+ Phương pháp giảm phát
+ Phương pháp chỉ số khối lượng
+ Phương pháp xác định giá trị trực tiếp từ giá và lượng của từng loại sản phẩm
Áp dụng phương pháp khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau.
c. Biến động về giá cả và thay đổi phương pháp biên soạn hệ thống chỉ số giá
Sự biến động về giá cả và áp dụng phương pháp tính chỉ số giá phụ thuộc vào :
+ Mức độ chi tiết, đầy đủ trong lập danh mục khối lượng và đơn giá của từng
nhóm sản phẩm giữa các năm gốc
+ Áp dụng phương pháp (công thức) để tính chỉ số giá giữa các năm gốc
+ Mức độ chi tiết và phạm vi trong xây dựng quyền số dùng để tính chỉ số giá
giữa các năm gốc
8
+ Thay đổi chất lượng sản phẩm sản xuất trong từng thời kỳ áp dụng năm gốc
phản ánh qua khối lượng sản phẩm của từng thời kỳ được đề cập và được xử lý
đến đâu ?
+ Mức độ chi tiết, đầy đủ của hệ thống chỉ số giá: PPI, CPI, chỉ số giá đầu vào,
chỉ số giá xuất nhập khẩu, …?
Để có thể so sánh chuỗi số liệu giá trị theo thời gian về cùng một năm gốc,
cần hạn chế hoặc loại bỏ những ảnh hưởng của những nhân tố đã nêu ở trên. Nếu
chọn năm 2005 là năm gốc mới thì dãy số liệu của các năm gốc trước năm gốc
2005 cần xử lý như sau :
- Phải đưa về cùng một phân loại mà năm 2005 đang sử dụng (cùng một phân
ngành kinh tế, cùng một phân ngành sản phẩm, cùng một loại hình kinh tế)
- Phương pháp tính từng chỉ tiêu giá trị theo giá thực tế, theo giá so sánh ở các
thời kỳ có năm gốc khác nhau phải áp dụng cùng nguyên tắc và phương pháp,
tức là nguyên tắc và phương pháp đo lường của năm 2005.
- Áp dụng cùng một phương pháp để loại trừ sự biến động về giá cả.
2. Lý luận chung để chuyển đổi giá năm gốc và chuyển giá thực tế về giá
so sánh.
Căn cứ để chuyển đổi năm gốc so sánh xét về mặt kinh tế, do có sự thay đổi
nhiều về cơ cấu kinh tế của năm hiện hành so với năm được chọn làm gốc. Theo
thời gian, do phát triển kinh tế, các sản phẩm sản xuất ra, do yêu cầu của sử dụng
... luôn biến động, giá cả các sản phẩm của năm hiện hành quá chênh lệch so với
giá cả của năm gốc, cơ cấu giá trị sản xuất của các ngành kinh tế, của các sản phẩm
dùng làm quyền số để tính chỉ số giá của năm được chọn làm gốc có nhiều biến
động, năm hiện hành càng xa với năm gốc đã chọn nếu tiếp tục dùng năm gốc sẽ
không phản ánh đúng thực chất phát triển của nền kinh tế. Đối với một đất nước,
khi công tác kế hoạch hoá có vai trò cực kỳ quan trọng để hoạch định chính sách
trong điều hành và quản lý nền kinh tế thì năm được chọn làm gốc để thay cho năm
gốc cũ thường là năm có nền kinh tế ổn định và là năm đầu của một kỳ kế hoạch
trung và dài hạn.
Nếu nền kinh tế phát triển ổn định, thông thường khoảng 10 đến 15 năm sẽ thay
đổi năm gốc so sánh. Song đối với một đất nước đang phát triển và nhất là đất
9
nước chuyển đổi (từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường), thông thường 5 đến 10 năm phải thay đổi năm gốc so sánh.
Thực ra vấn đề chuyển đổi năm gốc và chuyển giá thực tế về giá so sánh là hai
vấn đề tuy hai mà là một, hai vấn đề này có mối quan hệ hữu cơ với nhau; tuy
nhiên hai vấn đề này cũng có những ý niệm riêng như sau:
2.1. Chuyển đổi giá năm gốc.
Khi nói đến giá là nói đến giá của sản phẩm, như vậy ý niệm về giá tương ứng
với giá trị sản xuất; điều này rất quan trọng khi tính toán giá của một nhóm sản
phẩm, vì khi tính giá theo nhóm sản phẩm phải cần đến giá trị sản xuất để làm
quyền số, do đó khi đề cập đến giá của một nhóm mặt hàng nào đó có nghĩa đã là
giá bình quân gia quyền theo giá của các mặt hàng chi tiết hơn, khi các nhóm sản
phẩm càng được gộp lớn thì giá của nhóm sản phẩm gộp càng xa với giá của hàng
hoá chi tiết trong đó.
Tương tự như vậy, chỉ số giá là chỉ số giá của sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm,
chỉ số giá có thể là chỉ số giá của năm sau so với năm trước hoặc của một năm so
với một năm cố định nào đó (thường được gọi là năm gốc), có thể dễ dàng nhận
thấy chỉ số giá của một năm nào đó so với năm gốc là chỉ số giá bình quân của
nhiều hoặc rất nhiều loại hàng hoá khác nhau nằm trong nhóm sản phẩm đang
được khảo sát về giá. Trong một nền kinh tế, đặc biệt đối với những nước đang
phát triển các sản phẩm luôn luôn thay đổi, một số sản phẩm mới xuất hiện và một
số sản phẩm khác mất đi, nên năm khảo sát mà quá xa năm gốc sẽ không thể tính
được chỉ số giá của năm khảo sát so với năm gốc do quyền số các mặt hàng (mới
xuất hiện hoặc mất đi) thay đổi; đấy là lý do chủ yếu dẫn đến việc phải thay đổi
năm gốc.
2.2. Chuyển giá thực tế về giá so sánh.
Vậy tại sao lại phải quay về giá năm gốc? Điều này có ý nghĩa gì? Tăng
trưởng kinh tế là một nhân tố quyết định sự phát triển của mọi quốc gia. Đối với
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, tăng trưởng kinh tế luôn là mục
tiêu ưu tiên. Khi nói đến tốc độ tăng trưởng kinh tế thì có rất nhiều yếu tố đánh giá
sự tăng trưởng, thông thường ở Việt Nam thường nói đến tốc độ tăng trưởng của
giá trị sản xuất và Tổng sản phẩm trong nước (GDP). Để tính được tốc độ tăng
trưởng của giá trị sản xuất (GO) và GDP cần phải tính được GO và GDP theo giá
10
so sánh - điều này có nghĩa cần loại trừ biến động của yếu tố giá cả qua các năm.
Qua đó có thể nhận thấy việc chọn năm gốc là rất quan trọng.
Như đã nói ở trên ý niệm về giá hoặc chỉ số giá là cho sản phẩm, hoặc nhóm
sản phẩm (hay còn gọi là ngành sản phẩm), ý niệm này tương thích với chỉ tiêu giá
trị sản xuất (GO) theo ngành sản phẩm, việc tính chuyển chỉ tiêu GDP về giá năm
gốc (GDP theo giá so sánh) cần phải được tiến hành qua những tính toán trung
gian và phương pháp cơ bản được cả thế giới áp dụng là sử dụng bảng I/O (Input –
Output Table) hoặc bảng Nguồn và sử dụng (Supply and Use tables – S.U.T) của
năm gốc để tính chuyển GDP của các năm sau đó về năm có bảng S.U.T (phương
pháp tính chuyển sẽ đề cập trong mục 3). Như vậy một vấn đề rất quan trọng là
năm gốc phải là năm có bảng S.U.T hoặc bảng I/O.
Giá trị sản xuất của ngành sản phẩm nào đó theo giá thực tế chia cho chỉ số
giá của nhóm ngành tương ứng là giá trị sản xuất của ngành sản phẩm đó theo giá
so sánh năm gốc vì vậy một vấn đề rất quan trọng cần xác định giá của giá trị sản
xuất theo giá nào? Giá trị sản xuất có thể xác định theo 3 loại giá, giá sử dụng cuối
cùng bao gồm giá trị sản phẩm theo giá cơ bản, thuế sản phẩm và phí lưu thông
(phí vận tải và phí thương mại); giá người sản xuất bao gồm giá trị sản phẩm theo
giá cơ bản, thuế sản phẩm; giá cơ bản không bao gồm thuế sản phẩm và phí lưu
thông. Như vậy cần xác định giá gì của giá trị sản xuất để áp dụng các chỉ số giá
tương ứng?
Hệ số giữa chỉ tiêu GDP của năm nào đó theo giá thực tế và giá so sánh được
gọi là hệ số thay đổi giá GDP (GDP deflactor), Tổng cục Thống kê quen gọi là
“chỉ số giảm phát GDP”.
Hiện nay ở Việt Nam, chỉ tiêu GDP được tính theo hai phương pháp: phương
pháp sản xuất và phương pháp sử dụng cuối cùng. Theo phương pháp sản xuất
GDP được tính bằng tổng giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế cộng với thuế
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Giá trị tăng thêm của mỗi ngành kinh tế được xác
định bằng hiệu số giá trị sản xuất của các ngành trừ đi chi phí trung gian được sử
dụng trong chính các ngành đó. Như vậy, theo phương pháp sản xuất để tính được
GDP theo giá so sánh của toàn bộ nền kinh tế cần tính được giá trị tăng thêm theo
giá so sánh của từng ngành kinh tế hay cần tính được giá trị sản xuất và chi phí
trung gian theo giá so sánh trong từng ngành kinh tế. Việc tính toán này được thực
hiện một cách khoa học trong mối quan hệ tổng thể về cung, cầu hàng hóa và
11
các ảnh hưởng của sự tác động kinh tế liên ngành dựa trên những điều kiện
nhất định. Điều kiện quan trọng để thực hiện được phương pháp xác định chỉ tiêu
GDP theo giá so sánh trong mối quan hệ liên ngành này là cần phải có bảng Nguồn
và Sử dụng (bảng S.U.T) và một hệ thống chỉ số giá tương ứng. Chỉ tiêu GDP theo
giá so sánh được ước tính dựa vào bảng SUT cho phép phản ánh đúng đắn tốc độ
tăng trưởng không chỉ cho toàn bộ nền kinh tế mà còn cho thấy những đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế của từng ngành kinh tế cụ thể. Đồng thời, cùng với việc sử
dụng bảng SUT và hệ thống chỉ số giá phù hợp có thể kiểm tra, đánh giá được kết
quả tính toán chỉ tiêu GDP theo phương pháp sản xuất qua việc so sánh kết quả
tính toán chỉ tiêu này theo phương pháp sử dụng cuối cùng (hoặc phương pháp thu
nhập).
3. Phương pháp tính chuyển GDP từ giá thực tế về giá so sánh
3.1. Giới thiệu về bảng nguồn và sử dụng (S.U.T).
Sơ đồ 1:
Ngành kinh tế
Ngành kinh tế
Ngành sản phẩm
Ngành sản phẩm
Sử dụng cuối cùng
Bảng nguồn
Ma trận chi phí
trung gian của
bảng sử dụng
Sử dụng cuối cùng
Giá trị tăng thêm
Bảng nguồn và sử dụng trong SNA 1993 được đưa thêm ý niệm về giá như
giá trị sản xuất trong bảng nguồn là giá cơ bản và trong bảng sử dụng là giá người
mua.
- Bảng nguồn, theo dòng mô tả chi tiết nguồn sản phẩm do sản xuất trong
nước và nhập khẩu tạo nên, theo cột mô tả các sản phẩm được sản xuất ra trong
mỗi ngành. Do đó tổng giá trị các loại sản phẩm được sản xuất ra trong một ngành
cho biết sản lượng sản xuất ra của ngành đó trong một thời kỳ nhất định, giá trị sản
xuất này có thể là một hoặc nhiều nhóm sản phẩm.
- Bảng sử dụng mô tả chi tiết luồng sản phẩm được sử dụng trong quá trình
sản xuất theo ngành kinh tế như: cho tiêu dùng trung gian, cho tích luỹ tài sản, cho
12
tiêu dùng cuối cùng và cho xuất khẩu (theo dòng). Bảng sử dụng cũng mô tả tài
khoản sản xuất và tài khoản tạo thu nhập (theo cột).
Trong bảng nguồn và sử dụng, ngành sản phẩm được phân theo phân loại
ngành sản phẩm (central product classification - CPC) và ngành kinh tế được phân
loại theo phân ngành kinh tế chuẩn của Liên hợp quốc (International standard of
industrial classification - ISIC).
Tuỳ theo mục đích và yêu cầu cũng như kinh phí để tổ chức thu thập thông
tin và tiến hành lập bảng nguồn và sử dụng, mức độ đơn giản hay chi tiết của các
chỉ tiêu trong bảng, số lượng ngành sản phẩm và ngành kinh tế sẽ được quyết định
cho phù hợp. Ví dụ, sản lượng sản phẩm sản xuất trong nước được phân theo
ngành kinh tế hoặc theo các nhóm như sản phẩm vật chất, dịch vụ thị trường, dịch
vụ phi thị trường .v.v…
Trong sơ đồ 1, tổng theo cột bằng tổng theo dòng. Sau đây là cấu tạo chi tiết
bảng nguồn và sử dụng :
a. Bảng nguồn
Bảng nguồn dạng rút gọn
N1
N2
…
Nm
1
2
…
m
Tổng nguồn
từ sản xuất
trong nước
Nhập
khẩu
(giá
cif)
Tổng nguồn
(giá cơ bản)
Thuế sản
phẩm
Phí
lưu
thông
Tổng
nguồn theo
giá SDCC
A
B
C
D
E
F
SF1
SF2
…
Xij
Ai
SFn
Tổng
GTSX
theo
giá cơ
bản (G)
Gj
Trong đó:
13
- i=1,n : là số ngành sản phẩm
- j=1,m : là số ngành kinh tế
- Xij là lượng sản phẩm i do ngành kinh tế j sản xuất ra
- Xác định các phần tử Xij từ biểu điều tra kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị điều tra. Sau khi đã làm đầy ma trận Xij, nếu gọi Ai là các
phần tử của cột tổng nguồn từ sản xuất hoặc tổng sản phẩm loại i được sản xuất ra
trong nước và Gj là các phần tử của dòng tổng giá trị sản xuất theo giá cơ bản, hoặc
giá trị sản xuất của ngành kinh tế j, ta có:
A
i
=
n
∑
X
ij
j=1
(1)
m
G j = ∑ X ij
i =1`
(2)
Như vậy tổng giá trị của từng sản phẩm được sản xuất ra trong nước và tổng
giá trị sản xuất của từng ngành kinh tế (theo giá cơ bản) được tính theo công thức
(1) và (2).
- Từ kết quả điều tra về hàng hoá nhập khẩu xác định được các phần tử của
cột B.
- Các phần tử của cột C “Tổng nguồn theo giá cơ bản” sẽ được tính toán
theo công thức sau:
Ci = Ai + Bi (i=1,n)
- Thuế sản phẩm ở cột D hàm ý bao gồm thuế đối với sản phẩm trong nước
và thuế nhập khẩu. Số liệu này thu thập từ Vụ Chính sách Thuế - Bộ Tài chính.
- Số liệu về phí lưu thông ở cột E lấy từ tổng hợp và xử lý kết quả điều tra.
- Tổng nguồn theo giá sử dụng cuối cùng bao gồm cả phí lưu thông và thuế
hàng hoá nên các giá trị của cột tổng nguồn theo giá sử dụng cuối cùng được tính
theo công thức:
Fi = Ci + Di + Ei (i=1,n)
Như vậy ta đã tính toán được toàn bộ các chỉ tiêu cơ bản của bảng nguồn
theo công thức và qui trình như trên.
14
b. Bảng sử dụng
Bảng sử dụng rút gọn
Tiêu dùng trung gian
Chi
phí
trung
gian
Nhu cầu cuối cùng
N1
N2
…
Nm
Tổng sử
dụng cho
sx
1
2
…
m
H
TDCC
TLTS
Xuất
khẩu
(giá
Fob)
I
G
K
Tổng
nguồn
theo giá
SDCC
L
SP1
SP2
…
Xij
Hi
SPn
Giá trị
tăng
thêm
Thu của
NLĐ
K/hao
Tdư sx
Tổng GTSX theo
giá cơ bản
Trong đó: Nj là ký hiệu của ngành kinh tế (theo cột) với j=1,m
SPi là ngành sản phẩm (theo dòng) với i =1,n
kinh tế j.
Xij là lượng sản phẩm i dùng cho tiêu dùng trung gian của ngành
- Xij xác định được từ việc xử lý kết quả biểu điều tra “kết quả sản xuất” và
biểu “chi phí sản xuất” của ngành kinh tế.
- Tổng giá trị sản phẩm dùng cho sản xuất (Hi) được xác định theo
công thức:
H
i
=
m
∑
j =1
x
ij
Các phần tử của cột I,K được xác định từ xử lý kết quả điều tra tiêu dùng và
xuất khẩu chi tiết theo từng sản phẩm.
15
Cột G phản ánh tích lũy của các loại sản phẩm sản xuất ra trong năm và
thường được coi là phần để kiểm tra sự cân đối giữa nguồn và sử dụng sản
phẩm.
Các giá trị Ki ở cột K là giá trị xuất khẩu của các sản phẩm và được tính theo
giá Fob.
Các giá trị Li ở cột L là tổng sử dụng sản phẩm theo giá sử dụng cuối cùng.
sau:
Sau khi bảng nguồn và bảng sử dụng đã được lập ta luôn có mối quan hệ
Ei = Li
Quá trình tính toán giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm
theo ngành kinh tế thường được tiến hành cùng nhau vì giữa chúng có mối liên hệ
chặt chẽ như các khâu của một quá trình sản xuất trong một ngành kinh tế. Hơn
nữa, nguồn thông tin để tính các chỉ tiêu đó của các hoạt động sản xuất là giống
nhau và còn được dùng để kiểm tra giữa các chỉ tiêu.
3.2. Các ứng dụng của bảng nguồn và sử dụng
a. Ứng dụng để lập bảng IO: Bảng nguồn và sử dụng được ứng dụng như một
bước trung gian trong quá trình lập bảng IO.
b. Một ứng dụng rất quan trọng trong việc lập bảng nguồn và sử dụng đó là
để cân đối và xác minh lại các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như GDP (theo 3 loại giá),
tiêu dùng, tích luỹ và xuất, nhập khẩu. Một trong những chỉ tiêu này được ước tính
không chính xác sẽ dẫn đến rất khó khăn trong cân đối nguồn và sử dụng (cân đối
SUT).
c. Tỷ lệ giá trị tăng thêm so với giá trị sản xuất của các ngành có thể được sử
dụng để ước tính giá trị tăng thêm hàng năm và hàng quí và từ đó tính được GDP.
d. Ứng dụng để tính chuyển giá trị sản xuất theo ngành kinh tế về giá trị sản
xuất theo ngành sản phẩm. Giá trị sản xuất thông thường được các vụ chuyên
ngành tính là theo ngành kinh tế, do đó việc sử dụng bảng nguồn để tính chuyển
giá trị sản xuất từ ngành kinh tế sang ngành sản phẩm là rất hữu ích cho việc tính
chuyển đổi giá.
e. Ứng dụng trong việc tính chuyển GDP về giá so sánh: ứng dụng này được
hầu hết các nước trên thế giới áp dụng.
Bốn ứng dụng sau của bảng SUT sẽ được đề cập chi tiết hơn trong phần III
của đề tài này.
16
PhÇn II : Thùc tr¹ng vÒ viÖc chuyÓn ®æi n¨m gèc so s¸nh vµ
tÝnh theo gi¸ so s¸nh ®èi víi mét sè chØ tiªu trong thèng kª
tµi kho¶n quèc gia
I. Sơ lược về bảng giá cố định và chọn các năm gốc so sánh đối với một số
chỉ tiêu trong thống kê TKQG
1. Năm gốc so sánh và bảng giá cố định
Từ khi thành lập ngành Thống kê đến nay, ở Việt Nam đã áp dụng hai phương
pháp hạch toán kinh tế quốc gia để phản ánh quá trình tái sản xuất xã hội, đó là hệ
thống bảng kinh tế quốc dân (Material Product System – MPS) và Hệ thống tài
khoản quốc gia (System of National Accounts – SNA) và đã 6 lần thay đổi năm
gốc so sánh đối với một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của hai phương pháp kể trên,
đó là các năm gốc 1958, 1961, 1970, 1982, 1989 và 1994. Cả hai phương pháp
hạch toán kinh tế quốc gia đều đo lường các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp theo giá thực
tế và giá so sánh. Theo giá thực tế, các chỉ tiêu phản ánh quá trình sản xuất, kết quả
sản xuất, quá trình hình thành thu nhập, phân phối thu nhập, sử dụng thu nhập theo
các giai đoạn/ thời kỳ khác nhau bao gồm cả yếu tố lượng và giá cả. Theo giá so
sánh, các chỉ tiêu này được đo lường dưới dạng giá trị của năm được chọn làm năm
gốc, mô tả riêng về tăng (trưởng) hay suy (giảm) khối lượng sản phẩm sản xuất
qua các giai đoạn/ thời kỳ.
Những năm được chọn làm năm gốc để so sánh chủ yếu căn cứ vào yêu cầu
quản lý, vào quan điểm hoạch định chính sách của Chính phủ, song thường là năm
có nền kinh tế phát triển ổn định, là năm “bản lề’’ của một thời kỳ phát triển kinh
tế của đất nước. Đối với một đất nước quản lý, điều hành nền kinh tế theo kế hoạch
(5 năm, 10 năm hay 20 năm) như nước ta thì năm được chọn làm năm gốc so sánh
thường là năm đầu của một kỳ kế hoạch. Cho đến năm 1994, năm được chọn làm
gốc để so sánh trong công tác thống kê Việt Nam là năm lập được bảng giá cố
định. Bảng giá cố định đầu tiên của Việt Nam là bảng giá cố định 1958, bảng giá
cố định hiện nay đang còn áp dụng là bảng giá cố định 1994. Các chỉ tiêu kinh tế
tổng hợp thuộc MPS và SNA tính theo giá so sánh chủ yếu bằng “phương pháp xác
định trực tiếp từ giá và lượng của từng loại sản phẩm”, tức là chỉ tiêu giá trị sản
xuất theo giá so sánh được tính bằng cách lấy khối lượng sản phẩm của năm cần
tính nhân ( x ) với đơn giá sản phẩm của năm gốc. Đây cũng là căn cứ cơ bản để
17
lập bảng giá cố định (tổng giá trị theo giá cố định của sản phẩm vật chất hoặc dịch
vụ nào đó bằng số lượng của chúng trong một thời kỳ nhất định nhân ( x ) với giá
cả của chúng trong năm gốc được “cố định” lại để so sánh). Muốn áp dụng phương
pháp này cần phải có số lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ của thời kỳ nghiên
cứu và giá cả của năm gốc có trong bảng giá cố định của năm gốc. Nguyên tắc xác
định giá cố định là :
+ Xác định giá cố định của một hàng hoá hoặc dịch vụ phải căn cứ vào giá
tiêu thụ phổ biến của các cơ sở sản xuất kinh doanh, đó là giá bán buôn không phải
là bán lẻ. Đối với các sản phẩm hàng hoá nếu không có giá bán buôn thì lấy giá
mua, bán thoả thuận của các cơ sở kinh doanh (người mua) và người sản xuất
(người bán). Đối với các hoạt động dịch vụ có thanh toán (dưới mọi hình thức)
giữa bên hưởng thụ và bên sản xuất dịch vụ, lấy giá tiêu thụ phổ biến. Đối với một
số hoạt động dịch vụ như giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, … sẽ xác định mức giá
bằng số tiền chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm dịch vụ.
+ Giá bình quân theo không gian : Trong bảng giá cố định, mỗi danh điểm
sản phẩm có qui cách, phẩm chất giống nhau, dù sản xuất ở các vùng khác nhau,
với công nghệ khác nhau hoặc do các thành phần kinh tế khác nhau, cũng chỉ có
một mức giá, đó là giá bình quân gia quyền các mức giá cá biệt của danh điểm đó.
+ Giá bình quân và giá riêng biệt : đối với loại sản phẩm có nhiều qui cách,
chủng loại khác nhau và đã xây dựng mức giá cụ thể cho từng qui cách, chủng loại
thì cũng phải xây dựng mức giá bình quân cho toàn bộ sản phẩm đó. Mức giá bình
quân dùng để tính giá cố định của toàn bộ sản phẩm chỉ biết số lượng chung của
toàn bộ sản phẩm mà không biết số lượng của từng qui cách, chủng loại sản phẩm.
2. Bảng giá cố định năm 1994
Cho đến năm 1994, trong vòng 50 năm, công tác thống kê giá cả ở Việt
Nam chưa phát triển để có thể áp dụng phương pháp chỉ số giá, vì vậy chỉ tiêu giá
trị sản xuất của các ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp và một số hoạt
động dịch vụ vẫn áp dụng phương pháp xác định theo đơn giá cố định. Việt Nam
đã lập được 6 bảng giá cố định của các năm 1958, 1961, 1970, 1982, 1989, bảng
giá cố định 1994 là bảng giá cố định cuối cùng dùng để tính chuyển chỉ tiêu giá trị
sản xuất bằng phương pháp xác định trực tiếp.
18
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này, xin được giới thiệu tóm tắt về
bảng giá cố định năm 1994.
Bảng giá cố định 1994 được ban hành theo Quyết định số 56/TCTK – TH
ngày 02/ 7/ 1994 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê thay thế bảng giá cố
định 1989.
Bảng giá cố định năm 1994 áp dụng thống nhất trong toàn quốc từ Trung
ương đến các đơn vị cơ sở, để tính toán các chỉ tiêu tổng hợp và làm căn cứ xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho thời kỳ 1996-2000.
Bảng giá cố định năm 1994 được xây dựng trên cơ sở giá kinh doanh phổ
biến của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trong thời kỳ 6 tháng đầu năm 1994
và có xem xét dự báo sự biến động trong cả năm 1994. Trong bảng giá cố định,
mỗi danh điểm sản phẩm có qui cách, phẩm chất giống nhau dù sản xuất ở các
vùng khác nhau, với công nghệ khác nhau cũng chỉ có một mức giá. Đối với loại
sản phẩm có nhiều qui cách, chủng loại khác nhau và đã xây dựng mức giá cụ thể
riêng biệt cho từng qui cách, chủng loại thì xây dựng mức giá bình quân cho loại
sản phẩm đó.
Bảng giá cố định năm 1994 gồm 8500 danh điểm hàng hoá, dịch vụ thuộc
các ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, xây dựng, khách sạn nhà
hàng, vận tải, bưu điện, y tế, văn hoá (so với bảng giá cố định năm 1989 đã
thêm các ngành, xây dựng, khách sạn nhà hàng, y tế, văn hoá). Căn cứ vào
kinh nghiệm lập các bảng giá cố định trước và khả năng xác định danh mục sản
phẩm, khối lượng sản phẩm và thu thập mức giá, Tổng cục Thống kê quyết định
danh mục các ngành kinh tế cấp 2 phải xây dựng giá cố định 1994 (theo phụ lục A
‘’phân công thu thập thông tin theo ngành kinh tế quốc dân của bảng giá cố định
1994 ‘’). Mỗi danh điểm trong bảng giá cố định 1994 được mã hoá bằng 7 chữ số
(4 chữ số đầu phản ánh đến ngành cấp 4 ; 3 chữ số sau phản ánh thứ tự sản phẩm
trong một ngành cấp 4).
Trong bảng giá cố định 1994, mỗi qui cách, chủng loại sản phẩm có cùng
một chất lượng chỉ có một vị trí duy nhất trong bảng giá, không phân biệt sản xuất
ở đâu, bằng công nghệ gì. Sản phẩm được phân loại theo chức năng sản xuất, kinh
doanh của ngành kinh tế trong VSIC 1993 ; trong mỗi ngành, sản phẩm vật chất và
dịch vụ được phân loại theo thứ tự ưu tiên : công dụng, qui trình công nghệ , nguồn
gốc nguyên vật liệu.
19
- Xem thêm -