Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo bộ luật dân sự năm 2005...

Tài liệu Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo bộ luật dân sự năm 2005

.PDF
79
447
121

Mô tả:

Trần ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN NGUYỄN NAM PHƢƠNG NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS BÙI ĐĂNG HIẾU HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Nguyễn Nam Phƣơng MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Đặt vấn đề ............................................................................................. 1 2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu ................................................. 6 3. Kết cấu nội dung của luận văn ............................................................. 7 4. Tài liệu tham khảo ................................................................................ 7 Chƣơng 1: THỪA KẾ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM .................................................................. 8 1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế .................................................... 8 1.2. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam .............................. 12 1.3. Khái niệm về di chúc và đặc điểm của di chúc .................................. 21 1.3.1. Khái niệm về di chúc .......................................................................... 21 1.3.2. Đặc điểm của di chúc ......................................................................... 24 1.4. Năng lực của người lập di chúc.......................................................... 27 Chƣơng 2: NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 ....... 31 2.1. Vấn đề hạn chế quyền của người lập di chúc ................................. 31 2.2. Chủ thể và điều kiện hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc ................................................................................................ 38 2.3. Cách xác định kỷ phần bắt buộc của người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc .................................... 41 2.4. Trình tự thụ hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ........................................................................................ 47 Chƣơng 3: MỘT SỐ TRƢỜNG HỢP TRANH CHẤP VỀ DI SẢN THỪA KẾ VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ ......................................................................................... 53 3.1. Một số trường hợp tranh chấp về di sản thừa kế và cách giải quyết ....... 53 3.1.1. Trường hợp thứ nhất........................................................................... 53 3.1.2. Trường hợp thứ hai............................................................................. 55 3.1.3. Trường hợp thứ ba .............................................................................. 56 3.1.4. Trường hợp thứ bốn ........................................................................... 58 3.1.5. Trường hợp thứ năm........................................................................... 60 3.2. Những kiến nghị về hướng hoàn thiện các quy định về thừa kế ........ 61 3.2.1. Một số vấn đề còn vướng mắc và giải pháp thực hiện ....................... 61 3.2.2. Kiến nghị ............................................................................................ 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Một trong những quyền cơ bản của công dân là quyền thừa kế. Quyền thừa kế gồm quyền của người để lại di sản thừa kế và quyền của người được hưởng di sản thừa kế. Quyền cơ bản này của công dân đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật từ thời trước cho đến hôm nay. Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật nói chung và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong quá trình phát triển của một chế độ xã hội nói riêng. Ở nước ta, lần đầu tiên pháp luật thành văn cũng đã quy định vấn đề này trong chương “Điền sản” [8] của Bộ Quốc triều hình Luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức). Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, qua nhiều biến cố lịch sử vấn đề thừa kế vẫn được ghi nhận và mở rộng hơn qua các văn bản pháp luật như: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Pháp luật thừa kế được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa, theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Lịch sử đã cho thấy rằng, quyền thừa kế nói chung và quyền thừa kế theo di chúc nói riêng của công dân Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua 1 các thời kỳ. Xét riêng về diện thừa kế, thì quyền thừa kế của công dân Việt Nam được mở rộng tương ứng với quan điểm, cách nhìn nhận đúng đắn hơn đối với mối quan hệ giữa người có tài sản để lại và những người thừa kế. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, đường lối nhằm đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; nhiều hình thức sở hữu được thừa nhận như một quy luật tất yếu, trong đó hình thức sở hữu tư nhân đã có được vị trí quan trọng. Việc thực hiện tốt các chủ trương, đường lối đó đã tạo thêm cơ sở cho sự phát triển quyền thừa kế của công dân Việt Nam. Các đạo luật cơ bản (Hiến pháp) từ trước đến nay đều thể hiện nguyên tắc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. Pháp luật về thừa kế từ trước đến nay đã nhất quán trên nguyên tắc cơ bản này và đã điều chỉnh kịp thời các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế, cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thừa kế. Về thừa kế theo di chúc: Nguyên tắc cơ bản là tôn trọng quyền tự định đoạt của người lập di chúc. Bên cạnh đó, cũng cần phải bảo vệ quyền lợi tối thiều cho những người gần gũi thân thích nhất của người có tài sản để lại sau khi chết. Chính vì vậy mà pháp luật đã có những quy định người lập di chúc phải để lại tài sản thừa kế của mình một phần tối thiểu bằng hai phần ba của một suất thừa kế nếu di sản thừa kế đó được chia theo pháp luật cho cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Đây là một vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu sâu để điều chỉnh các quy định của pháp luật về thừa kế để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế, góp phần hoàn thiện hơn nữa những quy phạm pháp luật về thừa kế ở nước ta. 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu tổng quát Việc nghiên cứu đề tài "Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005" nhằm làm rõ loại hình thừa kế di sản không phụ thuộc vào sự định đoạt theo ý chí của người có tài sản để lại, hạn chế quyền định đoạt chủ quan của người có tài sản để bảo đảm quyền lợi cho những người thừa kế khác. Đó chính là việc vừa hệ thống hóa các quy phạm pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình hình thành và phát triển từ trước đến nay, vừa phân tích và đánh giá hiệu quả điều chỉnh của chế định pháp luật này qua các thời kỳ phát triển của xã hội Việt Nam, từ đó một mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với chế định pháp luật quan trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận giúp cho việc thi hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các qui định về thừa kế, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chúng. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Xây dựng các khái niệm thừa kế, khái niệm quan hệ pháp luật thừa kế, khái niệm quyền thừa kế và khái niệm thừa kế theo di chúc, thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc ... Phân tích, lập luận để làm rõ quá trình xây dựng và phát triển những qui định pháp luật thừa kế ở nước ta từ trước đến nay để đánh giá nội dung những qui định về thừa kế qua từng giai đoạn phát triển. 1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Việc nghiên cứu đề tài: "Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005" trong luận văn này có được những điểm mới sau đây: - Xây dựng và hoàn thiện các khái niệm như: Thừa kế, quan hệ pháp luật thừa kế, quyền thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc để làm rõ tính đặc thù của thừa kế, từ đó góp phần vào 3 việc hoàn thiện hơn khoa học luật trong lĩnh vực thừa kế nói riêng và trong lĩnh vực dân sự nói chung; - Hệ thống hóa những quy định thừa kế theo di chúc về từng vấn đề lớn cụ thể qua các giai đoạn lịch sử để phân tích và đưa ra những nhận định làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển pháp luật thừa kế ở nước ta; - Phân tích, làm sáng tỏ quyền thừa kế của công dân Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử được củng cố, mở rộng và bảo vệ trong mối liên hệ hữu cơ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta qua mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, từ đó xác định được tầm quan trọng của chế định pháp luật này trong hệ thống pháp luật dân sự nước ta; - Từ lý luận và phân tích hiệu quả điều chỉnh các quy định thừa kế trong thực tiễn, có phát hiện những quy định thiếu tính khái quát, tính đồng bộ, toàn diện đang tồn tại, đưa ra những kiến nghị cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung một số điều luật và một số vấn đề khác chưa được qui định cần được bổ sung như: Quyền của các chủ nợ của người để lại di sản và của người thừa kế di sản...) trong Bộ luật Dân sự cho phù hợp, có hiệu lực cao và lâu dài trong đời sống xã hội. - Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các quy phạm pháp luật thừa kế nhưng vấn đề về thừa kế theo di chúc chưa được đề cập nhiều. Vì vậy tác giả chọn đề tại: “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005” để nghiên cứu nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong thực tiến áp dụng pháp luật. Từ đó đưa ra các kiến nghị để chế định thừa kế theo di chúc ngày càng hoàn thiện hơn. 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm pháp luật Việt Nam về thừa kế từ khi ban hành Bộ luật Hồng Đức, qua các giai đoạn phát triển của lịch sử đến nay. Do mức độ phức tạp trong lĩnh vực 4 thừa kế nói chung và vấn đề thực tiễn của nước ta nói riêng, trong bản luận văn chỉ đề cập đến vấn đề thừa kế theo Bộ luật dân sự năm 2005. Cùng với việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật, trong bản luận văn cũng đề cập và phân tích thực tiễn thi hành và áp dụng các quy phạm thừa kế. Ngoài ra, khi phân tích các quy định cụ thể, cũng đề cập đến một số quy định tương ứng trong pháp luật một số nước hiện nay để so sánh và đưa ra những kết luận, kiến nghị có tính tham khảo nhất định. Thừa kế vừa là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và phát triển khá phong phú. Chế định thừa kế được qui định trong Bộ luật dân sự năm 1995 (có hiệu lực từ ngày 01/7/1996) đã hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu khoa học về thừa kế theo di chúc cũng không nhiều. Một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trên các báo... mới chỉ dừng ở mức độ trả lời các câu hỏi về áp dụng pháp luật vào quan hệ thừa kế cụ thể hoặc mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh như: Về thời điểm mở thừa kế, thừa kế theo pháp luật, di chúc chung của vợ chồng, ... Vấn đề thừa kế nói chung còn được nghiên cứu khái quát ở một số sách chuyên khảo có tính chất phổ thông, như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế" của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế" của Tiến sĩ Đinh Văn Thanh và Luật sư Trần Hữu Biền, .... Ngoài ra, trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu ở bậc sau đại học, các luận văn thạc sĩ của tác giả: Nguyễn Thị Vĩnh, Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Chế Mỹ Phương Đài, Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật; Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Luận án tiến sĩ Luật, Đại học Luật Hà Nội; Phạm Ánh Tuyết, Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Hồng Nam, Các 5 điều kiện có hiệu lực của di chúc, Luận văn thạc sĩ Luật, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Việc chọn đề tài "Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005” để làm luận văn thạc sĩ luật không có sự trùng lặp nào đối với các đề tài đã thực hiện. Nội dung chính của luận văn bao gồm: - Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế - Các nguyên tắc pháp luật thừa kế - Khái niệm về di chúc và đặc điểm của di chúc - Năng lực của người lập di chúc - Vấn đề hạn chế quyền cua người lập di chúc - Chủ thể và điều kiện hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. - Cách xác định kỷ phần bắt buộc của người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Trình tự thụ hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Kiến nghị đề nghị sửa đổi những điểm bất cập về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong Bộ luật dân sự 2005: về tên gọi của Điều 669 Bộ luật dân sự 2005, về chủ thể được hưởng di sản theo Điều 669 Bộ luật dân sự, về quyền và nghĩa vụ của người được di tặng. 2. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu 2.1. Nội dung nghiên cứu Bản Luận văn nghiên cứu các quy định về vấn đề thừa kế trong Bộ luật Dân sự 2005. Ngoài ra còn nghiên cứu thêm pháp luật thừa kế qua các thời kỳ lịch sử của đất nước ta và một số quy định về thừa kế của một số nước trên thế giới để so sánh, phân tích các quy định về thừa kế, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn vấn đề thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam để 6 việc áp dụng pháp luật về vấn đề này trong thực tiễn xét xử của tòa án không còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành đã được sử dụng hợp lý trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, như phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê... để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra và giải quyết trong luận văn 3. Kết cấu nội dung của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 10 mục. 4. Tài liệu tham khảo Tài liệu nghiên cứu chủ yếu của bản luận văn là Bộ luật Dân sự 2005. Ngoài ra bản luận văn này còn tham khảo thêm các quy định pháp luật về thừa kế của các văn bản khác: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật Dân sự 1995 và các văn bản pháp luật của một số nước trên thế giới với phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích để kiến nghị sửa đổi những điểm bất cập nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung cũng như các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc nói riêng. 7 Chương 1 THỪA KẾ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế Người có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam là công dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được thể hiện theo hai chủ thể nhất định, đó là chủ thể để lại tài sản (quyền của người để lại di sản) và chủ thể hưởng thừa kế di sản (quyền của người nhận di sản). Quyền thừa kế thuộc về tổ chức được thể hiện theo một chủ thể nhất định, đó là chủ thể hưởng thừa kế di sản (và chỉ trong trường hợp thừa kế theo di chúc). Khi xem xét về vấn đề thừa kế thì di sản là một trong những vấn đề được quan tâm trước tiên. Di sản là cơ sở để thiết lập di chúc bên cạnh các căn cứ khác. Chỉ khi di sản còn tồn tại trên thực tế thì người lập di chúc mới có “cái” để định đoạt. Những người được thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Người có hay không có năng lực hành vi hoặc người có năng lực hành vi không đầy đủ đều có quyền hưởng di sản thừa kế. Trong trường hợp này, người giám hộ sẽ thực hiện giúp những người này các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi di sản họ được hưởng. Khi nhà nước ra đời, mỗi nhà nước đều sử dụng một công cụ hữu ích để quản lý xã hội là pháp luật. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong đời sống xã hội, thừa kế đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật dân sự, một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý. Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác. 8 Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc không nhận di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Đối tượng của thừa kế là các tài sản thuộc quyền của người đã chết để lại (trong một số trường hợp người để lại tài sản có thể chỉ để lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A có hợp đồng thuê quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn B với thời hạn là 10 năm (từ năm 2005 đến năm 2015) để trồng cây ăn quả. Đến năm 2012 thì ông A qua đời. Các con của ông A là C, D, E được thừa kế hoa lợi phát sinh từ việc trồng cây ăn quả của ông chứ không được thừa kế quyền sử dụng đất để trồng cây ăn quả đó). Nhìn nhận một cách tổng quan nhất thì “thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống” [34]. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng một cách kế tục. Theo phương diện này, Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa: “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho” [34]. Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người còn sống. Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có Nhà nước và pháp luật, thì nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi Nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật, nhà nước tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói trên, trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật nên từ đó, quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế. Nói cách khác, khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. Quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có giai cấp và Nhà nước. Bên cạnh nội dung kinh tế, quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của Nhà nước. Nghĩa là, việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống phải hoàn toàn tuân thủ các quy định của pháp luật. 9 Khi chưa xuất hiện Nhà nước, thừa kế được dịch chuyển theo phong tục, tập quán của các thị tộc, bộ lạc, thì khi Nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của Nhà nước. Giai cấp thống trị thông qua quyền lực nhà nước để áp dụng các phương pháp cưỡng chế nhằm tác động đến các quan hệ xã hội làm cho các quan hệ đó phát sinh, phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Nghĩa là khi có Nhà nước thì mọi quan hệ cũng như mọi sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội đều được pháp luật điều chỉnh. Thừa kế trong xã hội đã có nhà nước cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Vì thế, có thể nói rằng: khái niệm quyền thừa kế được xuất hiện và chỉ xuất hiện chừng nào có sự xuất hiện nhà nước và pháp luật. Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có Nhà nước và pháp luật thì đã có khái niệm về thừa kế. Nhưng chỉ khi xã hội đã phân chia giai cấp và có Nhà nước thì khái niệm về quyền thừa kế mới ra đời. Nhà nước quy định quyền để lại thừa kế và quyền nhận thừa kế của các chủ thể qua việc ban hành các văn bản pháp luật để quy định trình tự và các điều kiện dịch chuyển tài sản cũng như quy định các phương thức dịch chuyển tài sản từ người đã chết cho người còn sống khác. Quyền thừa kế sẽ được quy định các nhau trong mỗi chế độ xã hội khác nhau. Ở từng giai đoạn khác nhau trong một chế độ xã hội thì quyền thừa kế cũng được quy định khác nhau. Chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của một Nhà nước. Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của chế độ xã hội, pháp luật cũng có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Sự thay đổi đó được thể hiện thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Các quy phạm này không những phụ thuộc vào sự thay đổi của quan hệ sở hữu trong các chế độ xã hội khác nhau, mà còn phụ thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là quan hệ pháp luật về thừa 10 kế có sự biến đổi. Quan hệ thừa kế thể hiện rõ nét sự phát triển kinh tế - xã hội của các chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Khi đó quan hệ thừa kế không những là phạm trù pháp luật, mà còn được hiểu như là một phạm trù lịch sử. Như những phân tích ở trên, có thể nói rằng, quan hệ thừa kế là một phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Pháp luật về thừa kế xác định quyền thừa kế là quyền của cá nhân trong việc để lại di sản và quyền của những người nhận di sản thừa kế để điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Như đã lập luận ở trên thì quan hệ thừa kế là một loại quan hệ pháp luật phát sinh từ sự kiện chết của một cá nhân (chủ sở hữu tài sản) và khi có người thừa kế thực hiện quyền thừa kế của họ, khi đó tài sản và quyền sở hữu tài sản (di sản) của người chết được chuyển giao cho cá nhân hoặc tổ chức, gọi chung là người thừa kế. Thừa kế là quan hệ tài sản có tính đặc thù. Tính đặc thù được thể hiện như sau: trong các quan hệ dân sự khác, khi xác lập giao dịch các bên chủ thể đều còn sống và ý chí của các bên được thể hiện đồng thời, còn quan hệ thừa kế di sản chỉ phát sinh khi bên có tài sản chết hoặc được xác định là đã chết. Vậy, thừa kế được hiểu là "sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống". Quyền thừa kế cần được hiểu theo hai phương diện: khách quan và chủ quan: - Quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản (di sản) của người chết cho người còn sống. Đây là phương diện khách quan. 11 - Quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự cơ bản của công dân được để lại tài sản của mình cho những người còn sống và quyền của công dân được nhận di sản theo sự định đoạt của người có tài sản (bằng di chúc) hoặc theo một trình tự và thủ tục pháp luật nhất định (thừa kế theo pháp luật). Đây là phương diện chủ quan. Sự chuyển dịch di sản của người chết cho người còn sống theo mối quan hệ ràng buộc về huyết thống, gia đình hay thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản gọi là thừa kế theo pháp luật. Nếu họ không thực hiện quyền định đoạt bằng việc lập di chúc hoặc tuy có lập di chúc, song việc định đoạt đó bị hạn chế bởi pháp luật hay di chúc họ lập ra không có hiệu lực theo quy định của pháp luật thì việc quy định vấn đề thừa kế theo pháp luật là để bảo đảm quyền của người có tài sản được để lại tài sản của họ sau khi chết. Thừa kế theo pháp luật về bản chất là bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người có tài sản khi người này chết. Quan hệ thừa kế hay thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn. Tương tự như vậy, quyền thừa kế hay quan hệ pháp luật về thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống khi đã có sự tác động của pháp luật. Như vậy, thừa kế nói chung là quá trình dịch chuyển di sản từ người đã chết cho người còn sống. Nếu quá trình dịch chuyển này được thực hiện dựa trên ý chí của người đã chết thể hiện trong di chúc mà họ để lại sẽ được gọi là: Thừa kế theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển trên được thực hiện “Theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định” [6, Điều 674] sẽ được gọi là: Thừa kế theo pháp luật. 1.2. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam Nguyên tắc pháp luật thừa kế là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo 12 xuyên suốt trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật thừa kế. Thông qua đó góp phần phản ánh bản chất cũng những đặc trưng cơ bản của pháp luật ở nước ta. Vì vậy, từ khi hình thành đến nay, những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam được áp dụng chung cho cả hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật đã xuất hiện ngay từ khi có những văn bản pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế đã thể hiện rõ bản chất và những đặc trưng pháp luật về thừa kế ở nước ta. Những nguyên tắc pháp luật về thừa kế ở Việt Nam có thể kể đến cụ thể như sau: Thứ nhất, nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân: Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo hộ. Quy định này đã được khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 "... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" [23, Điều 58]. Trên cơ sở đó, Điều 631 Bộ luật dân sự đã xác định rõ nội dung của quyền này. Trước hết đảm bảo cho “cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình”[6, Điều 631]; có quyền “để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật” [6, Điều 631]; có quyền “hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [6, Điều 631]. Thậm chí là quyền từ chối nhận di sản thừa kế, được quy định tại khoản 1 Điều 642 Bộ luật dân sự “Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác” [6, Khoản 1 Điều 642]. Mặt khác, Nhà nước còn bảo hộ quyền thừa kế, thể hiện trong việc đảm bảo cho “công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, 13 nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác ... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” [23, Điều 58]. Do đó tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi người đó chết, được nhà nước tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Đây là một nội dung quan trọng đánh dấu sự phát triển mới và là bản chất ưu việt của pháp luật thừa kế ở nước ta. Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần của nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" [23, Điều 52] và Điều 5 Bộ luật dân sự “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau” [6, Điều 5]. Từ sự quy định mang tính khái quát đó, nên trong chế định riêng về thừa kế (phần thứ 4 Bộ luật dân sự 2005 và Luật Hôn nhân gia đình năm 2000) đã xác định rõ nội dung nguyên tắc này là: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [6, Điều 632]. "Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế " [26, Khoản 1, Điều 31] và “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” [26, Khoản 1 Điều 28]. Do vậy khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì "chia đôi", phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật. Ngay đối với các con, nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình. Chính vì vậy mà con đẻ, con nuôi, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá 14 thú, con trai hay con gái, có năng lực và hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được hưởng thừa kế bằng nhau nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Tóm lại, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ chính trị nói chung mà điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân trong lĩnh vực về thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững. Thứ ba, nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế Pháp luật không quy định về độ tuổi và năng lực nhận di sản thừa kế mà chỉ quy định quyền của cá nhân được hưởng quyền di sản. Do vậy, người có năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được nhận di sản thừa kế theo pháp luật phần ngang nhau nếu họ cùng thuộc hàng thừa kế được hưởng. Đối với người đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì chưa có năng lực pháp luật dân sự. Bởi vì, theo quy định của pháp luật thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết, pháp luật cũng có quy định bảo vệ quyền thừa kế của người con ra đời sau khi người cha chết mà người con đó còn sống thì được hưởng di sản của cha. Quy định tại Điều 685 Bộ luật Dân sự phù hợp và thống nhất với Điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình: “con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng” [26, Điều 63]. Cũng theo nguyên tắc trên, tại Điều 685 Bộ luật Dân sự có quy định: “Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra thì được hưởng; nếu chết trước 15 khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng” [6, Điều 685]. Pháp luật còn quy định: trong trường hợp đứa trẻ sinh ra được 24 giờ trở lên rồi sau đó chết thì đứa trẻ đó vẫn là là được thừa kế. Người thừa kế là người có khả năng được hưởng di sản theo quy định của pháp luật và là người phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế để được hưởng di sản. Nguyên tắc này loại trừ những người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước thì họ không được thừa kế di sản của nhau. Những người theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS: người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản” [6, Điều 643] cũng không phải là người thừa kế theo pháp luật do đã bị tước quyền thừa kế. Những người từ chối nhận di sản thừa kế hợp pháp cũng không được hưởng thừa kế di sản. Người thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự không thể nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác, như đã từng quy định tại Điều 31 Pháp lệnh thừa kế. Thứ tư, nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người để lại di sản và người hưởng di sản Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền về thừa kế. Mặt khác nó còn thể hiện một cách 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan