Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự việt nam...

Tài liệu Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự việt nam

.PDF
97
193
92

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VĂN CAO NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Công Bình HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Đà Nẵng, ngày tháng 01 năm 2013 TÁC GIẢ LUẬN VĂN LÊ VĂN CAO MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài.................................................................. 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài .............................................. 3 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài ............................................................ 3 5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài .................................................... 3 6. Tính mới và những đóng góp của luận văn.......................................... 4 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................ 4 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ .......... 6 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .............................................. 6 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự ......... 6 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự ....12 1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ................................................... 14 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự ......................................................................................... 14 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự ..... 18 1.3. MỐI QUAN HỆ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KHÁC CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ......................... 18 1.3.1. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự .................. 19 1.3.2. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .............................................................................................. 20 1.3.3. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng ............................. 22 1.3.4. Nguyên tắc hai cấp xét xử với nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ....................................................... 23 1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG QUYẾT ĐỊNH ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ................................................... 24 1.4.1. Ý thức, trình độ am hiểu pháp luật của đƣơng sự .............................. 25 1.4.2. Sự hỗ trợ đƣơng sự tham gia tố tụng của ngƣời đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự ....................................... 26 1.4.3. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng ............. 27 Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 28 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ......................... 29 2.1. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÕA ÁN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ................. 29 2.1.1. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về cấp xét xử sơ thẩm và thực tiễn thực hiện.......................................... 29 2.1.2. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về cấp xét xử phúc thẩm và thực tiễn thực hiện...................................... 43 2.2. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN.... 49 2.2.1. Tính chất của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật ..... 49 2.2.2. Những vấn đề chung về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật ............................................................................... 51 Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 55 Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .............. 56 3.1. CÁC YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHÍNH CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.... 56 3.1.1. Yêu cầu từ đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ................. 56 3.1.2. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội và quá trình hội nhập quốc tế ................................................................................................ 57 3.2. CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ............................................................ 58 3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật...................................................... 58 3.2.2. Kiến nghị về một số biện pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam ......................................... 70 Kết luận chương 3 ......................................................................................... 83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 HĐTPTANDTC: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao HĐXX: Hội đồng xét xử HTND: Hội thẩm nhân dân KSV: Kiểm sát viên LSĐBSBLTTDS: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 LTCTAND: Luật tổ chức Tòa án nhân dân PLTTGQCTCLĐ: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 PLTTGQCVAKT: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994 TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TTDS: Tố tụng dân sự UBND: Ủy ban nhân dân UBTP: Ủy ban thẩm phán VADS: Vụ án dân sự VKS: Viện kiểm sát VVDS: Vụ việc dân sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (LTCTAND), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) đƣợc ban hành và có hiệu lực thi hành, thẩm quyền, trình tự và thủ tục xét xử các vụ án dân sự (VADS) đã đƣợc quy định các văn bản này và các văn bản hƣớng dẫn khá cụ thể và khoa học. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện tại các Tòa án vẫn còn hiện tƣợng các VADS đƣợc giải quyết một cách chậm trễ, kéo dài gây lãng phí, tốn kém cho ngƣời dân và Nhà nƣớc. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đó là do các quy định về những vấn đề liên quan đến nguyên tắc hai cấp xét xử và việc thực hiện chúng còn nhiều bất cập, khiến cho tình trạng chồng chéo thẩm quyền, lấn sân, lẫn lộn trách nhiệm giải quyết VADS giữa các Tòa án khác cấp với nhau vẫn xảy ra thƣờng xuyên. Theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, thì Tòa án là trung tâm của quá trình cải cách tƣ pháp. Trong quá trình cái cách tƣ pháp đối với Tòa án, việc đình hình rõ, điều chỉnh và bổ sung các quy định của pháp luật về tổ chức Tòa án và pháp luật tố tụng để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử đƣợc sử dụng một cách phù hợp, tạo thuận lợi cho quá trình xét xử các VADS, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) [17]. Trên thực tế hiện nay, ở nƣớc ta đang triển khai thí điểm xây dựng mô hình Tòa án khu vực ở các địa phƣơng nhằm có những đổi mới căn bản về tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan trong hệ thống Tòa án. Việc thí điểm này rất cần sự nghiên cứu, đánh giá ở nhiều khía cạnh nhằm tìm ra mô hình tổ chức Tòa án hợp lý nhất, trong đó có những vấn đề cụ thể liên quan đến các cấp xét xử trong tố tụng dân sự (TTDS). Việc nghiên cứu nguyên 1 tắc hai cấp xét xử trong TTDS Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ ở phƣơng diện thực tiễn. Vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài: "Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng nói chung và nguyên tắc hai cấp trong pháp luật TTDS nói riêng là một vấn đề tố tụng cơ bản. Do đó, trong những năm qua đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ khác nhau nhƣ bài "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 11/2003 và bài “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Toà án các cấp” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 5/2007 của Phó giáo sƣ, tiến sỹ Trần Văn Độ; bài“Về chế độ hai cấp xét xử” của Vũ Văn Nhiêm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 7/2003); bài “Quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự nước ta” của Thạc sỹ Tống Công Cƣờng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2006; bài “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự” của tiến sỹ Nguyễn Quang Hiền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8, tháng 4/2010; luận án tiến sĩ luật học “Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của nghiên cứu sinh Lê Thị Hà bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2005 v.v... Các công trình này đã nghiên cứu làm sáng tỏ đƣợc nhiều nội dung của “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng” nói chung và “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự” nói riêng nhƣng cũng còn nhiều nội dung chƣa đƣợc các công trình này nghiên cứu sâu và toàn diện. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu quan trọng để học viên tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tƣợng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,” các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án các cấp. Phạm vi nghiên cứu đề tài của luận văn chỉ giới hạn trong những vấn đề lý luận cơ bản về “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” nhƣ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, mối quan hệ và các yếu tố quyết định đến việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án trong những năm gần đây, đặc biệt là các nội dung liên quan đến cấp XXST và XXPT đối với các VADS. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin về Nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về cải cách tƣ pháp và cải cách nền hành chính quốc gia. Việc thực hiện luận văn còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết, đánh giá của ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ ... để những kiến nghị, đề xuất về các cấp xét xử trong tố tụng có cơ sở thực tiễn. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu học viên còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ phƣơng pháp so sánh, tổng hợp, tiếp cận hệ thống, lịch sử, thống kê v.v... để hoàn thành luận văn này. 5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài Học viên nghiên cứu đề tài này, trƣớc hết với mục đích để học hỏi, trao dồi kiến thức, rèn luyện, nâng cao trình độ của chính bản thân về pháp luật dân sự và hoàn thành chƣơng trình học luật dân sự. Bên cạnh đó, thông qua công trình nghiên cứu, tác giả mong muốn đóng góp một số kiến nghị 3 nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS Việt Nam hiện nay. 6. Tính mới và những đóng góp của luận văn Luận văn với đề tài "Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về các nội dung liên quan đến nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS hiện Việt Nam hiện nay và có những điểm mới cụ thể sau: Thứ nhất, luận văn đã hệ thống những vấn đề liên quan đến các nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS. Thứ hai, luận văn phân tích làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS nhƣ thẩm quyền xét xử theo các cấp sơ thẩm, phúc thẩm và những nội dung liên quan đến các cấp xét xử này. Từ đó, luận văn đã chỉ ra những bất cập, những đòi hỏi cần đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xét xử các VADS tại Tòa án, hạn chế và đi đến khắc phục, chấm dứt tình trạng các VADS bị kèo dài thời gian giải quyết, các Tòa án đẩy đi đẩy lại cho nhau qua nhiều lần xét xử không mang lại hiệu quả giải quyết tranh chấp. Thứ ba, luận văn nêu lên những đề xuất các kiến nghị nhằm thực hiện định hƣớng của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, trong đó có vấn đề liên quan đến việc tổ chức thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử trong TTDS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chƣơng: 4 Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện Chương 3: Yêu cầu và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Để tìm hiểu khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS Việt Nam một cách toàn diện, trƣớc hết cần tìm hiểu các khái niệm liên quan nhƣ “nguyên tắc”, “xét xử”, “sơ thẩm”, “phúc thẩm”. Đồng thời tìm hiểu mối liến hệ giữa các cấp xét xử với nhau trong mối tƣơng quan của hoạt động TTDS. “Nguyên tắc” trong tiếng Việt là “cách thức làm đầu mối cho các việc khác” [2, tr.1029], hay nguyên tắc là thuật ngữ đƣợc dùng để chỉ “điều cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [26, tr.694]. Trong khi đó, nguyên tắc cơ bản trong một đạo luật là những quy định mang tính khái quát, những quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt trong cả đạo luật đó [47, tr.16]. Những nguyên tắc này thể hiện nhận thức, quan điểm về mục đích, vai trò của TTDS, quan niệm về tổ chức tƣ pháp dân sự cũng nhƣ việc thực hiện các hoạt động TTDS. “Xét xử” trong tiếng Việt có nghĩa là “xét rõ các sự kiện rồi xử theo đúng pháp luật” [2, tr.1652]. Còn theo Từ điển Luật học, “xét xử” là hoạt động do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó Tòa án, sau khi nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan” [43, tr.88]. Bên cạnh đó, về phƣơng diện tổ chức quyền lực nhà nƣớc xét xử còn đƣợc hiểu là hoạt động đặc trƣng, là chức 6 năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất ở nƣớc ta có chức năng xét xử, mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải thông qua hoạt động xét xử. Từ phƣơng diện này, có thể hiểu xét xử là một dạng hoạt động đặc biệt của Nhà nƣớc do Tòa án tiến hành theo trình tự, thủ tục và các nguyên tắc nhất định nhằm giải quyết khách quan, toàn diện, đầy đủ các vụ án. Đối với khái niệm xét xử vụ việc dân sự (VVDS) đƣợc hiểu là dạng hoạt động đặc biệt của Tòa án tiến hành theo trình tự, thủ tục và các nguyên tắc nhất định nhằm giải quyết các VVDS bằng việc ra bán án, quyết định theo quy định của pháp luật. “Cấp” trong tiếng Việt nghĩa là “tầng lớp sự việc” [2, tr.179]. Hiện nay mặc dù trong hoạt động tố tụng nói riêng hay trong hoạt động và tổ chức của lĩnh vực tƣ pháp nhiều ngƣời đề cập đến cấp xét xử một cách phổ biến. Thế nhƣng pháp luật hiện hành lại không định nghĩa cụ thể khái niệm “cấp xét xử”. Trong khoa học pháp lý Liên xô cũ, ngƣời ta quan niệm cấp xét xửnhƣ là “giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án với thẩm quyền xác định.” Quan niệm này cũng đƣợc nhận thức tƣơng đối phổ biến trong khoa học pháp lý nƣớc ta. Xuất phát từ đây, ngƣời ta cho rằng trong tố tụng tồn tại các cấp xét xử là xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. [20] Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nƣớc về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án,bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Vì vậy, các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ án có thể đƣợc tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án [20]. “Tố tụng, tố tụng dân sự” theo từ điển Hán Việt "tố tụng" là việc thƣa 7 kiện, "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố tụng [1, tr. 302]. Hay Tố tụng" là vạch tội và đƣa ra cửa công để phân giải phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thƣa kiện ở cửa công để xin phân phải trái" [21, tr.1027-1028]. Nhƣ vậy có thể hiểu đơn giản “tố tụng” là việc thƣa kiện ở Tòa án. TTDS đƣợc hiểu là trình tự, thủ tục giải quyết các VVDS, các VADS tại Tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. “Sơ thẩm”, trong tiếng Việt là “xét xử một vụ án với tƣ cách là Tòa án ở cấp xử thấp nhất" [45, tr.869] hay là “xét xử lần đầu một vụ việc ở Tòa án cấp thấp” [48, tr.1460]. Dƣới góc độ thuật ngữ pháp lý, "Sơ thẩm là việc Tòa án xét xử lần đầu một vụ án" [33, tr. 312]. Từ những khái niệm trên có thể hiểu, XXST là hoạt động xét xử lần đầu VVDS của Tòa án cấp cấp sơ thẩm, kết quả giải quyết vụ việc đƣợc thể hiện bằng bản án, quyết định của Tòa án và có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại ở Tòa án cấp phúc thẩm theo trình tự, thủ tục luật định. “Phúc thẩm”, trong tiếng Việt là “việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do Tòa án cấp dƣới đã xử sơ thẩm mà có chống án” [45, tr.790-791]. Dƣới góc độ thuật ngữ pháp lý “Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại VADS mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dƣới chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật [40, tr.174] hay « Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại VADS mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật [41, tr.303]. Nhƣ vậy có thể hiểu XXPT là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Trong hoạt động TTDS của Tòa án, dựa trên nội dung, mục đích và cơ sở pháp lý, hai cấp XXST và phúc thẩm có mối liên hệ với nhau đƣợc thể hiện ở các điểm sau: 8 Thứ nhất, tại cấp XXST tất cả những vấn đề thuộc nội dung vụ việc lần đầu đƣợc xem xét, đánh giá và kết luận, trong khi đó cấp phúc thẩm xét xử lại vụ việc đƣợc xét xử ở cấp sơ thẩm mà bán án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Nhƣ thế, việc XXPT luôn đi sau, dựa trên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Có bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị mới có việc XXPT, mới có bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm. Thứ hai, mục đích của XXST là giải quyết các vấn đề dựa trên yêu cầu của các đƣơng sự theo quy định của pháp luật để có quyết định, bản án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Trong khi đó, mục đích của XXPT là nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị. XXPT nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định chƣa có hiệu lực của Tòa án cấp sơ thẩm. Thứ ba, cơ sở phát sinh hoạt động giải quyết các VADS ở cấp sơ thẩm là dựa trên yêu cầu, hành vi khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Trong khi đó cơ sở phát sinh của cấp XXPT là dựa trên kháng cáo của đƣơng sự, ngƣời đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát (VKS). Từ nội dung kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của các phán quyết mà Tòa án cấp sơ thẩm đã đƣa ra. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không thể xét xử những nội dung vƣợt ra ngoài phạm vi những vấn đề mà cấp sơ thẩm đã xem xét, quyết định. Hoạt động TTDS là một dạng của hoạt động thực tiễn, có tính khoa học. Để đảm bảo hoạt động này hoàn toàn tuân thủ pháp luật, khách quan, một yêu cầu tất yếu đặt ra là các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoạt động trong khuôn khổ các nguyên tắc tố tụng. Nguyên tắc TTDS đƣợc hiểu là 9 những quy định pháp luật cơ bản có tính bắt buộc chung, định hƣớng cho toàn bộ quá trình tố tụng hoặc một số hoạt động tố tụng nhất định đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của nền tƣ pháp nƣớc ta nói riêng và trong các nƣớc theo hệ thống luật dân sự, với mô hình truyền thống của các nƣớc châu Âu lục địa. Khác với nguyên tắc chung thẩm ở các nƣớc theo hệ thống thông luật nhƣ Anh, Mỹ [13, tr.74] [14]. Ở nƣớc ta, nguyên tắc hai cấp xét xử trƣớc đây đƣợc quy định tại Điều 9 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 và tại Điều 8 Sắc luật số 01/SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định về tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) và viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Tuy nguyên tắc này không đƣợc quy định trong Luật tổ chức Tòa án năm 1980 nhƣng đến LTCTAND thì nguyên tắc này lại đƣợc quy định tại Điều 11. Khi BLTTDS đƣợc ban hành thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử đƣợc quy định tại Điều 17 của Luật này [10, tr.45]. Nội dung cơ bản của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS nƣớc ta hiện nay đƣợc thể hiện tại các Điều 17 BLTTDS và các điều luật khác nhƣ Điều 245 (Thời hạn kháng cáo), Điều 247 (Kháng cáo quá hạn) và Điều 252 (Thời hạn kháng nghị) của BLTTDS với những nội dung cơ bản sau: Một là, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị mà chƣa có hiệu lực ngay. Hai là, bản án, quyết định cấp phúc thẩm có hiệu lực ngay mà không bị kháng cáo kháng nghị. Nội dung này nhằm đảm bảo tính nhanh chóng trong hoạt động tố tụng, tránh việc lạm dụng quyền yêu cầu kháng cáo, kháng nghị để kéo dài vụ án. Nếu không quy định bản án cấp phúc thẩm có hiệu lực ngay sẽ dẫn đến cách hiểu bất kỳ quyết định, bản án nào của Tòa án đều có thể kháng cáo, kháng nghị, điều này sẽ làm kéo dài thêm thời gian 10 giải quyết VADS tại Tòa án, gây lãng phí thời gian và tiền bạc của các đƣơng sự và nhà nƣớc. Ba là, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi những phần đƣơng sự đã kháng cáo, những nội dung mà VKS kháng nghị thuộc nội dung bản án sơ thẩm đã giải quyết. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vƣợt ra ngoài phạm vi nêu trên, xét xử cả những yêu cầu mới sẽ vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử. Nội dung này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa hai cấp xét xử với nhau, trong đó cấp sơ thẩm là tiền đề là bƣớc giải quyết cơ bản và quan trọng nhất, chỉ những trƣờng hợp cần thiết phải xem xét lại, kiểm tra lại bản án trong một thời hạn mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực và có kháng cáo, kháng nghị thì mới đƣợc xem xét giải quyết ở cấp phúc thẩm. Bốn là, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc mọi chủ thể tuyệt đối chấp hành và không thể bị thay đổi hay bãi bỏ. Liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đây đƣợc xem là một thủ tục đặc biệt để xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong những trƣờng hợp đặc biệt. Mặc dù cũng là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp dƣới, nhƣng thủ tục giám đốc thẩm cơ bản khác với thủ tục phúc thẩm từ trình tự kháng nghị cho đến thủ tục giám đốc. Nếu đối tƣợng của phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật, thì đối tƣợng giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đƣơng sự không đƣợc quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngƣời kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải là ngƣời có thẩm quyền của TAND hoặc VKSND. Từ những nội dung trình bày trên đây, có thể đến kết luận: “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS Việt Nam là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, là tư tưởng chỉ đạo mang tính 11 quyền lực Nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các VADS, theo đó một VADS được xét xử lần đầu ở cấp XXST và có thể được xét xử lại lần thứ hai ở cấp XXPT nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.” 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự 1.1.2.1. Ý nghĩa pháp lý của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Ở khía cạnh pháp lý, nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động TTDS ở nƣớc ta nói riêng, trong hệ thống tƣ pháp ở nƣớc ta nói chung. Trong tiến trình lập pháp, những nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhƣ nguyên tắc hai cấp xét xử sẽ là một định hƣớng rất quan trọng để các nhà làm luật xây dựng quy trình tố tụng phù hợp với thực tiễn, đồng thời là một cơ sở mang tính pháp lý nền tảng để xây dựng hệ thống xét xử trong TTDS một cách đồng bộ và ngày càng hoàn thiện. Nếu quyết định, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực có thể bị kháng cáo, kháng nghị và XXPT sẽ làm cho phát quyết cuối cùng của Tòa án có độ chính xác cao hơn, qua đó các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích của mình, lợi ích của công dân, nhà nƣớc. Thủ tục phúc thẩm sẽ bảo đảm cho những phán quyết nhân danh Nhà nƣớc của Tòa án, trƣớc khi có hiệu lực pháp luật phải luôn đƣợc xem xét một cách thận trọng, bảo đảm tính đúng pháp luật. Về phía Tòa án, việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử theo đó Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa, hủy bản án, quyết định sơ thẩm sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc phải, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Nguyên tắc hai cấp xét xử cũng tạo ra điều kiện để Tòa án cấp trên có thể kiểm tra chất lƣợng xét xử của 12 Tòa án cấp dƣới, hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới xét xử đúng pháp luật, từ đó nâng cao chất lƣợng xét xử tại các cấp xét xử của Tòa án qua việc thƣờng xuyên hƣớng dẫn, bồi dƣỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm cho đội ngũ thẩm phán. Nhƣ vậy, ở phƣơng diện pháp lý nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc rất quan trọng đối với tiến trình TTDS nói riêng, có ý nghĩa rất to lớn đối với thực tiễn áp dụng pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật nói chung. 1.1.2.2. Ý nghĩa chính trị, xã hội của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Thứ nhất, về ý nghĩa chính trị thì việc pháp luật tố tụng nƣớc ta hiện hành quy định nguyên tắc hai cấp xét xử là phù hợp với mục tiêu của Đảng và Nhà nƣớc ta là thực hiện dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đƣợc ghi nhận tại Điều 3 của Hiến pháp năm 1992 [28]. Nguyên tắc hai cấp xét xử còn thể hiện nhận thức tôn trọng sự vận động và phát triển phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự vận động và phát triển là không ngừng nghỉ. Theo đó nhận thức của con ngƣời về sự vật, hiện tƣợng cũng luôn có sự vận động, phát triển nên không phải khi nào con ngƣời cũng nhìn nhận sự vật, hiện tƣợng đúng đắn ngay từ lần nhận thức thứ nhất. Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử phù hợp với quy luật nhận thức nhằm đảm bảo tính khách quan, đúng đắn của hoạt động xét xử của Tòa án đồng thời thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nƣớc trong việc đƣa ra phán quyết đồng thời khi thấy phán quyết sai thì phải sửa chữa, khắc phục sai lầm, thể hiện rõ bản chất của nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Ngoài ra, với nguyên tắc hai cấp xét xử, quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ pháp đƣợc tôn trọng và bảo vệ một cách hiệu quả. Các chủ thể tham gia tố tụng có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình không chỉ một 13 lần duy nhất, mà với nguyên tắc này họ có quyền kháng cáo, đề nghị cơ quan có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Thứ hai, về ý nghĩa xã hội, cũng nhƣ các nguyên tắc cơ bản khác của TTDS, nguyên tắc hai cấp xét xử có vai trò tác động lên ý thức pháp luật của mọi công dân, giúp công dân hiểu rõ đƣợc đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về bản chất của pháp luật TTDS. Nguyên tắc hai cấp xét xử góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công tâm, minh bạch, uy tín trong hoạt động xét xử của Tòa án thông qua việc sửa chữa sai lầm, khắc phục hậu quả ở cấp xét xử thứ hai. 1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nƣớc và pháp luật thì nguyên tắc của pháp luật là nguyên lý, tƣ tƣởng chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm, cấu thành một bộ phận quan trọng nhất, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt, thấm nhuần toàn bộ nội dung cũng nhƣ hình thức của hệ thống pháp luật, là cơ sở chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động tƣ pháp với nhiệm vụ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đƣợc tiến hành nhanh chóng và đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích Nhà nƣớc, lợi ích công cộng. Vì vậy, hoạt động TTDS đƣợc tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTDS quy định với những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc của TTDS là những nguyên lý, những tƣ tƣởng chỉ đạo, các định hƣớng chi phối tất cả các giai đoạn hoặc một số giai đoạn nhất định của quá trình TTDS đƣợc thể hiện dƣới hình thức các quy phạm pháp luật TTDS [42, tr.13]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan