Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

.PDF
146
240
93

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VŨ NGỌC QUANG NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Trần Anh Tuấn HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Vũ Ngọc Quang MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Bảng viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .......................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................3 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài luận văn ...................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn ..................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn ................................................................5 6. Những đóng góp mới của luận văn .........................................................................5 7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ...................................................................7 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ............................................................................................................7 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..................................................................................................10 1.2. Cơ sở của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự .................................................................................................11 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..............................................................................................11 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong trong tố tụng dân sự ..........................................................17 1.3. Mối quan hệ của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự với các nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự ........27 1.3.1. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự .....................................................................................27 1.3.2. Mối quan hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ...........................................................................................29 1.3.3. Mối quan hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự ......................................................................................................31 1.3.4. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự ............33 1.3.5. Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự .....................................................................................34 1.4. Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự trong pháp luật Việt Nam.........................35 1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ........................................................35 1.4.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1980 ................................................................39 1.4.3. Giai đoạn từ 1980 đến 2004 ........................................................................40 1.4.4. Giai đoạn từ 2004 đến nay ..........................................................................43 Kết luận chương 1 ...................................................................................................45 Chương 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH ........................47 2.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Toà án cấp sơ thẩm ...................47 2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự ............................................................47 2.1.2. Kiểm sát việc ra bản án, quyết định tố tụng ................................................50 2.1.3. Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ...........................55 2.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Toà án cấp phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ..............................................................76 2.2.1. Kiểm sát thông qua việc kháng nghị phúc thẩm và tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm ............................................................................76 2.2.2. Kiểm sát thông qua việc kháng nghị và tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ..............................................................................................85 2.3. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị ........................................................90 2.3.1. Thực hiện quyền yêu cầu.............................................................................90 2.3.2. Thực hiện quyền kiến nghị ..........................................................................92 Kết luận chương 2 ...................................................................................................94 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................................96 3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..................................................................................96 3.1.1. Thực tiễn thực hiện kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự .............................96 3.1.2. Thực tiễn thực hiện việc kiểm sát bản án, quyết định .................................99 3.1.3. Thực tiễn thực hiện việc tham gia phiên tòa, phiên họp ...........................104 3.1.4. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án ........................................................................................................108 3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..........................................................................................114 3.2.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..............115 3.2.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ............................................................................119 3.2.3. Các kiến nghị bảo đảm tổ chức thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS ................................................................127 Kết luận chương 3 .................................................................................................129 KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................131 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................135 BẢNG VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng Dân sự CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa KSV : Kiểm sát viên KSVTTPL : Kiểm sát việc tuân theo pháp luật PLTTGQCVADS : Phap lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự PLTTGQCVAKT : Phap lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế PLTTGQCTCLĐ : Phap lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động TAND : Tòa án nhân dân TTDS : Tố tụng dân sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng thành côngCách mạng Tháng tám năm 1945. Từ đó, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Trong hơn 65 năm xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ máy Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc thành lập, kiện toàn và cải cách các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước ta, VKSND có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế thống nhất, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn cách mạng của đất nước. Trước yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn mới, trong những năm qua, cùng với việc thực hiện cải cách, hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói chung, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, trong đó có tổ chức và hoạt động của VKSND với yêu cầu VKSND tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là vấn đề có tính đặc thù, xuất phát từ yêu cầu khách quan, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của VKSND, được thực hiện trong một số lĩnh vực, trong đó có hoạt động kiểm sát việc thuân theo pháp luật (KSVTTPL) trong tố tụng dân sự (TTDS). Xét về mặt lịch sử, ở nước ta, thực chất sự tham gia của Viện kiểm sát (VKS) vào quá trình TTDS giải quyết các vụ việc dân sự đã được ghi nhận từ thời kỳ cơ quan Công tố - tiền thân của VKSND. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, vị trí, vai trò của VKS trong TTDS được ghi nhận ở những mức độ khác nhau, từ việc quy định những quyền hạn của VKS trong TTDS rải rác ở các văn bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đến việc khẳng định, ghi nhận KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS và là cơ sở để quy định trách nhiệm, thẩm quyền cụ thể của VKSND trong TTDS. 1 Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, thời gian qua đã có quan điểm cho rằng, trong lĩnh TTDS không cần có sự tham gia can thiệp của VKSND, bởi vì đây là lĩnh vực chỉ liên quan đến lợi ích của các đương sự và là việc của các bên đương sự. VKSND can thiệp vào lĩnh vực TTDS là trái với nguyên tắc quyền quyết định, tự định đoạt của đương sự. Đây cũng là lý do mà BLTTDS năm 2004 đã hạn chế phạm vi KSVTTPL trong TTDS của VKSND. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thi hành, bên cạnh thành tựu đạt được, BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập mà một trong những hạn chế, bất cập đó là mặc dù tiếp tục quy định KSVTTPL là nguyên tắc cơ bản của TTDS và VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng đã loại bỏ một số thẩm quyền của VKSND, hạn chế phạm vi hoạt động kiểm sát so với quy định của pháp luật trước đó, chưa có cơ chế thích hợp để VKS thực hiện được đầy đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Trong khi đó, với việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập đất nước hiện nay, các tranh chấp dân sự phát sinh ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mà trước hết là lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự kịp thời và đúng pháp luật trở thành các yêu cầu quan trọng cần được giải quyết trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách tư pháp. Mặt khác, xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể của đất nước, từ đặc điểm chính trị, từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta cũng như lịch sử quá trình hình thành, phát triển, những thành tựu và hiệu quả trong hoạt động thực hiện chức năng của VKSND cho thấy cần thiết phải có sự can thiệp của VKSND vào quá trình tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự theo hướng mở rộng phạm vi hoạt động kiểm sát, tạo cơ chế thuận lợi để VKSND thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, với yêu cầu VKSND phải thực hiện có hiệu quả và tốt hơn chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, thì việc nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nội dung của nguyên tắc KSVTTPL trong 2 TTDS và thực tiễn thực hiện nguyên tắc, trên sơ sở đó kiến nghị đề xuất các kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc này trong TTDS là rất cần thết, có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước tình hình đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đã thu hút sự quan tâm bàn luận của các chuyên gia pháp lý, những người hoạt động thực tiễn trong các cơ quan tư pháp về hoạt động của VKSND thể hiện qua các công trình nghiên cứu, bài viết về VKSND, như: “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của tập thể tác giả, do TS. Khuất Văn Nga làm chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp 2008; “Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp” của TS. Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát số 14-16/2008; “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát trong chiến lược cải cách tư pháp” của PGS. TS. Trương Đắc Linh, Tạp chí Kiểm sát số 14-16/2008; “Bàn về thẩm quyền khởi tố (khởi kiện) của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát số 24/2010; “Viện kiểm sát hay Viện công tố” của PGS, TS. Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 2 (39)/2007; “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” của Phạm Vũ Ngọc Quang, Tạp chí Kiểm sát số 3/2004... Nghiên cứu những công trình, tài liệu này cho thấy, nhìn chung tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy và một số quyền hạn của VKS trong TTDS mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. Vì vậy, tác giả vẫn mạnh dạn chọn đề tài “Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài luận văn 3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS; trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện hiệu quả nguyên tắc theo yêu cầu cải cách tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài luận văn Để đạt được mục đích đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn có các nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và mối quan hệ giữa nguyên tắc này với các nguyên tắc cơ bản khác của TTDS. - Nghiên cứu và tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới về vai trò, trách nhiệm của Viện công tố/VKS trong TTDS để thấy được những ưu điểm phù hợp với điều kiện của nước ta cần tiếp thu; làm rõ lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. - Nghiên cứu làm rõ nội dung nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS, các quy định của pháp luật TTDS cụ thể hoá nguyên tắc này và chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật quy định về nguyên tắc. - Khảo sát thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn. - Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc, đề xuất các kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS; nội dung nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và các 4 quy định của BLTTDS (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011) cụ thể hóa nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với các quy định tương ứng của pháp luật một số nước về vai trò, trách nhiệm của Viện công tố/VKS để tham khảo. Đề tài “Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” là một đề tài có nội dung khá rộng. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, với thời gian triển khai nghiên cứu hạn chế, do vậy phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc KSVTTPL trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án như khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc, cơ sở của việc quy định nguyên tắc, mối quan hệ giữa nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS với các nguyên tắc cơ bản khác của TTDS; những nội dung cơ bản của nguyên tắc trong pháp luật mà không đi sâu nghiên cứu về việc KSVTTPL trong thi hành án dân sự. Ngoài ra, khi triển khai nghiên cứu về thực tiễn thực hiện nguyên tắc, luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan về thực tiễn KSVTTPL trong TTDS nói chung và từ đó lồng ghép phân tích về thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Trị trong những năm gần đây. Việc định hướng nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa thiết thực và phục vụ trực tiếp cho công tác kiểm sát giải quyết án dân sự tại địa phương nơi học viên công tác. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam và cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia … 6. Những đóng góp mới của luận văn Có thể nói, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu khoa học toàn diện, có hệ thống và mới nhất ở cấp độ luận văn thạc sĩ về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn sau đây: 5 - Làm rõ khái niệm nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc xác định KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS trong điều kiện cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. - Làm rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS quy định tại Điều 21 và một số quy định cụ thể của BLTTDS năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011) có liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của VKSND trong TTDS. - Chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS; những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc. - Đề xuất được các nội dung xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. Với kết quả nghiên cứu, đề tài luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và là cơ sở để tiếp tục ghi nhận, khẳng định KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam. Các kiến nghị mà tác giả đưa ra trong đề tài luận văn là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện pháp luật, giúp cho những người làm công tác thực tiễn về kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự xác định đúng và sử dụng đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của VKS trong TTDS, góp phần thực hiện hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 03 chương, 09 tiết. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Bất kỳ hoạt động có mục đích nào muốn đạt được kết quả, đòi hỏi những người tham gia hoạt động phải xác định được các nguyên tắc hoạt động và tuân thủ triệt để nó. Theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [65, tr 694]. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật là những hoạt động thực tiễn có tính khoa học, nên cũng phải tuân theo các nguyên tắc pháp luật nhất định. Đó là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang tính xuất phát điểm, định hướng, xuyên suốt toàn bộ hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. TTDS là toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khác nhằm giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, qua đó bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Quá trình TTDS là quá trình hoạt động thực hiện pháp luật (quá trình giải quyết vụ việc dân sự) luôn phải tuân theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS quy định. Luật TTDS là một trong những ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Hoạt động xây dựng và thực hiện Luật TTDS một mặt cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung của pháp luật, nhưng mặt khác chịu sự chi phối, chỉ đạo bởi các nguyên tắc đặc thù chuyên ngành phù hợp với tính chất, đặc điểm các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Để thực hiện được mục đích giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, đảm bảo lợi ích 7 của nhà nước, tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì cần phải có những định hướng trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS. Những định hướng này thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách của Nhà nước ta trong quá trình tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự, được quy định trong luật và được gọi là nguyên tắc của Luật TTDS. Theo đó, nguyên tắc của Luật TTDS được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình nhận thức, xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS. Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS được ghi nhận trong BLTTDS năm 2004 thành một chế định riêng biệt (tại Chương II). Tổng cộng, BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định 23 nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam, từ Điều 3 đến Điều 24 (bao gồm nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS mới được bổ sung tại Điều 23a). Trong số 23 nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS được quy định tại Điều 21 BLTTDS. Với quy định tại Điều 21 BLTTDS đã khẳng định VKSND là cơ quan chịu trách nhiệm KSVTTPL trong TTDS; các hoạt động TTDS của những người tiến hành TTDS và những người tham gia TTDS là đối tượng của hoạt động kiểm sát của VKSND. Cụ thể hóa nguyên tắc này, BLTTDS cũng đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm, thẩm quyền của VKSND trong TTDS. Pháp luật TTDS quy định tương đối đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Khi tham gia quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích của chính mình hoặc của tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, hoạt động TTDS - hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự là hoạt động thực tiễn khá đa dạng và phức tạp, dễ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nên đòi hỏi phải có một cơ chế thích hợp để kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được kịp thời, đúng pháp luật, đó là hoạt động KSVTTPL của Toà án và các chủ thể khác của TTDS do VKSND thực hiện. Nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là một bảo đảm pháp lý quan trọng để hoạt động TTDS được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật TTDS, nó phải được quán triệt xuyên suốt trong quá trình TTDS. 8 KSVTTPL trong TTDS là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng và đó là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, một trong những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Mục đích của hoạt động KSVTTPL trong TTDS là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động KSVTTPL trong TTDS là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Với những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa về nguyên tắc KSVTTPL trong tố tụng dân sự như sau: Nguyên tắc KSVTTPL trong tố tụng dân sự là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình TTDS; là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) do chủ thể duy nhất là VKSND thực hiện thông qua việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do pháp luật TTDS quy định để ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Từ định nghĩa trên đây, có thể rút ra các đặc điểm của nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS, đó là: (1) là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình TTDS giải quyết các vụ việc dân sự; (2) là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát trong TTDS) do chủ thể duy nhất là VKSND thực hiện; (3) nội dung là việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố 9 tụng; (4) mục đích là nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự; (5) được ghi nhận và thể hiện thông qua các quy phạm của pháp luật TTDS. 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Việc ghi nhận KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện ở các nội dung sau đây: Một là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là sự cụ thể hóa quy định của Điều 126 và Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về nhiệm vụ và chức năng của VKSND: “VKSND nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. “VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa phương, các VKS quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”. Hai là, Nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là một hình thức kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp giải quyết các vụ việc dân sự. Đồng thời là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hoạt động KSVTTPL trong TTDS góp phần phát hiện và đẩy lùi sự lạm quyền, những tiêu cực, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, qua đó bảo vệ tính tối thượng của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Ba là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS thể hiện sự can thiệp của nhà 10 nước vào lĩnh vực TTDS trong đó có việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý của VKSND. Bốn là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là nền tảng, định hướng, cơ sở cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn và các biện pháp mà VKSND tiến hành KSVTTPL đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình TTDS giải quyết vụ việc dân sự. Năm là, việc vi phạm nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS có thể là căn cứ để huỷ bỏ phán quyết của Toà án. 1.2. Cơ sở của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Việc ghi nhận nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ những cơ sở lý luận sau đây: Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Lịch sử hình thành và phát triển bộ máy nhà nước ta hơn 65 năm qua đã khẳng định rằng, để hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát. Và bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng đều tồn tại (có) bộ phận thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát của cơ quan đó mà chúng ta thường gọi là cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của hệ thống. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận về quy trình quản lý, trong đó bao gồm các khâu: Nhận thức chủ thể; ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định; kiểm tra (giám sát) việc thực hiện quyết định và cuối cùng là đánh giá hiệu quả việc thực hiện quyết định và tổng kết kinh nghiệm [23]. Như vậy, cơ chế kiểm tra, giám sát bên trong, hay còn gọi là tự kiểm tra, giám sát hoạt động của chính mình (cơ quan, tổ chức) là một khâu trong quy trình quản lý và đó là nhu cầu tự thân, khách quan. Tuy nhiên, cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước (cơ quan nhà nước cụ thể) bao giờ cũng có những yếu tố chủ quan, khó kiểm soát được 11 hoạt động của chính mình nên đã dẫn đến sự lạm quyền, vi phạm pháp luật. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài do một cơ quan chuyên trách thực hiện. Hoạt động TTDS giải quyết các vụ việc dân sự của TAND là một trong những hoạt động tư pháp thực hiện quyền lực Nhà nước và hoạt động này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Những sai sót, vi phạm trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự luôn có khả năng hạn chế quyền của các đương sự, gây thiệt hại cho người khác, làm giảm niềm tin của nhân dân vào công lý. Chính vì vậy, để hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự có hiệu quả, nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, thì hoạt động này cần thiết phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhiều cơ chế khác nhau, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong và cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài. Đặc biệt phải thiết lập cho được cơ chế giám sát trực tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, cơ chế đó chính là hoạt động KSVTTPL trong TTDS của VKSND. Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu pháp chế và chức năng, nhiệm vụ của VKSND do pháp luật quy định. Ở nước ta, một trong những hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức đó là hoạt động KSVTTPL của VKSND. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của VKSND ở nước ta gắn với quá trình xây dựng và phát triển nhà nước Việt Nam và xuất phát từ quan điểm của Lênin về Nhà nước và Pháp luật. Khi bàn về vai trò của kiểm tra và kiểm sát, Lênin đã khẳng định vai trò của một nền pháp chế thống nhất và để bảo đảm cho pháp chế thống nhất, chống lại tình trạng “cát cứ”, tình trạng pháp chế của địa phương này khác với pháp chế của địa phương khác cần phải có cơ chế giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể (kể cả pháp nhân và cá nhân), kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật trong hành vi và các quyết định của các chủ thể. Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, đến năm 1922, VKS Liên xô được thành lập. Đây chính là thời kỳ Lênin - người sáng lập nhà nước kiểu mới - tìm kiếm mô hình cơ quan thay thế cho mô hình Viện 12 công tố của Nga Hoàng. Năm 1922 trong bức thư về "Song trùng trực thuộc và pháp chế" gửi đồng chí Stalin để chuyển tới Bộ Chính trị, Lê-nin đã vạch rõ: "Pháp chế thì chỉ có một thôi; và mối nguy hại to lớn nhất của chúng ta, cũng như biểu hiện của tình trạng kém văn hoá của chúng ta, đều là do chúng ta dung túng quan điểm muôn thuở của nước Nga và những tập quán nửa man rợ đã cố ý muốn duy trì pháp chế của tỉnh Ca-lu-ga cho khác với pháp chế của tỉnh Ca-dan" [45]. Cội nguồn của hiện tượng vi phạm pháp chế thống nhất, theo Lênin, chính là chủ nghĩa cục bộ địa phương, bản vị. Hình thức phổ biến vi phạm pháp chế thống nhất của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương vì lợi ích cục bộ là không thực hiện đúng pháp luật hoặc ban hành các văn bản của mình trái với luật làm vô hiệu hóa hoặc biến dạng các quy định của luật [38]. Theo Lênin, để bảo đảm pháp chế thống nhất, chống lại chủ nghĩa địa phương, phải thành lập hệ thống cơ quan VKS. Quyền và bổn phận của VKS là phải làm cho sự nhận thức và thực hiện pháp luật thống nhất trên toàn quốc, đó là nhân tố đảm bảo hơn tất cả mọi sự đảm bảo của việc thiết lập pháp chế [67, tr 19]. Với nhu cầu về một cơ quan nhà nước có chức năng duy nhất là giám sát tuân thủ pháp luật, bảo đảm pháp chế thống nhất trong mọi lĩnh vực hoạt động nhà nước, Lênin đã tiếp thu và phát triển từ mô hình Viện công tố của Pier Đệ nhất năm 1772 khi mở rộng phạm vi hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật và coi hoạt động này như là chức năng thuộc tính - chức năng nhà nước - của VKS. Đối với nước ta, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cách mạng bước vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng vạch ra là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhu cầu của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt 13 được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra VKSND để KSVTTPL nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [70, tr 5]. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 1959 đã đưa ra chế định VKSND, tạo cơ sở pháp lý thành lập hệ thống cơ quan VKSND ở nước ta. Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban hành đã đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan nhà nước mới trong bộ máy của nhà nước ta, thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố. Như vậy, sự ra đời của mô hình VKS thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất-điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới và việc thành lập hệ thống cơ quan VKSND không chỉ xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng CNXH mà còn là quá trình vận dụng nguyên lý của Lênin về VKS vào điều kiện cụ thể của nước ta. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mặc dù chức năng của VKS có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các Luật Tổ chức VKSND 1960, 1981, 1992; thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo Hiến pháp 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Luật Tổ chức VKSND năm 2002. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong lĩnh vực tư pháp dân sự nói riêng luôn đặt ra và được pháp luật ghi nhận. KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ chức năng KSVTTPL, kiểm sát các hoạt động tư pháp (cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài) và gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của VKSND. Việc ghi nhận nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là xác định cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp để tránh sự lạm quyền, tiêu cực của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quyền tố tụng của đương sự; bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của đương sự, nhất là trường hợp đương sự là người yếu thế (người mất năng lực hành vi, người có nhược điểm thể chất, tâm thần, người chưa thành niên...), không thể tham gia tố tụng (trường hợp 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan