Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn của nam cao và lỗ tấn từ góc nhìn so sánh...

Tài liệu Nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn của nam cao và lỗ tấn từ góc nhìn so sánh

.PDF
91
57
149

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- LÊ THỊ HẠNH NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ LỖ TẤN TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2018 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- LÊ THỊ HẠNH NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ LỖ TẤN TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thu Hiền Hà Nội - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn do tôi thực hiện. Những kết quả từ những tác giả trước mà tôi sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng, cụ thể. Không có bất kỳ sự không trung thực nào trong các kết quả nghiên cứu. Nếu có gì sai trái, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Học viên Lê Thị Hạnh LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô giáo, TS Nguyễn Thu Hiền, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo và luôn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Sự chỉ bảo tận tâm của cô đã mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp, kiến thức cũng như kỹ năng hết sức quý báu để có thể hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất. Tôi cũng xin được cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, quý thầy giáo, cô giáo ở Phòng Đào tạo Sau đại học và thầy giáo, cô giáo khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là các thầy cô giáo bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Văn học – những người mà trong thời gian qua đã dạy dỗ, truyền thụ kiến thức khoa học, giúp tôi từng bước trưởng thành. Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình và bạn bè – những người đã hỗ trợ, tạo điều kiện để tôi có thể học tập đạt kết quả tốt và thực hiện thành công luận văn này. Cuối cùng tôi xin cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Văn học Việt Nam (khóa học 2015 – 2017) đã luôn chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và cảm xúc trong những ngày tháng tôi học tập tại mái trường Nhân văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng Học viên Lê Thị Hạnh năm 2018 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 3 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .............................................. 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 11 5. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 11 CHƢƠNG 1: VĂN CHƢƠNG VỊ NHÂN SINH VÀ BIỂU ĐẠT VỀ CÁI NGHỊCH DỊ- SỰ GẶP GỠ GIỮA NAM CAO VÀ LỖ TẤN .......... 12 1.1 “Nghệ thuật là tiếng đau khổ kia”: tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao …………………………………………………………..……………..13 1.1.1 Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Nam Cao ....................................... 14 1.1.2 Trăng sáng - Tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao và bước ngoặt trong hành trình sáng tác .............................................................................. 14 1.2 “Hãy cứu lấy các em”: Lựa chọn dấn thân trong sự nghiệp cầm bút của Lỗ Tấn ..................................................................................................... 17 1.2.1 Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn ........................................... 20 1.2.2 Nhật kí người điên - biểu tượng về lựa chọn dấn thân trong sự nghiệp cầm bút của Lỗ Tấn...................................................................................... 20 1.3 Văn chƣơng vị nhân sinh và lựa chọn gần gũi trong biểu đạt về cái nghịch dị ......................................................................................................... 25 1.3.1 Văn chương vị nhân sinh: điểm gặp gỡ giữa hai nhà văn .................. 27 1.3.2 Cái nghịch dị như một lựa chọn tương đồng trong biểu đạt ............... 27 1.3.2.1 Giới thuyết về khái niệm “nhân vật nghịch dị” .............................. 32 1.3.2.2 Cái nghịch dị như một lựa chọn tương đồng trong biểu đạt ……...32 TIỂU KẾT...................................................................................................... 38 1 CHƢƠNG 2: CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ LỖ TẤN ............................................... 40 2.1 Nhân vật nghịch dị dƣơng tính ............................................................. 40 2.2 Nhân vật nghịch dị dạng âm tính .......................................................... 52 2.3 Loại hình nhân vật nghịch dị trong sáng tác của Nam Cao và Lỗ Tấn từ góc nhìn so sánh ........................................................................................ 60 TIỂU KẾT...................................................................................................... 64 CHƢƠNG III. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ LỖ TẤN ................................ 65 3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị dƣơng tính .......................... 66 3.1.1 Miêu tả ngoại hình đa dạng ở nhân vật của Nam Cao ........................ 67 3.1.2 Chuỗi hành động ở nhân vật của Nam Cao ........................................ 71 3.1.3 Độc thoại nội tâm ở nhân vật của Lỗ Tấn........................................... 75 3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị âm tính ............................... 77 3.2.1 Miêu tả ngoại hình bằng điểm nhấn.................................................... 77 3.2.2 Miêu tả nét hành động, tâm lý đặc thù................................................ 81 TIỂU KẾT...................................................................................................... 86 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nam Cao là cây bút văn xuôi hiện thực xuất sắc, là đỉnh cao của nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945. Lỗ Tấn là cây bút có ý nghĩa mở đầu cho nền văn học mang tính chất hiện đại ở Trung Quốc giai đoạn 1917 - 1949. Cả hai tác giả đều có đóng góp to lớn trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc Lỗ Tấn được xem là người đặt nền móng cho nền văn học mang tính hiện đại của Trung Quốc. Điều day dứt, trăn trở nhất khi cầm bút của ông đó là vấn đề dân tộc, thức tỉnh tinh thần dân tộc đang bị cầm tù bởi lễ giáo, đạo đức phong kiến cũ và “phép thắng lợi tinh thần”. Lỗ Tấn không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà tư tưởng có vị trí quan trọng hàng đầu trong lịch sử hiện đại Trung Quốc. Tuy không phải là nhà văn mang ý nghĩa mở đầu và đặt nền móng cho sự phát triển của một nền văn học đầy mới mẻ như Lỗ Tấn, Nam Cao là cây bút xuất hiện ở chặng cuối cùng khi các nhà văn cùng thời đã gặt hái được thành công, nhưng ông được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc, là đỉnh cao của nền văn học hiện thực Việt Nam. Tinh thần dân tộc của Nam Cao dồn vào cuộc cách mạng trong văn chương, ông luôn trăn trở về vấn đề nhân cách sống, số phận con người và không ngừng tìm tòi, cách tân trong sáng tạo nghệ thuật. Hai nhà văn sống ở những giai đoạn lịch sử khác nhau trong bối cảnh lịch sử - xã hội không giống nhau ở từng quốc gia, nhưng ở hai nhà văn này có sự gặp gỡ nhau ở tinh thần cách mạng, ở sự đau đáu với nhân sinh và số phận con người. Đặc biệt, tư tưởng và tinh thần đó ở hai ông còn được thể hiện qua hệ thống nhân vật nổi bật trong các sáng tác của từng tác giả, đó là kiểu nhân vật nghịch dị. Hệ thống nhân vật này, về mặt nội dung, là sự phản ánh đạo đức, nhân cách của con người và phản ánh cái bối cảnh xã hội đã nhào nặn lên những con người ấy. Còn về mặt nghệ thuật, những nhân vật này 3 được xây dựng thành hệ thống như là một biện pháp, thủ pháp nghệ thuật để tạo nên ấn tượng về sự dị hợm, quái lạ hay sự châm biếm sâu cay. Nhân vật nghịch dị trong sáng tác của hai nhà văn chủ yếu là những con người nghèo khổ (cả những người nông dân hay những người tri thức có học hành). Tuy rằng mức độ đậm nhạt của chất nghịch dị cũng như các kiểu nghịch dị trong tác phẩm của hai tác giả có sự khác biệt khá lớn, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng kiểu nhân vật này là kiểu nhân vật phổ biến và thể hiện những ý đồ nghệ thuật sâu sắc trong sáng tác của hai tác giả. Ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình so sánh giữa Nam Cao và Lỗ Tấn, vấn đề so sánh về nhân vật cũng đã được một số nhà nghiên cứu điểm qua. Cũng đã có các công trình nghiên cứu về nhân vật nghịch dị trong tác phẩm của từng tác giả, nhưng chưa có công trình nào đặt vấn đề về so sánh kiểu nhân vật nghịch dị trong sáng tác của hai nhà văn này, đây chính là khoảng trống trong nghiên cứu của các công trình đi trước để chúng tôi tập trung đi sâu khai thác. 2. Lịch sử vấn đề Nam Cao và Lỗ Tấn là hai tác giả lớn của nền văn học Việt Nam và Trung Quốc nên điều tất yếu là đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm và sự nghiệp của hai tác giả này. Sáng tác của Nam Cao đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ: từ phương pháp sáng tác, thi pháp học, tự sự học, tâm lý học hay diễn ngôn và dụng học… Có thể kể đến các công trình như luận án tiến sĩ Một số tác phẩm của Nam Cao dưới ánh sáng của phân tích diễn ngôn và dụng học của Vũ Lăng, phân tích theo ký hiệu học như Thử đọc Chí Phèo của Nguyễn Đức Dân. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chú ý từ 1941 với lời tựa của Lê Văn Trương cho tập Đôi lứa xứng đôi do Nxb Đời Nay ấn hành tháng 2/1952. Nam Cao thực sự trở thành đối tượng của khoa văn học với bài Nam Cao của Nguyễn Đình Thi trong Mấy vấn đề văn học (Nxb Văn nghệ - H.1956). Tô 4 Hoài trong các bài viết Chúng ta mất Nam Cao, Người và tác phẩm Nam Cao nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa con người nhà văn với tư tưởng nghệ thuật, giữa hiện thực cuộc sống với những điều được phản ánh trong tác phẩm. Năm 1961, Hà Minh Đức có chuyên luận đầu tiên về Nam Cao với tiêu đề Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc.Trong chuyên luận ông khẳng định “sự kết hợp chặt chẽ và thường xuyên những yếu tố tiến bộ về tư tưởng với những sáng tạo về nghệ thuật cho Nam Cao một phong cách đặc biệt: phong cách một nhà văn hiện thực tâm lý”. Nhà nghiên cứu Phong Lê cũng khẳng định tài năng của Nam Cao qua công trình nghiên cứu Đặc trưng bút pháp hiện thực Nam Cao.Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam Nguyễn Hoàng Khung khẳng định sự xuất hiện của Nam Cao trong văn học “như là người đại diện tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán”. Nghiên cứu từ góc độ loại hình học, các tác giả thường chia hệ thống nhân vật trong sáng tác của Nam Cao thành hai nhóm chính đó là người nông dân với bi kịch tha hóa và người tri thức với bi kịch sống mòn. Trong lời mở đầu cho tập Truyện ngắn Nam Cao Nxb Văn học, 1975 Hà Minh Đức cũng chia hệ thống nhân vật trong sáng tác của Nam Cao theo hướng trên. Phong Lê trên Tạp chí văn học năm 1986 có đăng bài Người trí thức kiểu Nam Cao và sự chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực, năm 1987 ông tiếp tục đăng bài Tình cảnh người nông dân và tình cảnh các làng quê tiền cách mạng. Hà Văn Đức trong một bài viết về Nam Cao cũng khẳng định hai loại nhân vật trong sáng tác của Nam Cao là người nông dân và người trí thức nghèo…Nghiên cứu về nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao, các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào nội dung tư tưởng, nghệ thuật xây dựng nhân vật như Hà Văn Đức đã nêu lên bi kịch của người nông dân, trí thức và chú ý đến nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nam Cao. Phan Văn Tường trong Phong cách nghệ thuật Nam Cao đã phân tích nỗi trăn trở da diết về thực trạng sống của con người và tầm 5 nhìn nhân văn mới, chủ nghĩa hiện thực nhân văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ của Nam Cao… Về kiểu nhân vật nghịch dị trong tác phẩm của Nam Cao, trong phạm vi khảo sát tư liệu của chúng tôi thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống về chủ đề này, mà mới chỉ được đề cập một cách chừng mực trong các bài viết mang tính tổng quan, khái quát. Cụ thể, Vương Trí Nhàn có bài Những biến hóa của chất nghịch dị trong văn Nam Cao được in trong sách Nghĩ tiếp về Nam Cao, trong bài viết đó ông khẳng định Nam Cao đã nhìn thấy sự quái dị trong hàng loạt hiện tượng đời sống. Có khi đó là những con người, sự kiện được phơi bày như một quái tượng đập vào mắt như nhân vật Thiên Lôi, Đức trong Nửa đêm, Trạch Văn Đoành trong Đôi móng giò...có khi đó là cái quái dị khoác cái áo thông thường, hòa tan vào cái hàng ngày như trong Một bữa no cái ăn đã bị đẩy lên với thử thách lương tâm. Vương Trí Nhàn gọi đó là sự kỳ quặc ở dạng dương tính và âm tính. Trong bài viết này, Vương Trí Nhàn cũng nói rõ lý do vì sao ông sử dụng thuật ngữ “nghịch dị” chứ không phải “quái dị”, “kì dị. Bên cạnh đó tác giả cho rằng có một sự liên hệ giữa cái kì dị và cái mòn mỏi trong văn Nam Cao. Theo ông mối liên hệ đó còn thể hiện ở ba giai đoạn: : Cái trì trệ, sống mòn lúc đầu – Sự cựa quậy, muốn thay đổi – Kết cục: tình thế bi đát hơn thì bao trùm trong cả ba giai đoạn hiện thực ấy là chất nghịch dị. Xem xét văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX như một quá trình thì giai đoạn Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố là sự thường biến còn đến Vũ Trọng Phụng, Nam Cao thì đã le lói có dấu hiệu của sự đột biến, dị biến. Trần Thị Việt Trung trong bài viết Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác của Nam Cao cho rằng trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Nam Cao xuất hiện nhiều nhân vật xấu xí, kì dị là thể hiện tính chất khốc liệt, tàn bạo của xã hội Việt Nam trong thời kỳ đen tối nhất. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định không có sự gặp gỡ giữa thi pháp nghệ thuật này của Nam Cao với truyện cổ 6 tích như Sọ Dừa, Chàng Cóc vì nhân vật trong cổ tích là những nhân vật xinh đẹp và tốt bụng chỉ là bọc trong vẻ ngoài xấu xí còn nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao thì dị dạng cả về ngoại hình và tâm hồn. Nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao không có sự đối lập giữa chất thực và chất mơ như Nhà thờ đức bà Pari. Phan Văn Tường cũng có bài viết Nhân vật nghịch dị trong tác phẩm Nam Cao in trong Kỉ yếu khoa học hội nghị các nghiên cứu sinh Ngữ văn Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết có điểm qua một số nhân vật nghịch dị tiêu biểu trong các sáng tác của Nam Cao và một số biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị ấy. Như vậy, các bài viết trên đều chỉ ra rằng trong sáng tác của Nam Cao có sự tồn tại của kiểu nhân vật nghịch dị nhưng chỉ điểm qua một vài nhân vật nghịch dị tiêu biểu. Các nhà nghiên cứu cũng đều cho rằng xây dựng nhân vật nghịch dị là cách để Nam Cao tố cáo xã hội bất công, thối nát và nhận định dạng nhân vật này chính là sản phẩm của xã hội Việt Nam giai đoạn đó. Nếu ở Việt Nam, Nam Cao là một trong những tác giả được các nhà nghiên cứu dành nhiều bút mực thì hLỗ Tấn cũng là cái tên được nhắc đến rất nhiều không chỉ ở Trung Quốc. Lỗ Tấn là người mở đường cho văn học hiện đại Trung Quốc. Khi nói đến sáng tác của ông, chúng ta không thể bỏ qua truyện ngắn – nơi mà con người và tài năng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện rõ, nhất là trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Truyện ngắn của Lỗ Tấn không những được dịch ra nhiều thứ tiếng mà còn thu hút sự tìm tòi, khám phá của giới phê bình, nghiên cứu văn học trên thế giới trong đó có Việt Nam ta. Với nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, họ đã từng bước chỉ ra sự đóng góp, tài năng cũng như sức sống kì diệu của truyện ngắn Lỗ Tấn. Tuy nhiên do những hạn chế về ngôn ngữ khó tiếp cận với những tài liệu Trung văn, các nghiên cứu khảo sát ở đây, chỉ tập trung vào nghiên cứu ở Việt Nam. Về nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn, các nhà nghiên cứu thường chia thành ba nhóm đó là hình tượng người nông dân, người trí thức và phụ nữ. Về 7 nhân vật nghịch dị trong sáng tác của Lỗ Tấn chỉ có duy nhất một bài viết của Lê Nguyên Cẩn Thế giới nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn Lỗ Tấn đăng trên tạp chí Văn học 10/2001. Bài viết phân tích và chỉ ra một số nhân vật nghịch dị trong sáng tác của Lỗ Tấn cũng như một số biện pháp nghệ thuật để xây dựng loại nhân vật này. Từ góc nhìn so sánh đã có một số công trình nghiên cứu so sánh về truyện ngắn của Nam Cao và Lỗ Tấn tập trung về vấn đề loại hình nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Ở Trung Quốc, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì có luận văn So sánh nhân vật AQ và nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn của Lỗ Tấn và Nam Cao của Nguyễn Thành Đạt tại Đại học Sư phạm Hoa Trung năm 2011. Tuy nhiên do giới hạn về thời gian, điều kiện nghiên cứu cũng như sự khác biệt về ngôn ngữ chúng tôi chưa thể khảo sát kĩ lưỡng công trình này. Ở Việt Nam, tiêu biểu nhất có lẽ là luận án của Lư Cẩm Anh So sánh văn xuôi tự sự của Lỗ Tấn và Nam Cao. Trong luận án, tác giả đã khái quát sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao trong bối cảnh nền văn học hiện đại Trung Quốc và Việt Nam, chỉ ra nội dung tư tưởng của văn xuôi tự sự Lỗ Tấn và Nam Cao khi viết về người tri thức và người nông dân. Trong chương thứ ba của luận án tác giả tìm hiểu hình thức nghệ thuật của văn xuôi tự sự Lỗ Tấn và Nam Cao qua cốt truyện, kết cấu, thủ pháp miêu tả nhân vật và ngôn ngữ nghệ thuật. Trong phần viết về thủ pháp miêu tả nhân vật, tác giả đã dành một phần nhỏ viết về Nam Cao với thủ pháp đặc tả chân dung những nhân vật dị dạng. Ở đây, tác giả chỉ điểm qua một vài nhân vật dị dạng như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, Thiên Lôi…với sự dị dạng về ngoại hình và cũng chưa đề cập đến các nhân vật dị dạng trong truyện của Lỗ Tấn. Luận văn thạc sĩ của Trần Lê Hoa Tranh với đề tài Tìm hiểu những điểm tương đồng và dị biệt về mặt thi pháp nhân vật phụ nữ trong truyện Lỗ Tấn và Nam Cao (Đại học KHXH và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 1998) đã đi sâu vào thi pháp nhân vật phụ nữ trong sáng tác của hai tác giả. 8 Phạm Tú Châu trong bài viết Đôi diều so sánh giữa AQ và Chí Phèo đã lý giải từ thực tế hoàn cảnh lịch sử, văn hóa của hai nước dẫn đến sự khác nhau khi ở AQ là phép thắng lợi tinh thần còn ở Chí Phèo lại là sự đấu tranh, chống đối tự phát. Thế lực địa chủ cường hào ở Trung Quốc và Việt Nam cũng khác nhau cho nên Chí Phèo thì ăn vạ còn AQ thì bị cụ cố Triệu, bác coi đền ăn vạ. Chí Phèo và AQ đều phản kháng nhưng đều thất bại vì chưa được ánh sáng của lý trí soi sáng, họ hàng động suy cho cùng là vì miếng ăn chứ không phải vì lý tưởng gì cao xa cho nên hai nhân vật này không mang tính phản phong. Nếu ước mơ của họ có trở thành hiện thực thì Chí Phèo và AQ cũng trở thành địa chủ mà thôi. Ngoài ra sự so sánh về nhân vật AQ và Chí Phèo cũng được nhắc đến rải rác trong một vài bài viết khác. Chẳng hạn Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn Chí Phèo bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao đãcho rằng, mặc dù Nam Cao không chịu ảnh hưởng bởi Lỗ Tấn (vì thời gian Nam Cao viết Chí Phèo thì AQ chưa được giới thiệu vào Việt Nam) nhưng liên tưởng Chí Phèo với AQ là tự nhiên vì họ đều là những người tứ cố vô thân, uống rượu, lưu manh, có tính tự đắc, và AQ gặp cô tiểu như Chí Phèo gặp Thị Nở. Như vậy có thể thấy rằng việc phân tích hệ thống nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn của Nam Cao và Lỗ Tấn mới chỉ dừng lại ở các bài viết ngắn chưa được phân tích kĩ. Việc so sánh giữa hai tác giả đã có nhưng chưa có công trình nào so sánh về nhân vật nghịch dị trong sáng tác của hai tác giả. Trong bối cảnh các nghiên cứu như trên, chúng tôi thực hiện luận văn Nhân vật nghịch dị trong sáng tác của Nam Cao và Lỗ Tấn từ góc nhìn so sánh với mong muốn bổ khuyết các nghiên cứu mang ý nghĩa so sánh về hai tác giả quan trọng trong Văn học Việt Nam và Văn học Trung Quốc này. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đặt ra vấn đề nghiên cứu này chúng tôi muốn đi sâu vào một hướng nghiên cứu khác về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao và Lỗ 9 Tấn bên cạnh việc phân chia nhân vật thành nhân vật người nông dân, nhân vật người tri thức, nhân vật phụ nữ…để cung cấp cho người đọc cái nhìn đa dạng, toàn diện hơn về sáng tác của hai nhà văn lớn. Nghiên cứu nhân vật nghịch dị trong sáng tác của Nam Cao và Lỗ Tấn sẽ cho thấy sự tương đồng, dị biệt của hai tác giả khi xây dựng loại nhân vật nghịch dị và kiến giải về sự giống và khác nhau đó, từ đó làm nổi bật nét riêng, sự độc đáo trong việc xây dựng nhân vật của mỗi nhà văn. Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo trực tiếp cho những người quan tâm nghiên cứu về kiểu nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn của từng tác giả Nam Cao, Lỗ Tấn nói riêng, cũng như nghiên cứu so sánh về truyện ngắn của hai nhà văn này nói chung. Trên cơ sở này, luận văn cũng góp phần bổ sung thêm một kết quả nghiên cứu cho lĩnh vực nghiên cứu so sánh văn học Việt Nam và Trung Quốc ở từng quốc gia. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn của Nam Cao và Lỗ Tấn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Do mục tiêu của luận văn, ở công trình này chúng tôi chỉ khảo sát các sáng tác của Nam Cao (trước Cách mạng Tháng 8) tức là giai đoạn sáng tác khi nhà văn đã thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn và sáng tác theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tuy nhiên giai đoạn này, nhà văn chưa giác ngộ cách mạng và các sáng tác của ông tời kì này chủ yếu hướng tới vấn đề nhân sinh, về thân phận, số phận con người chứ chưa phục vụ cách mạng. Về Lỗ Tấn, các truyện ngắn ở hai tập Gào thét và Bàng hoàng phản ánh thời kì lịch sử khoảng từ cách mạng Tân Hợi năm 1911 đến trước 1925-1927. Đây là hai tập truyện quan trọng trong cuộc đời cầm bút của Lỗ Tấn, khi ông mới bước chân vào con đường sáng tác với những quan niệm nghệ thuật mới mẻ. Sau này ông sáng tác các thể loại khác chứ không quay về truyện ngắn nữa. 10 Cụ thể chúng tôi khảo sát các truyện ngắn trong Nam Cao – tác phẩm (tập I, II), Nxb Văn học, 1975 và Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn (Trương Chính dịch), Nxb Văn học, 1994. Cần chỉ rõ việc lựa chọn các văn bản này gắn với giai đoạn nào trong sáng tác của hai nhà văn, gắn với sự thay đổi quan niệm sáng tác, hoặc thể hiện quan niệm sáng tác như thế nào 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận thi pháp học trong nghiên cứu nhân vật Trong luận văn, người viết áp dụng phương pháp này vào việc tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật trong việc xây dựng nên các nhân vật nghịch dị của hai tác giả Nam Cao và Lỗ Tấn. - Phương pháp loại hình học Luận văn chỉ nghiên cứu các nhân vật nghịch dị trong phạm vi thể loại truyện ngắn của hai tác giả - Phương pháp so sánh Luận văn so sánh những điểm tương đồng, dị biệt của các nhân vật nghịch dị trong sáng tác của hai nhà văn. - Phương pháp lịch sử - xã hội Đặt sáng tác của hai tác giả trong bối cảnh lịch sử xã hội hai nhà văn sinh sống, vào sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong tiến trình văn học. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Văn chương vị nhân sinh - sự gặp gỡ giữa Nam Cao và Lỗ Tấn Chương 2. Các loại hình nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao và Lỗ Tấn Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao và Lỗ Tấn 11 CHƢƠNG 1: VĂN CHƢƠNG VỊ NHÂN SINH VÀ BIỂU ĐẠT VỀ CÁI NGHỊCH DỊ- SỰ GẶP GỠ GIỮA NAM CAO VÀ LỖ TẤN Nam Cao và Lỗ Tấn là những nhà văn lớn, tác phẩm của họ không chỉ có giá trị về nghệ thuật mà hơn thế nó còn có ý nghĩa về nhân sinh. Vị nhân sinh trong tác phẩm của hai tác giả không chỉ là sự đồng cảm, thương yêu con người mà nó còn ở khía cạnh khác, trước tiên đó là giúp con người hiểu rõ mình, cả cái tốt và những khuyết nhược, những thói hư tật xấu của mình và hoàn cảnh mình đang lâm vào, cũng tức là chỉ rõ tình cảnh biến dạng cả về ngoại hình lẫn tính cách mà sự khốn cùng để lại trên người mình. Vị nhân sinh trong văn Nam Cao và Lỗ Tấn không thiên về sự vuốt ve an ủi, đánh vào tình thương mà nó hướng vào nhận thức, vào đời sống tinh thần của người đọc. Vị nhân sinh ở đây là sự thức tỉnh con người, để họ hiểu rõ chính bản thân mình. Để mọi người nhận ra những khuyết nhược, những thói hư tật xấu và nghịch cảnh của bản thân, của dân tộc, cả hai tác giả đã tìm đến kiểu nhân vật nghịch dị như một sự lựa chọn tương đồng để biểu đạt dụng ý của mình. Ở Lỗ Tấn, ông hướng đến giải quyết vấn đề “quốc dân tính”, chỉ ra sự mê muội, thói ích kỉ và chủ nghĩa AQ của người dân, bởi vậy, nhân vật của Lỗ Tấn chủ yếu được khắc họa ở sự nghịch dị về tính cách, tâm lý. Ngược lại, Nam Cao nhấn mạnh sự tha hóa, bế tắc của con người trước hoàn cảnh sống, do đó, nhân vật của ông được khắc họa có sự dị dạng, tha hóa từ ngoại hình đến tính cách, nhân phẩm, đó như là hệ quả của hiện thực khắc nghiệt để lại trên những con người nghèo khó. 1.1 . “Nghệ thuật là tiếng đau khổ kia”: tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao 1.1.1 .Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Nam Cao Nam Cao (1917 – 1951) quê ở làng Đại Hoàng, Hà Nam. Sinh ra ở một vùng quê nghèo, gia đình cũng nghèo khó ông là người con duy nhất trong gia 12 đình được đi học. Cuộc sống ngay từ nhỏ của Nam Cao đã phải đối mặt với đói nghèo, bệnh tật “áo cơm ghì sát đất”. Thi trượt Thành Chung, ông bỏ quê đi Sài Gòn kiếm sống với khát khao to lớn, tuy nhiên khó khăn, bệnh tật khiến ông phải quay lại làng quê.Nam Cao ôn thi lại và đậu bậc Thành Chung. Lại do vấn đề sức khỏe nên Nam Cao không được nhận vào công chức. Ông xin dạy ở một trường tư do một người họ hàng mở. Quãng thời gian dạy học này chính là lúc Nam Cao hiểu rõ hơn nỗi khổ tâm của người trí thức giàu hoài bão, khát vọng nhưng lại bị thực tế cuộc sống đè bẹp những khát vọng lớn lao ấy, khiến họ trở thành những con người tầm thường, ích kỉ trước cuộc sống cơm ăn áo mặc. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, trường học bị đóng cửa, Nam Cao nghỉ dạy, sống chật vật bằng nghề gia sư, viết văn…có những lúc thất nghiệp. Năm 1943 Nam Cao ra nhập Hội văn hóa cứu quốc.Khi phong trào văn hóa cứu quốc bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.Trong cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở địa phương và được bầu làm chủ tịch xã.Sau đó ông được điều động công tác tại Hội văn hóa cứu quốc.Tháng 11 năm 1951, ông hi sinh trên đường đi công tác vào vùng địch hậu khi mà cuốn tiểu thuyết lớn ông ấp ủ vẫn chưa được hoàn thành. Thời điểm Nam Cao sống và sáng tác, đất nước đã rơi vào tay thực dân Pháp. Từ đó, nước ta còn trở thành thuộc địa của Nhật – Pháp. Xã hội Việt Nam lúc ấy tăm tối, ngột ngạt dưới ách thống trị của bọn thực dân phát xít và phong kiến tay sai. Nhân dân sống lầm than trong tình trạng một cổ ba tròng. Sức người, sức của từ nông thôn đến thành thị đều bị vơ vét đến kiệt quệ để phục vụ cho chiến tranh. Nam Cao là người tận mắt chứng kiến sự nghèo đói, lạc hậu khổ sở và sự chuyển mình đầy đau đớn của xã hội lúc ấy, ông cũng là người chứng kiến thời đại bão táp cách mạng và sự thắng lợi vinh quang của cách mạng tháng Tám. 13 Kể từ khi bước chân vào làng văn đến khi qua đời, Nam Cao đã có mười lăm năm gắn bó với nghiệp văn. Ông khởi đầu văn nghiệp từ 1936 với truyện ngắn Cảnh cuối cùng tiếp đó là Hai cái xác (bút danh Thúy Rư, in trên Tiểu thuyết thứ bảy). Sau đó các sáng tác tiếp theo của tác giả lần lượt ra mắt bạn đọc kể cả thơ và truyện cho thiếu nhi với các bút danh Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê. Tuy nhiên phải đến tập truyện Đôi lứa xứng đôi (1941)thì tên tuổi của Nam Cao mới được khẳng định. Có nhà nghiên cứu đã so sánh tập truyện này như giấy phép đưa Nam Cao bước vào làng văn, sánh bên các nhà văn đã nổi danh như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng… Trước cách mạng, Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính là người nông dân bị bần cùng hóa và người trí thức nghèo. Ở đề tài thứ nhất, nổi bật lên là các tác phẩm: Chí Phèo(1941), Trẻ con không được ăn thịt chó (1942), Lão Hạc (1943), Một bữa no (1943), Một đám cưới (1944)...Viết về đề tài này, Nam Cao tập trung khắc họa bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam đói nghèo xơ xác trong những năm 1940-1945 cùng số phận của những người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Những con người khốn khổ ấy càng hiền lành, càng nhẫn nhục chịu đựng thì càng bị chà đạp phũ phàng. Viết về người nông dân, Nam Cao đã chân thực khi thể hiện cả những điểm mạnh cũng như điểm yếu của họ. Ông không tô hồng, không bôi nhọ và phơi bày mọi thứ một cách công bằng nhất, thực nhất, qua đó lên án mạnh mẽ xã hội thực dân phong kiến đã hủy hoại nhân hình, nhân tính, làm xói mòn nhân cách của những người dân lương thiện. Về đề tài người trí thức nghèo, có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như Những truyện không muốn viết (1942), Trăng sáng (1943), Đời thừa (1943), Quên điều độ (1943), tiểu thuyết Sống mòn (1944). Qua những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người tri thức nghèo. Đó là những giáo khổ trường tư, những nhà văn túng quẫn, những viên chức nghèo…Người tri thức trong tác phẩm của Nam Cao phần lớn đều là những 14 con người có tài năng, tâm huyết, ôm ấp hoài bão to lớn nhưng không thực hiện được, thậm chí nhân cách cũng đứng trước nguy cơ bị xói mòn. Đa phần những tri thức ấy bị dồn vào tình trạng sống mòn, sống thừa… Thời gian viết và số lượng tác phẩm để lại của ông không nhiều, nếu so với các tác giả cùng thời thì có thể thấy khối lượng tác phẩm của Nam Cao thật sự khiêm tốn: hai tiểu thuyết ngắn, dăm bảy chục truyện ngắn, ký, một kịch, dăm mười truyện ngắn cho thiếu nhi…Số lượng tuy ít ỏi là thế nhưng những tác phẩm của ông thực sự gây ấn tượng mạnh, luôn ám ảnh người đọc, tạo khả năng cho người đọc đồng sáng tạo cùng với tác giả. Những trang văn của Nam Cao thực sự là “những dòng văn xuôi mọc cánh” khiến bao thế hệ độc giả không ngừng tốn giấy mực khai thác, khám phá và phát hiện các tầng giá trị của những tác phẩm đã trở thành mẫu mực cho thể loại truyện ngắn, truyện dài. Đương thời, so với các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng…hay các nhà văn trong Tự Lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam thì Nam Cao là người đến muộn. Nhưng ngay từ lúc trình làng, “với một lối riêng” ông đã xác định được cái riêng độc đáo của mình. Buổi đầu, sáng tác của Nam Cao vẫn còn bị ảnh hưởng bởi bầu không khí của văn chương lãng mạn lúc đó, tuy nhiên ông không chạy theo những thị hiếu thời thượng mà nhanh chóng vượt qua cảm hứng thi vị hóa, duy mĩ hóa lúc bấy giờ. Nam Cao biết rằng cái giỏi của mình ở đâu, không viển vông, không mộng mị, tất cả đều được thử thách qua thực tế. Theo lời kể của nhà văn Tô Hoài trong Người và tác phẩm Nam Cao thì vốn Nam Cao nhút nhát, ít nói nhưng cũng có những lúc bồi hồi, “con ma thiên tài đến tưng nịnh, xui giục anh, công kênh anh ngồi lên đầu cuộc sống của mọi người”. Lắm lần chuyện vui hoặc quá chén, anh chàng gầy gò leo khoeo ấy mặt đỏ lên, “vừa rung đùi vừa nói băm băm bàn tay, chửi bới rất hùng hổ, coi giời bằng vung, coi ai cũng 15 bằng cứt”. Chẳng vậy mà anh chàng ấy dám phát biểu rằng Gorki viết cũng xoàng, Lỗ Tấn thì khá hơn một tý, mình sâu tí nữa thì có thể kịp Shekhop Trần Đăng lạnh như đá. Tiểu thuyết của tao sẽ…và hoa chân múa tay. Nhưng khi cái “bốc” ấy qua rồi, thì Nam Cao lại trở về lầm lũi, cặm cụi làm việc, suy nghĩ. Ông xem mình thật đáng xấu hổ quá và thầm chửi bản thân. Nam Cao là một trong số ít nhà văn có quan điểm cá nhân về việc làm nghệ thuật và sáng tác theo tôn chỉ đã đưa ra. Sự miệt mài, nhiệt thành với đời, với văn của ông được thể hiện rõ trên từng trang sách, đó là một trong những điều góp phần tạo nên thành công của ông trên con đường văn chương. 1.1.2. Trăng sáng - Tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao và bước ngoặt trong hành trình sáng tác Trăng sáng (viết 1942) được coi là tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong hành trình sáng tác của Nam Cao. Nếu như văn chương lãng mạn tiêu cực với tính chất ảo mộng phi hiện thực của nó xóa nhòa ranh giới giữa hiện thực với văn chương, coi văn chương là thứ xa rời thực tế, tách rời con người nghệ sĩ và con người xã hội thì có thể nói Trăng sáng là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao tuyên chiến với thứ văn chương lãng mạn tiêu cực đó. Trăng sáng là quá trình dằn vặt đầy đau đớn của nhà văn để đi đến đoạn tuyệt với thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống, chạy theo vẻ đẹp bên ngoài, coi nghệ thuật là “ánh trăng xanh huyền ảo, nó làm đẹp đến những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa”. Trong lúc các nhà văn lãng mạn đương thời coi nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật là cái đẹp chủ quan thì Nam Cao đã ý thức về một nghệ thuật vị nhân sinh, có ích cho xã hội. Trong Trăng sáng Nam Cao thể hiện rõ quan điểm của người cầm bút không thể trốn tránh, thờ ơ với sự thật, không thể làm ngơ trước “biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến rang và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?” [23, tr. 42]. Sự thật tàn nhẫn với biết bao mảnh đời bất hạnh, mỗi người khổ một nỗi 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan