Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thẩm phán trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thẩm phán trong tố tụng dân sự

.PDF
119
243
54

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các từ viết tắt 1 MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN 6 HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 6 1.2. Cơ sở quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 11 1.2.1. Cơ sở lý luận của việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 11 1.2.2. Cơ sở thực tiễn 13 1.2.3. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong bộ máy nhà nước và trong tố tụng dân sự 14 1.3. Ý nghĩa của việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 16 1.4. Lược sử các quy định của pháp luật Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 18 1.4.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 18 1.4.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1989 23 3 1.4.3. Giai đoạn từ 1989 đến 01/01/2005 27 1.4.4. Giai đoạn từ 01/01/2005 đến nay 30 1.5. Một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán 33 1.5.1. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán theo pháp luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa Pháp 33 1.5.2. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán theo pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga 35 1.5.3. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán theo pháp luật tố tụng dân sự Anh - Mỹ 37 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN 41 HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN 2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán 41 2.1.1. Tiến hành lập hồ sơ vụ án 41 2.1.2. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời 55 2.1.3. Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự 57 2.1.4. Tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về 61 việc giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này; ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự 2.1.5. Quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử, đưa việc dân sự ra giải quyết; Quyết định triệu tập những người tham gia phiên tòa 63 2.1.6. Tham gia xét xử các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự 65 2.1.7. Tiến hành các hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc 67 dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2.2. Trách nhiệm của Thẩm phán 68 4 2.2.1. Trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 68 2.2.2. Trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán 70 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN 74 THIỆN, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán 74 3.1.1. Những thành tựu đạt được 74 3.1.2. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự và hạn chế của thực tiễn thực hiện 78 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán 89 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán 89 3.2.2. Kiến nghị về các biện pháp bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 97 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự HTND : Hội thẩm nhân dân HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Thống kê số lượng vụ việc dân sự được thụ lý và đã giải 75 quyết tại TAND từ năm 2006 đến năm 2012 3.2 Số lượng và trình độ của Thẩm phán TAND địa phương 7 77 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới theo xu hướng quốc tế hóa, mở rộng giao lưu hợp tác và mở rộng dân chủ đảm bảo quyền cơ bản của công dân. Cùng với sự vận động và phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội thì các quan hệ pháp luật dân sự cũng gia tăng một cách đa dạng, phức tạp cả về nội dung lẫn chủ thể. Theo đó những tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều. Khi các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đòi hỏi việc xét xử phải được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động xét xử của ngành Tòa án đã góp phần to lớn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ các quyền của công dân và củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Để làm được điều đó Thẩm phán có vai trò hết sức quan trọng. Trong tố tụng dân sự (TTDS), Thẩm phán là người tiến hành tố tụng chủ yếu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự. Thẩm phán tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán giúp Thẩm phán giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của Thẩm phán trong hoạt động xét xử nên ngay sau khi được thành lập cùng với việc kiến thiết, xây dựng đất nước Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về TTDS trong đó có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán. Tuy nhiên các văn bản này vẫn còn sơ sài, thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán còn quy định chung chung chưa thực sự bảo đảm tính độc lập, tự chủ của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. 8 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển giá trị của các văn bản quy phạm pháp luật được thể nghiệm trong thực tế, bảo đảm hài hòa lợi ích của các đương sự, phù hợp với luật pháp quốc tế và thể hiện sự minh bạch, khả thi. Bộ luật đã quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản trong TTDS; trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng. Song qua hơn năm năm triển khai thi hành BLTTDS cho thấy một số quy định của BLTTDS còn vướng mắc, bất cập nên ngày 29/03/2011 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012. Qua lần sửa đổi này Bộ luật đã khắc phục được nhiều thiếu sót, bất cập trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại Điều 41 BLTTDS vẫn được giữ nguyên nên quá trình xét xử Thẩm phán còn gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất lượng giải quyết vụ việc cũng như kéo dài thời gian giải quyết, chưa đáp ứng được tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49/NQ-TW). Xuất phát từ thực tế trên, tác giả chọn đề tài "Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong muốn phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán để tìm ra những điểm bất cập qua đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu góp phần xây dựng pháp luật và áp dụng các điều luật trên thực tế được thống nhất, đạt kết quả cao. 9 2. Tình hình nghiên cứu Qua quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy, đã có một số bài viết và công trình nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS. Cụ thể là: Đề tài khoa học cấp bộ "Một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự", mã số 95-98-046/ĐT năm 1996 của TANDTC trong đó có bài viết "Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, vấn đề thực tiễn và yêu cầu trong việc xây dựng quy trình và thủ tục tố tụng dân sự" của tiến sĩ Đinh Ngọc Hiện; Luận văn thạc sĩ "Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự", của Bùi Thị Huyền, 2001; bài viết "Vai trò của Thẩm phán đối với việc mở rộng tranh tụng trong các vụ án dân sự", của Tưởng Duy Lượng và Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 02, 2004; bài viết "Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở nước ta, những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng", của Đỗ Gia Thư, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04, 2004… được xây dựng, nghiên cứu trên cơ sở quy định của các văn bản đã hết hiệu lực nên chỉ còn mang tính chất tham khảo. Trong những năm gần đây, có một số bài viết, công trình liên quan như: bài viết "Những quy định mới của chế định cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự", của Nguyễn Công Bình, Tạp chí Luật học, số 06, 2004; bài viết "Uy tín của người Thẩm phán", của Phan Công Luận, Tạp chí Luật học, số 01, 2006; Luận văn thạc sĩ "Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay", của Nguyễn Bích Thảo, 2008… Đây là những bài viết, công trình nghiên cứu về Thẩm phán ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng vẫn chưa thực sự đi sâu nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS. Gần đây nhất là khóa luận tốt nghiệp "Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự Việt Nam", của Lê Thị Thúy Nga, 2012. Vì đây chỉ là khóa luận tốt nghiệp nên phạm vi nghiên cứu có phần nào hạn chế. Do vậy luận văn 10 "Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự" theo quy định của BLTTDS sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện nhất. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề về lý luận, luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS. Qua đó đưa ra một số ý kiến đóng góp vào việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTDS về vấn đề này. Phạm vi nghiên cứu đề tài: - Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS, lược sử các quy định của pháp luật về vấn đề này qua đó thấy được vai trò và trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán cũng như thực tiễn áp dụng tại các Tòa án. - Từ thực tiễn áp dụng tìm ra những điểm còn hạn chế góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán, tạo ra cơ chế để họ thực hiện tốt nhất nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng như nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Đề tài có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trước hết đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong sách báo pháp lý nước ta nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS, kể từ khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực. 11 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra được các luận cứ khoa học và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTDS về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán qua đó đề xuất cơ chế giúp nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử các vụ việc dân sự của Thẩm phán ở nước ta. Đồng thời luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy trong các trường chuyên ngành luật. Kết quả nghiên cứu đề tài cũng là nguồn tài liệu để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện BLTTDS. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê… để thực hiện đề tài. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự. Chương 2: Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán. Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện, bảo đảm thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ rất lâu và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Trong các xã hội tiền tư bản, nhà vua là người đại diện cho pháp luật đồng thời có quyền xét xử. Vua là chủ thể nắm giữ cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; vua đích thân xét xử các tranh chấp trong nhân dân, trực tiếp trừng phạt các hành vi vi phạm pháp luật. Cùng với sự phát triển của xã hội, do nhu cầu phân công giải quyết các công việc của Nhà nước, vua đã chuyển một phần quyền tư pháp cho quan lại từ trung ương xuống địa phương thực hiện. Các quan lại đó chính là những quan lại hành chính. Khi đó, quyền tư pháp chưa được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đến thời kỳ cách mạng tư sản, một số học giả mà tiêu biểu là Môngtexkiơ đã đề ra tư tưởng phân chia quyền lực, trong đó tách quyền tư pháp ra khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp, thành lập một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp - đó là Tòa án. Từ đó, một đội ngũ Thẩm phán những người chuyên làm nhiệm vụ xét xử, tách biệt với những người làm việc trong bộ máy hành chính ra đời. Cho tới ngày nay đội ngũ Thẩm phán đã tham gia xét xử vào tất cả các vụ việc phát sinh tại Tòa án, đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội. Theo Từ điển Luật học năm 2006 và Pháp lệnh Thẩm phán và HTND (HTND) năm 2002 thì "Thẩm phán là người tiến hành tố tụng được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án". Như vậy, Thẩm phán là người được Nhà nước bổ nhiệm nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định 13 và được Nhà nước giao nhiệm vụ giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong TTDS, Thẩm phán là người tiến hành tố tụng chủ yếu, tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự. Ở nước ta hiện nay, theo Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và HTND ngày 19/02/2011, Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) bao gồm: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp và Thẩm phán Tòa án quân sự (bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương đồng thời là Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp). Thẩm phán nhân danh quyền lực nhà nước ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành. Mọi phán quyết của Thẩm phán đều ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, việc xác định trách nhiệm của Thẩm phán gắn liền với quyền và nghĩa vụ của chủ thể này trong TTDS là rất cần thiết. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán cũng khác nhau. Nó phản ánh bản chất chính trị của chế độ trong những bối cảnh lịch sử cụ thể. Không chỉ Thẩm phán mà bất cứ cán bộ, công chức nào khi thực hiện một công việc đều phải thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn nhất định được Nhà nước trao. Vậy nhiệm vụ, quyền hạn được hiểu như thế nào rất cần được làm rõ. Qua nghiên cứu Từ điển Tiếng Việt năm 2001, nhiệm vụ là công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định (thường nói về công việc xã hội) [66, tr. 718]. Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2009, "nhiệm vụ" được hiểu là công việc do cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức giao cho phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định [56, tr. 924]. Có thể nói, nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Chính vì vậy, nhiệm vụ của Thẩm phán được pháp luật quy định cũng xuất phát từ tư cách của Thẩm phán trong 14 hệ thống bộ máy nhà nước. Chúng ta có thể hiểu nhiệm vụ của Thẩm phán trong TTDS là công việc mà Thẩm phán phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự vì mục đích đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được khách quan, đúng pháp luật và trong một thời hạn do pháp luật quy định [14, tr. 54]. Nhiệm vụ của Thẩm phán được xác định mang tính bắt buộc khi giải quyết vụ việc dân sự. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự Thẩm phán phải thực hiện chính xác về thủ tục tố tụng và đúng nội dung vụ việc. Vậy để Thẩm phán có thể thực hiện các nhiệm vụ trong hoạt động TTDS thì pháp luật TTDS cần trao cho Thẩm phán những quyền hạn cụ thể. Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2001, quyền hạn là quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ [66, tr. 1020]. Từ điển Tiếng Việt năm 2009, "quyền hạn" được hiểu là quyền được xác định trong phạm vi cho phép [56, tr. 1049]. Còn theo Từ điển Luật học năm 2006, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật [65, tr. 651]. Như vậy, quyền của chủ thể được xác định dựa trên cơ sở cương vụ, chức vụ mà chủ thể đó đảm nhiệm. Quyền hạn của Thẩm phán trong TTDS là phạm vi những công việc mà Thẩm phán được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật [14, tr. 65]. Nếu như nhiệm vụ là những công việc Thẩm phán bắt buộc phải thực hiện thì quyền hạn của Thẩm phán là quyền chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình. Khi giải quyết vụ việc dân sự, trên cơ sở nhiệm vụ mà BLTTDS quy định, Thẩm phán có quyền lựa chọn cách thức, thời gian, biện pháp để thực hiện nhiệm vụ nhằm giải quyết vụ việc dân sự khách quan, đúng pháp luật. Từ những nhận định trên chúng ta có thể khẳng định quyền hạn của một chủ thể được pháp luật quy định chính là quyền của chủ thể đó được sử dụng để thực hiện chức năng, trách nhiệm nhất định. Pháp luật quy định Thẩm phán có nhiệm vụ thực hiện những công việc gì thì pháp luật phải trao 15 cho Thẩm phán những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ đó. Thực tế, ranh giới giữa nhiệm vụ và quyền hạn khó có thể tách bạch rõ ràng, dễ nhầm lẫn. Vì vậy, khi soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật, các nhà lập pháp đã không tách nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán thành các điều luật riêng biệt. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán nói chung được quy định chủ yếu trong Pháp lệnh Thẩm phán và HTND. Còn trong TTDS, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán đều được quy định chung tại Điều 41 BLTTDS. Mặt khác, quyền hạn và trách nhiệm là hai phạm trù không thể tách rời. Trách nhiệm của Thẩm phán chỉ xác định được khi gắn với nhiệm vụ và quyền hạn nhất định. Ngược lại khi Thẩm phán được pháp luật giao những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ thì cần có một cơ chế xác định việc thực hiện đó có đúng và chính xác không để xác định trách nhiệm. Dù bất cứ công việc nào cũng đều đòi hỏi người thực hiện phải có trách nhiệm. Đặc biệt trong hoạt động xét xử đòi hỏi trách nhiệm của Thẩm phán cao hơn nhiều bởi xét xử là hoạt động mang tính quyết định. Đối với các vụ việc dân sự mỗi phán quyết của Thẩm phán đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ảnh hưởng đến tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Do đó nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền và những hành vi trái pháp luật khi tăng cường sự độc lập của Thẩm phán, mở rộng quyền hạn của họ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự thì càng cần phải đề cao trách nhiệm của họ. Vì vậy, ngoài việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn việc xác định cụ thể trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS là rất cần thiết. Thẩm phán là một công chức nhà nước nên ngoài trách nhiệm đối với Nhà nước như công chức khác, Thẩm phán còn có trách nhiệm riêng biệt gắn liền với nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong hoạt động TTDS. Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2001, trách nhiệm là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả (trách nhiệm làm cha mẹ, giám đốc xí nghiệp, ý thức trách nhiệm); là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình bảo 16 đảm đúng đắn, nếu có gì sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả [66, tr. 1020]. Trách nhiệm chính là hậu quả của việc thực hiện không đúng, không đầy đủ nhiệm vụ do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận. Trách nhiệm của Thẩm phán nói chung được quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và HTND, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và nhiều văn bản pháp luật có liên quan. BLTTDS chỉ quy định trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành TTDS chung tại Điều 13 chứ không quy định cụ thể trách nhiệm của Thẩm phán. Với các quy định tại các văn bản nói trên chúng ta có thể hiểu trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS là hậu quả pháp lý mà Thẩm phán phải gánh chịu do không thực hiện đúng các quy định của BLTTDS và các quy định pháp luật về nội dung khi giải quyết vụ việc dân sự. Thông qua các quy định của pháp luật, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS được chia làm hai loại. Thứ nhất: trách nhiệm phải đảm bảo hoàn thành việc giải quyết vụ việc dân sự khi được chánh án phân công (trách nhiệm trong TTDS). Thứ hai: trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (trách nhiệm pháp lý). Vì vậy, Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm trong khi tiến hành tố tụng thì tùy theo tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả sẽ bị xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự [14, tr. 84]. Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn là phạm vi những công việc mà Thẩm phán thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm mục đích bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc được khách quan, đúng pháp luật và trong thời hạn do pháp luật quy định. Trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS là những công việc mà Thẩm phán được giao phải thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định của mình khi thực hiện những công việc mà họ được giao. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm này được pháp luật TTDS quy định cụ thể đối với 17 Thẩm phán, cho phép họ thực hiện một cách độc lập những hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình giải quyết những vụ việc dân sự. Đồng thời, họ phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định tố tụng của mình. 1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.2.1. Cơ sở lý luận của việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự Từ năm 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình đổi mới đã diễn ra một cách toàn diện, đồng bộ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Theo đó các tranh chấp dân sự phát sinh ngày một đa dạng, phức tạp đòi hỏi phải có sự điều chỉnh thích hợp về pháp luật nhằm ổn định các quan hệ xã hội. Vì vậy, cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết và mang tính quy luật để có thể thích ứng với những đổi mới về văn hóa, kinh tế, xã hội… Nhận thức rõ tầm quan trọng của cải cách tư pháp nên vấn đề này đã được đề cập ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và các kỳ Đại hội Đảng sau đó, đặc biệt là Nghị quyết số 08/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW. Nghị quyết số 49/NQ-TW đã xác định xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp và Tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp. Theo tinh thần và nội dung của Nghị quyết nói trên, trọng tâm của cải cách tư pháp là cải cách hệ thống Tòa án. Nghị quyết số 49/NQ-TW đã đặt ra yêu cầu: Xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh… Tăng quyền hạn trách nhiệm tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình [7]. 18 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 lại một lần nữa khẳng định: "Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo Thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp" [9]. Như chúng ta đã biết, Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện chức năng xét xử tất cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính. Chính vì vậy, Tòa án là nơi biểu hiện tập trung đầy đủ nhất của quyền tư pháp, nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp. Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là người giữ vị trí trung tâm, đảm đương phần lớn công việc của Tòa án. Đặc biệt, trong hoạt động TTDS của Tòa án ngay từ khi thụ lý đến khi ra các quyết định giải quyết vụ việc dân sự đều do Thẩm phán thực hiện. Vì vậy, khi cải cách hoạt động của Tòa án nói chung và trong TTDS nói riêng chúng ta không thể không tính đến việc đổi mới, cải cách chính hoạt động của Thẩm phán. Hay nói cách khác là cần phải xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS, đồng thời xây dựng một cơ chế khoa học, hợp lý để Thẩm phán có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách nhanh chóng, hiệu quả, đúng pháp luật góp phấn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội. Mặt khác, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước Đảng ta cũng xác định cần cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ phức tạp và khó khăn đó ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định: "Cần tập trung cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy…, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hành chính…" [4]. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính cần định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật của công chức hành chính… Mới đây nhất Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục 19 khẳng định: "…phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ" [9]. Thẩm phán là một công chức nên cũng không nằm ngoài định hướng chung đó. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán cần được xác định cụ thể trong từng lĩnh vực. Đối với hoạt động TTDS, cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong từng giai đoạn cụ thể nhằm giúp cho Thẩm phán có thể giải quyết các vụ việc dân sự một cách nhanh chóng, có hiệu quả, đúng pháp luật qua đó góp phần ổn định các giao lưu dân sự hướng tới thực hiện một mục tiêu chung là xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, cải cách hành chính, cải cách tư pháp chính là tiền đề lý luận để chúng ta xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS nhằm đảm bảo cho họ có thể chủ động thực hiện hoạt động xét xử một cách có hiệu quả. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay, BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 là văn bản pháp lý quan trọng quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự của Thẩm phán tại Tòa án trong những năm qua cho thấy nhiều vụ việc dân sự Thẩm phán giải quyết chưa thực sự mang tính độc lập. Nhiều bản án, quyết định của Thẩm phán vẫn bị chi phối, tác động bởi chính quyền địa phương cùng cấp và lãnh đạo cấp trên trực tiếp. Tại nhiều Tòa án địa phương tình trạng báo cáo án, thỉnh thị án vẫn còn tồn tại. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" tại Điều 12 BLTTDS. Mặt khác, trong xu thế chung hội nhập kinh tế quốc tế các tranh chấp dân sự đang ngày một gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ phức tạp. Để 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan