ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
NGUYỄN THỊ THU GIANG
NHỮNG MOTIF HIỆN SINH TRONG TRUYỆN VÀ
TIỂU THUYẾT CỦA F.DOSTOEVSKY
(BÚT KÝ DƯỚI HẦM, TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
HÀ NỘI – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
NGUYỄN THỊ THU GIANG
NHỮNG MOTIF HIỆN SINH TRONG TRUYỆN VÀ
TIỂU THUYẾT CỦA F.DOSTOEVSKY
(BÚT KÝ DƯỚI HẦM, TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 60220145
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Gia Lâm
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những kết
luận, nhận định trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Giang
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm Gia Lâm - người thầy
đã tận tâm dìu dắt tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Văn học,
Phòng Sau Đại học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu, thực hiện
và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin được tri ân tới gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh
tôi, động viên và giúp đỡ nhiệt thành.
Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Giang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 11
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 12
5. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 12
CHƢƠNG 1: F.DOSTOEVSKY VÀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH ............. 13
1.1. Triết học hiện sinh và chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ....................... 13
1.2. F.Dostoevsky - nhà tư tưởng hiện sinh .................................................... 19
CHƢƠNG 2: XUNG ĐỘT GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI ..................... 35
2.1. Hành trình đi tìm cái "Tôi" đích thực...................................................... 35
2.2. Tội ác - hậu quả phá vỡ liên hệ cá nhân và xã hội ................................... 49
CHƢƠNG 3: ỨNG XỬ VỚI TỰ DO .......................................................... 58
3.1. Sự xa lạ: những nguyên nhân và hậu quả ................................................ 58
3.2. Con người sám hối để hướng đến tự do tuyệt đối .................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. F. M: Fyodor Mikhailovich
2
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu
chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính
đặc thù độc đáo của tồn tại con người. Giá trị bản thân nó mang lại về đạo đức
nhân sinh, về sự tôn vinh nhân bản và vì lợi ích chính đáng cho con người rất
lớn lao. Chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một trào lưu triết học lớn của
Phương Tây hiện đại, phát triển và phổ biến rộng rãi đặc biệt vào những năm
50 – 60 của thế kỷ XX. Trào lưu triết học này không chỉ có ảnh hưởng đến
nhiều khuynh hướng triết học, văn học – nghệ thuật hiện đại mà còn thâm
nhập sâu rộng vào đời sống xã hội. Bởi thế có rất nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình triết học, nhân học, văn học… đi vào tìm hiểu, dịch thuật, nghiên cứu
chuyên sâu vấn đề này. Chúng tôi cho rằng: việc tiếp tục tìm hiểu sâu rộng về
sự giao thoa ảnh hưởng của triết học hiện sinh và văn học là một điều có ý
nghĩa và mang tính nhân văn sâu sắc.
Trong bài viết Những vấn đề cơ bản của tư tưởng Nga thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX do PGS. TS Đào Tuấn Ảnh dịch từ cuốn Tư tưởng Nga của
N.Berdyaev có đoạn: “ Bí mật của cá tính chỉ có thể nhận biết được bằng tình
yêu, ở đó có cái gì đó không thể nào hiểu hết được, hiểu đến tận cùng được.
Tôi quan tâm không hẳn vấn đề nước Nga đã từng như thế nào xét một cách
thực chứng, mà là vấn đề Đấng sáng tạo đã nghĩ gì về nước Nga, hình bóng
của nước Nga có thể nhận biết và hiểu được bằng trí tuệ, tư tưởng của nó. Nhà
thơ Nga Chutchev đã từng nói: “Nước Nga không thể hiểu được bằng đầu óc,
không thể đo được bằng thước đo thông thường, nước Nga có bản sắc đặc
biệt, với nước Nga chỉ có thể tin tưởng”. Để hiểu được nước Nga cần phải có
đức tin thần thánh, hi vọng và tình yêu” [30, tr. 1]. Tìm hiểu về chủ nghĩa
3
hiện sinh trong hai tác phẩm tiêu biểu của một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa
xuất sắc của Nga để thêm hiểu dân tộc Nga và để tìm thấy những điểm chung
trong đời sống nội tâm của con người dù ở đâu. Đó là lí do thứ hai thôi thúc
hướng khai thác trong luận văn của chúng tôi.
Bên cạnh đó, đề tài của chúng tôi muốn hướng đến những ý nghĩa sau:
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Thứ nhất. Ở Việt Nam, những năm bốn mươi của thế kỷ XX đã bắt đầu
xuất hiện những tác phẩm văn học chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
đang rất phổ biến trên thế giới lúc bấy giờ. Xuất hiện gây sự chú ý và ít nhiều
mang dáng dấp hiện sinh là tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn. Lên ngôi ở
miền Nam Việt Nam vào những năm sáu mươi - bảy mươi của thế kỉ XX, “e
dè” xuất hiện trở lại văn đàn vào cuối thế kỉ XX và “nở rộ” những năm đầu
thế kỉ XXI; khuynh hướng hiện sinh xuất hiện và tồn tại như một dòng chảy
liền mạch trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Quá trình đổi mới, mở cửa
cùng sự giao lưu, hội nhập quốc tế khiến văn học Việt Nam, trong đó có tiểu
thuyết, bắt buộc phải chuyển động để hòa mình vào “trò chơi chung” của văn
học thế giới. Trong bối cảnh mới, triết – mĩ hiện sinh có điều kiện xâm nhập
vào văn học Việt Nam, góp phần làm đa dạng các sắc thái thẩm mĩ văn học,
khẳng định những phong cách riêng. Và vì thế, việc chúng ta – những độc giả
Việt Nam chủ động nghiên cứu, đánh giá đúng những giá trị cũng như mặt
hạn chế của triết học phương Tây nói chung và chủ nghĩa hiện sinh nói riêng
là hết sức cần thiết trong bối cảnh thế giới đương đại. Việc tìm tòi khám phá
này là cách mở rộng vốn văn hóa cũng như có thêm công cụ đánh giá về văn
học nước mình trong dòng chảy chung của văn hóa nhân loại.
Thứ hai. Với một di sản văn học phong phú, trải rộng trên nhiều lĩnh
vực, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky xứng đáng là một đại diện xuất sắc của
nền văn học Nga. Cùng với Lev Tolstoy, F.Dostoevsky không chỉ được xem
4
là một trong hai nhà văn vĩ đại thế kỷ XIX của nước Nga mà còn của cả nền
văn học thế giới. Các tác phẩm của ông như Bút ký dưới hầm, Tội ác và trừng
phạt hay Anh em nhà Karamazov đã khai thác tâm lí con người trong bối
cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ XIX. Ông được giới
phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người
báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ XX. Chẳng hạn, Walter Kaufman
xem Bút ký dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng
được viết". N. Berdiaep thì nhận định: “ Tác phẩm của F.Dostoevsky mang lại
một đóng góp đáng kể vào ngành nhân chủng triết lý1, vào triết học về lịch sử,
triết học tôn giáo… Giá trị của F.Dostoevsky vĩ đại đến nỗi dân tộc Nga chỉ
cần gọi tên ông là đủ biện minh về sự hiện hữu của mình trên thế giới” [20,
tr.171]. Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như
phủ nhận toàn bộ các sáng tác của F.Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của ông
mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương mình. Với những
đóng góp trong các tác phẩm của mình, F.Dostoevsky đã, đang và sẽ ngày
càng thu hút được sự chú ý, tìm hiểu không chỉ của giới nghiên cứu, phê bình
văn học, triết học, nhân học… mà còn của nhiều tầng lớp độc giả. Đồng thời,
nổi bật lên như là một dấu hiệu dễ nhận thấy về F.Dostoevsky, đó chính là
các tác phẩm luôn hướng về đề tài con người. Con người hấp dẫn ngòi bút
của nhà văn đến mức, ở thể loại nào, nhà văn cũng có những bút pháp khai
thác tâm lý hữu hiệu, độc thoại nội tâm dày đặc. Ở bài viết của mình,
F.Dostoevsky đã từng tự nói: “nghiên cứu về cuộc sống của con người đó là
mục đích cao nhất và là niềm vui của tôi” [19, tr. 65]. Với những gì đã biết
về cuộc đời, sự nghiệp và mảng đề tài con người trong sáng tác của
1
Đúng ra phải viết/dịch là “nhân học triết học”/philosophical anthropology Nhân học triết học đôi khi được
gọi là triết học nhân học, là một bộ môn xem xét các câu hỏi của siêu hình học và hiện tượng học về cá nhân
con người và các mối quan hệ liên nhân. Ngoài nhân học triết học ra còn có nhân học văn hóa/cultural
anthropology, nhân học sinh học /biological anthropology, nhân học xã hội/social anthropology,…. Đã có
một luận án bàn về vấn đề này: Peter M. Wolf (1997), F. Dostoevsquyền's Conception of Man: Its Impact on
Philosophical Anthropology, Dissertation.Com.; 1 edition (December 1, 1997).
5
F.Dostoevsky thì chúng tôi tin rằng đó vẫn là “miền đất hứa” thôi thúc suy
ngẫm và khám phá của người đọc qua nhiều thế hệ. Với độc giả là người
Việt Nam ta, tìm hiểu F.Dostoevsky để có cái nhìn soi chiếu với sáng tác
của những tác giả văn học nước mình như đại thi hào Nguyễn Du của thế kỷ
XVIII, nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao của thế kỷ XX và nhiều nhà văn
trẻ đương đại. Điều đó thật thiết thực. Văn học trong guồng quay bất tận
của cuộc đời, dù ở đâu ,trên mảnh đất nào, thời xưa hay nay… đều có một
mẫu số chung là mãi mai “thổn thức” hai chữ “Con người”.
Thứ ba. Các nhà nghiên cứu phê bình trên thế giới đã có rất nhiều công
trình khoa học tìm hiểu về F.Dostoevsky và các tác phẩm của ông, về các tư
tưởng trong sáng tác của F.Dostoevsky. Song cho đến nay, không phải mọi
vấn đề về tư tưởng hiện sinh trong các tác phẩm của F.Dostoevsky đều đã
được giải quyết. Nghiên cứu về tác phẩm của F.Dostoevsky trong mối tương
quan với triết học hiện sinh sẽ cho ta cái nhìn toàn diện về con người và sự
nghiệp của tác gia này. F.Dostoevsky không chỉ là nhà văn mà còn là nhà triết
học tôn giáo. Ông có vai trò to lớn trong nền văn hóa thế giới. Việc nghiên
cứu tư tưởng triết học của ông có ý nghĩa tích cực không chỉ đối với hiện tại
mà cả với tương lai, bởi ông đã dự đoán nhiều khuynh hướng thay đổi sâu sắc
của con người trong thế kỉ XX và cả thế kỉ XXI. Ngay từ thế kỉ XIX, nhà văn
đã có những phản ánh hết sức sâu sắc sự khủng hoảng hiện sinh của con
người, dự báo quá trình cá nhân con người mất ý thức về sự hiện hữu của
mình, quá trình cá nhân tha hóa, ghẻ lạnh với chính cái "Tôi" bản thân. Sáng
tác của F.Dostoevsky thấm đẫm những vấn đề sâu xa và chưa được giải quyết
của tồn tại, còn được gọi là những vấn đề hiện sinh. Giới "F.Dostoevsky học"
đã đặt ông vào hàng ngũ những người đi tiên phong của triết học hiện sinh.
Các triết gia hiện sinh Nga N.Berdyaev và L.Shestov luôn coi F.Dostoevsky
là "người cha tư tưởng" của mình. Bất chấp mọi sự ngăn cách về thời gian,
hơn một thế kỷ, khác với các nhà văn mà tác phẩm của họ chỉ có ý nghĩa như
6
những chứng nhân của nền văn minh dĩ vãng, F.Dostoevsky vẫn luôn là người
đồng hành vĩ đại bền lâu của chúng ta.
Thứ tư. Những sáng tác văn xuôi nghệ thuật như truyện, tiểu thuyết và
chính luận của F.Dostoevsky không chỉ được coi là “một pho biên niên sử của
thế kỷ” mà những vấn đề triết học trong các tác phẩm của ông còn trở thành
nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh sau này. Tư tưởng hiện sinh đó ảnh hưởng
sâu sắc đến sáng tác của các nhà văn, triết gia trên thế giới. Và việc tìm hiểu
motif hiện sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky bằng cách
tường giải nội dung và cắt nghĩa cội nguồn các mối liên hệ sẽ làm nổi bật
được tư tưởng triết học hiện sinh của ông. Bút ký dưới hầm được coi là tác
phẩm mở đầu, đặt nền móng cho tiểu thuyết hiện sinh của F.Dostoevsky, cũng
có nhiều ý nghĩa cho thấy sự trăn trở và những tìm tòi buổi đầu của nhà văn.
Truyện sáng tác năm 1864, một năm sau, tác giả viết Tội ác và trừng phạt.
Nhiều người cho rằng, Bút ký dưới hầm là điểm xuất phát cho Tội ác và trừng
phạt và những cuốn tiểu thuyết lẫy lừng sau này. Đây là hai tác phẩm đánh
dấu mốc trong sự nghiệp sáng tác của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky và
được xếp vào hàng những sự kiện có ý nghĩa mốc son trong quá trình phát
triển của tư tưởng hiện sinh F.Dostoevsky.
Vì những lí do và ý nghĩa trên, chúng tôi chọn vấn đề Những motif hiện
sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky (Bút ký dưới hầm, Tội ác và
trừng phạt) làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
F.Dostoevsky từng được giới nghiên cứu nhận định là người tiên phong
của chủ nghĩa hiện sinh châu Âu, có ảnh hưởng to lớn đến các đại diện tiêu
biểu của chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo và chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Tình
hình tiếp nhận và nghiên cứu sáng tác của nhà văn khá phong phú, thế nhưng
nghiên cứu mối quan hệ giữa F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh vẫn chưa
7
được khai thác thấu đáo, chưa nói đến ở Việt Nam, đây còn là “vệt trắng” cần
“lấp đầy”. Xin điểm lại những công trình nghiên cứu về F.Dostoevsky và tư
tưởng hiện sinh của F.Dostoevsky:
2.1. Tình hình nghiên cứu về F.Dostoevsky và tư tưởng hiện sinh của
F.Dostoevsky trên thế giới.
Chủ nghĩa hiện sinh đã nổi lên như là một phong trào trong văn
học và triết học thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng của một số nhà triết học thế kỷ
XIX mà nổi bật nhất là Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche. Nghiên
cứu về chủ nghĩa hiện sinh, trước tiên chúng ta không thể không nhắc đến
cuốn Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX (NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội). Cuốn sách này tập hợp rất nhiều phần nghiên cứu của các tác giả
khác nhau về tư tưởng đạo đức của các tên tuổi lớn trong chủ nghĩa hiện sinh,
những vấn đề về con người, xây dựng chủ nghĩa nhân văn… Bên cạnh đó có
một số bài viết như: "Chủ nghĩa hiện sinh trong thế kỷ XX" của tác giả Lê
Kim Châu hoặc tác giả Đỗ Minh Hợp với những phần "Tư tưởng đạo đức học
của Nietzsche, Tư tưởng đạo đức học của Heidegger". Các tác giả đã khái
quát và tổng kết cơ bản các vấn đề triết học của chủ nghĩa hiện sinh. Những
công trình đó đã đi sâu vào vấn đề triết học có thể làm nền tảng cho những
nghiên cứu về văn học hiện sinh.
Vấn đề F.Dostoevsky như là người tiên phong của chủ nghĩa hiện sinh
châu Âu, có ảnh hưởng to lớn đến các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện
sinh tôn giáo và chủ nghĩa hiện sinh vô thần đã được đề cập đến trong nhiều
công trình của các nhà nghiên cứu văn học và triết học ở Nga, Pháp, Đức.
Trong số các tác giả triển khai nghiên cứu vấn đề này, đáng chú ý có T.
E. Nikolaev với luận án "F. M. Dostoevsky như là bậc tiên khu của chủ nghĩa
hiện sinh châu Âu". Trong đó, tác giả đã đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về tác
8
động di sản sáng tạo của F.Dostoevsky đối với những đại diện chủ yếu của
trào lưu triết học này.
Ngoài công trình này, còn có thể đề cập đến một vài nghiên cứu viết về
chủ nghĩa hiện sinh vô thần của Pháp như: V.Erofeev (2003), Đi tìm con
người trong con người hoặc về chủ nghĩa hiện sinh của Mỹ như:
A.N.Latynina (1972), F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh, F.Dostoevsky người nghệ sĩ và nhà tư tưởng. Vấn đề F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh
cũng được đề cập đến ở những mức độ khác nhau trong các nghiên cứu văn
học và triết học của V.Kirpotin, Yu.Karyakin, A.S.Dolinin, G.Fridlender,
N.A.Berdyaev... Bên cạnh các học giả Nga, các nhà "F.Dostoevsky học" của
Tây Âu và Mỹ cũng dành sự quan tâm cho vấn đề này, với các công trình,
chẳng hạn: W. Kaufmann (1957), Existentialism from F.Dostoevsky to Sartre;
T.F. Sajkovic (1962), F. M Dostoevsky: his Image of Man; W.Barrett (1964),
What is existentialism? ; P.Wolf (1997), F.Dostoevsky's Conception of Man:
Its Impact on Philosophical Anthropology …
2.2. Tình hình nghiên cứu về F.Dostoevsky và tư tưởng hiện sinh của
F.Dostoevsky tại Việt Nam
Ở Việt Nam, tên tuổi F.Dostoevsky được độc giả không chỉ tiếp cận
bằng việc đọc tác phẩm mà còn được biết đến qua những chuyên luận nghiên
cứu về thi pháp trong các tác phẩm của ông. Những bài viết về vai trò và tầm
ảnh hưởng sâu rộng của F.Dostoevsky đối với nước Nga và phương Tây đã
được dịch ra tiếng Việt và phổ biến rộng rãi trên các tạp chí chuyên ngành,
các công trình nghiên cứu có giá trị lớn, những đề tài cấp cao...
Việc nghiên cứu về F.Dostoevsky ở Việt Nam, không thể không kể đến
Phạm Vĩnh Cư với công trình F.Dostoevsky – Sự nghiệp và di sản. Từ việc
dựa vào phân tích tiểu sử, cuộc đời tác giả để phân tích một số tác phẩm điển
hình như Tội ác và trừng phạt, Anh em nhà Karamazov…, ông đã cho người
9
đọc thấy được cái nhìn tổng quát về văn nghiệp và tư tưởng triết học của
F.Dostoevsky. Vì vậy, công trình nghiên cứu của ông có giá trị cao và trở
thành tư liệu hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về tư tưởng của
F.Dostoevsky.
Trần Đình Sử, một nhà lý luận hàng đầu của văn học Việt Nam hiện
nay cũng có công trình Bakhtin và thi pháp F.Dostoevsky. Ông đã đi sâu vào
việc phân tích các tác phẩm của F.Dostoevsky từ góc nhìn thi pháp giúp
người đọc ý thức được giới hạn của một kiểu tư duy thẩm mỹ để thấy rõ trong
tiểu thuyết của F.Dostoevsky xuất hiện các giới hạn khác của nhận thức nghệ
thuật. Đó là các yếu tố về nhân vật với lối độc thoại điển hình, vấn đề người
trần thuật… từ đó, tác giả của bài viết đã khẳng định tiểu thuyết của
F.Dostoevsky là một “tiểu thuyết đa thanh”.
Giáo sư Đặng Anh Đào trong cuốn Văn học phương Tây cũng đã đề
cập đến F.Dostoevsky với những vấn đề cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp, tư
tưởng nghệ thuật.
Bên cạnh đó, trong cuốn Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao
thoa trong văn học, giáo sư Đặng Anh Đào còn đề cập rõ nét hơn những nét
đặc sắc trong nghệ thuật như các vấn đề về nhân vật, cốt truyện, độc thoại nội
tâm và dòng tâm tư, cùng yếu tố thời gian thể hiện trong tiểu thuyết của
F.Dostoevsky.
Gần đây, trong cuốn sách Văn học Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc
điểm – Tiếp nhận ( 2015) của PGS. TS Phạm Gia Lâm có một số trang viết về
tư tưởng tự do và sáng tạo trong văn học Nga là gợi ý cho chúng tôi tìm hiểu
về chủ nghĩa hiện sinh trong tác phẩm của nhà văn F.Dostoevsky.
Luận văn thạc sĩ Tư tưởng đạo đức hiện sinh của F. M. F.Dostoevsky
trong tác phẩm “Tội ác và trừng phạt” (2014) của tác giả Dư Thị Tươi – Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã khai thác về chủ nghĩa hiện sinh của
10
F.Dostoevsky nhưng nhấn mạnh ở phạm trù tư tưởng đạo đức cũng thêm một
góc nhìn hữu ích cho chúng tôi.
Rõ ràng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có đề cập đến tư tưởng
của F.Dostoevsky nhưng vấn đề mối quan hệ giữa F.Dostoevsky và chủ nghĩa
hiện sinh vẫn chưa được khai thác thấu đáo. Đặc biệt, chưa có công trình nào
đi sâu khai thác motif hiện sinh trong tác phẩm của Fyodor Mikhailovich
Dostoevsky. Do vậy, chúng tôi hy vọng rằng luận văn với việc khai thác các
motif hiện sinh: Cá nhân – Xã hội, Tự do, Lựa chọn trong truyện Bút ký dưới
hầm và tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt sẽ khẳng định được ảnh hưởng của
F.Dostoevsky đối với triết học hiện sinh tôn giáo; xác định giải pháp nghệ
thuật của F.Dostoevsky cho những vấn đề hiện sinh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu
những motif hiện sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky.
- Phạm vi nghiên cứu: trên cơ sở xác định khái niệm chủ nghĩa hiện
sinh, vị trí của F.Dostoevsky trong triết học hiện sinh chủ nghĩa, luận văn
khảo sát những đặc điểm và phương thức thể hiện các motif hiện sinh thông
qua quan hệ giữa cá nhân - xã hội và sự lựa chọn của cá nhân. Tất cả đều liên
quan đến một số phạm trù của triết học hiện sinh hữu thần mà F.Dostoevsky
là người khai mở: hiện tồn/hiện hữu, xa lạ, tội ác, sám hối, niềm tin, tự do…
- Giới hạn phạm vi tư liệu khảo sát: Bút ký dưới hầm được coi là tác
phẩm mở đầu, đặt nền móng cho tiểu thuyết hiện sinh của F.Dostoevsky, cũng
có nhiều ý nghĩa cho thấy sự trăn trở và những tìm tòi buổi đầu của nhà văn.
Truyện sáng tác năm 1864, một năm sau, tác giả viết Tội ác và trừng phạt. Vì
thế Bút ký dưới hầm là điểm xuất phát cho Tội ác và trừng phạt cùng những
cuốn tiểu thuyết lẫy lừng sau này. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chọn
khảo sát hai tác phẩm này – hai tác phẩm quan trọng đánh dấu mốc trong sự
11
nghiệp văn học của F.Dostoevsky, là mốc son trong quá trình phát triển của tư
tưởng F.Dostoevsky.
- Hướng tìm hiểu của chúng tôi ở hai tác phẩm là xâu chuỗi những
motif về Cá nhân – Xã hội, Tự do, Lựa chọn để thấy được hành trình đi tìm
cái "Tôi" của các nhân vật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng tích hợp các phương pháp khác nhau
để nghiên cứu.
Muốn tìm hiểu motif, cần áp dụng cách tiếp cận hệ thống. Tìm hiểu
motif hiện sinh trong tác phẩm của F.Dostoevsky đòi hỏi xác lập mối quan hệ
tư tưởng – thẩm mỹ giữa hai vấn đề, điều đó đòi hỏi cách tiếp cận xã hội –
lịch sử.
Vì thế phương pháp nghiên cứu chúng tôi sử dụng ở đề tài là: Thi pháp
học có kết hợp so sánh lịch sử.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm các chương:
Chương 1: F.Dostoevsky và triết học hiện sinh
Chương 2: Xung đột giữa cá nhân và xã hội
Chương 3: Ứng xử với Tự do.
12
CHƢƠNG 1: F.DOSTOEVSKY VÀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH
1.1. Triết học hiện sinh và chủ nghĩa hiện sinh trong văn học
Thuật ngữ “Chủ nghĩa hiện sinh” (tiếng Anh: Existentialism) có gốc
latin ex(s)ítentia nghĩa là Tồn tại hay còn gọi là "triết học sinh tồn”, là một
trong những trào lưu triết học lớn vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trào
lưu này cho rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con người, không chỉ là
chủ thể tư duy mà là cá thể sống, cảm xúc và hành động. Trong triết học hiện
sinh, xuất phát điểm của con người được đặc tả bởi cái từng được gọi là “thái
độ hiện sinh” hay là một tình trạng nhất định hướng vào bối cảnh khi đứng
trước một thế giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý. Nhiều nhà hiện sinh cũng coi
triết học hàn lâm hoặc triết học truyền thống ở phong cách cũng như nội dung
là quá trừu tượng và tách biệt khỏi trải nghiệm cụ thể của con người. Vì thế,
họ đưa tính đặc thù độc đáo của tồn tại con người lên vị trí hàng đầu. Tính
độc đáo này không thể nhận thức bằng khái niệm và cũng không thể diễn đạt
qua ngôn ngữ.
Chủ nghĩa hiện sinh bắt nguồn từ học thuyết của S. Kierkegaard và trở
thành một trào lưu tư tưởng phổ biến ở Đức vào những năm 20 của thế kỷ
XX. Khi đó nước Đức thua trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất và bị tàn
phá nghiêm trọng. Triết học hiện sinh của Martin Heidegger phản ánh tâm
trạng bi quan của xã hội Đức trước sự tàn phá đó. Trong chiến tranh thế giới
thứ hai, trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh từ Đức chuyển sang Pháp. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát
triển gay gắt. Các cuộc khủng hoảng nhiên liệu, khủng hoảng sinh thái cùng
với đạo đức xã hội suy thoái đã làm tăng sự khủng hoảng về tâm hồn của con
người trong xã hội các nước tư bản chủ nghĩa, khiến cho tư tưởng hiện sinh
13
lan tràn trên nước Mỹ và sang nhiều nước phương Tây khác. Phương thức sản
xuất chạy theo lợi nhuận tối đa đã đẩy con người vào tình trạng tha hoá cùng
cực, lấy đi của họ cái vị trí làm người đích thực. Những tệ nạn xã hội cùng với
sự tàn phá khủng khiếp từ hai cuộc thế chiến do chủ nghĩa đế quốc gây ra đã
đẩy con người vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong đời sống tinh thần.
Nhiều luận điểm của chủ nghĩa hiện sinh cùng với phong trào hiện sinh ra đời
thể hiện sự nổi loạn trong lòng xã hội tư bản nhằm lên án xã hội, chống lại xã
hội, kêu gọi con người phải tự cứu lấy mình. Nhưng con người chưa xác định
được họ cần dựa vào cái gì để cứu mình và cứu xã hội. Nguyên nhân nữa là
con người phản ứng trước việc các nước phương Tây tuyệt đối hoá vai trò của
khoa học, sùng bái kỹ thuật đã hạ thấp, bỏ rơi con người hoặc chỉ quan tâm
đến mặt vật chất mà xem nhẹ mặt tâm hồn, đời sống tình cảm của họ. Triết
học duy lý đã từng có vai trò tích cực nhất định trong việc làm cho các nước
phương Tây đạt được những thành tựu vượt bậc trong chinh phục tự nhiên
bằng khoa học, công nghệ hiện đại. Nhưng mặt trái của nó là bắt con người
phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về xã hội, về môi trường sinh thái. Một
xã hội phương Tây giàu có về vật chất lại nghèo nàn về văn hoá, tinh thần;
tăng trưởng nhanh về kinh tế lại suy thoái nhanh về văn hóa, đạo đức. Các nhà
triết học hiện sinh hoàn toàn có lý khi họ kịch liệt phê phán sự tuyệt đối hoá
vai trò của lý trí, của khoa học khi họ vạch rõ sự thiếu hụt tinh thần nhân đạo
trong chính nền tảng của văn minh phương Tây. Họ chỉ thừa nhận vai trò của
cảm giác, của xúc cảm cá nhân, tức là ngả sang chủ quan phi duy lý.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất hiện sinh của cá nhân
con người, nó không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào, cũng
không chịu sự ràng buộc của bất cứ tính tất yếu khách quan nào, nó là tuyệt
đối. Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn của tự do cá
nhân. Chủ nghĩa hiện sinh còn đặt tự do của cá nhân này đối chọi với tự do
14
của cá nhân khác. Tự do của cá nhân không bị gò bó bởi người khác hay bất
kỳ lực lượng xã hội nào. Chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt
đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một
phương thức hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh không
chân thực. Bởi vì xã hội và cá nhân liên hệ chặt chẽ thì sự tồn tại của cá nhân
sẽ không còn là cá nhân thực sự mà là cá nhân bị đối tượng hoá, bị mất cá tính
do bị ràng buộc với người khác và với xã hội, là cá nhân bị tập thể, bị xã hội
lấn át. Do đó, tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người.
Để khôi phục sự hiện sinh chân chính của mình, con người cần thoát khỏi sự
ràng buộc của những người khác và của xã hội. Xã hội chính là sản vật tha
hoá của con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách quan tự thân
phát triển theo quy luật mà là một mớ ngẫu nhiên những con người bị tha hoá.
Động lực phát triển tất nhiên cũng không nằm trong bản thân xã hội mà là do
hiện sinh của cá nhân quyết định. Vì thế cần tìm hiểu tiến trình và đặc điểm
của lịch sử thế giới ở bên trong cá nhân con người.
Theo chủ nghĩa hiện sinh, một mặt lịch sử xã hội là sự tha hoá của tồn
tại cá nhân, nên bản thân nó không có thực tại khách quan; mặt khác con
người lại bị nô dịch bởi những cái mà họ sáng tạo ra, đó là sức mạnh tha hóa.
Hơn nữa, mọi cố gắng thoát khỏi sự nô dịch đó đều vô ích, đều bị thất bại. Do
đó, lịch sử loài người chỉ là một bi kịch không có kết thúc. Vậy con người làm
thế nào để giải thoát khỏi sức mạnh tha hoá và bi kịch của họ? Chủ nghĩa hiện
sinh nhận định rằng không thể dựa vào khoa học và lý tính hay bất cứ cái gì
khác mà chỉ có thể tự cứu mình bằng những hành động tự phát, mạo hiểm
hoặc chờ mong sự giải thoát ở các lực lượng tôn giáo thần bí. Đó là con
đường bế tắc mà chủ nghĩa hiện sinh chỉ ra cho con người.
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức tạp. Tuy rằng,
tất cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh đều coi sự hiện sinh của cá nhân
15
là nội dung cơ bản trong triết học của mình, đều coi hiện sinh là sự cảm thụ
chủ quan, sự thể nghiệm tâm lý có tính chất phi lý tính của cá nhân, hiện sinh
có trước bản chất (có nghĩa là con người hiện hữu trước, tự nổi lên trong thế
giới, và sau đó nó mới được định nghĩa với câu nói rất nổi tiếng: con người
không có cái gì khác ngoài cái mà nó đang hiện ra); nhưng quan điểm của
những đại biểu triết học lại có sự khác nhau. Ngoài phân biệt quốc gia như
chủ nghĩa hiện sinh Đức, chủ nghĩa hiện sinh Pháp và chủ nghĩa hiện sinh của
Mỹ, còn có thể phân biệt chủ nghĩa hiện sinh theo thái độ với tôn giáo như
chủ nghĩa hiện sinh vô thần và chủ nghĩa hiện sinh hữu thần.
Kế thừa tri thức của nhiều nhà tư tưởng, chủ nghĩa hiện sinh ra đời như
là một kết quả tất yếu sau các cuộc chiến tranh đẫm máu, hướng mọi suy tư,
mọi câu hỏi về thân phận của con người. Theo họ, con người có thể tự do lựa
chọn cách sống, thái độ sống của mình. Họ kêu gọi con người quay về với cá
nhân bởi không gì tha thiết với con người bằng chính con người. Bởi vậy,
tiếng nói của hiện sinh được mọi người, nhất là tầng lớp thanh niên sống trong
xã hội khủng hoảng với nhiều chuyển biến, lớp người nhiều lo âu về thân
phận mình, chào đón một cách nồng nhiệt. Và vì thế, từ một trào lưu triết học,
nó đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến văn học và các ngành nghệ thuật
khác. Các nhà hiện sinh không chỉ trình bày những quan điểm của mình qua
sách báo lý luận thuần túy mà họ còn truyền tải tới đông đảo bạn đọc bằng các
hình thức tác phẩm văn chương như truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, nghiên cứu
văn học… Cùng chung một đối tượng: con người, cuộc sống và cái chết của
con người nên triết học hiện sinh thường gắn liền với văn học. Do vậy, triết
học hiện sinh đã đi vào đời sống và văn học một cách trực tiếp mà các triết
thuyết khác không có, vô cùng tự nhiên và với mức độ phổ biến ngày càng
sâu rộng. Từ đó, một trào lưu văn học hiện sinh xuất hiện ở châu Âu với các
đại diện là những nhà văn đồng thời là những triết gia hiện sinh. Tuy nhiên,
16
- Xem thêm -