Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆ...

Tài liệu NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

.DOC
21
723
83

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM Trường THPT Chuyên Bắc Giang Thực hiện: Nhóm Lịch sử MỞ ĐẦU Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi truyền thống. Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo lưu cho đến thời điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Xét trong tương quan với thế giới và khu vực, đặc biệt là với các dân tộc phương Đông, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta có những nét chung với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề chung như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ổn định và phát triển đời sống xã hội... Mặt khác, sự giao lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay mức độ khác, nhất là với các nước gần nhau đã ảnh hưởng đến nhau khá rõ rệt. Cái khác nhau ở đây là trật tự sắp xếp các giá trị đạo đức, mối tương quan giữa chúng và những sắc thái riêng hình thành trong điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử phát triển lâu dài trên giải đất Việt Nam với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó NỘI DUNG 1. Cơ sở hình thành các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam Truyền thống bao giờ cũng là sản phẩm của một cộng đồng tồn tại lâu đời trên một vùng đất nhất định. Truyền thống dựng nước gắn với giữ nước của Việt Nam là do cộng đồng người Việt tạo dựng trong lịch sử lâu đời trên dải đất Việt Nam với tất cả những điều kiện và đặc điểm của Tổ quốc Việt Nam. Vậy những đặc thù tạo nên truyền thống của Việt Nam là gì? Trước hết, Việt Nam là nước có vị trí quan trọng của vùng Đông Nam Á. Nằm ở góc cực Đông-Nam của đại lục Châu Á, nước ta vừa nhìn ra Thái Bình Dương với bờ biển dài trên 3200 km, vừa nối liền với lục địa bằng hệ thống giao thông thuỷ bộ và đường không, thuận lợi từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây. Là vùng khí hậu phù hợp với nghề nông nghiệp trồng lúa nước, quanh năm cây cỏ xanh tươi, lại nhiều khoảng sản, thuỷ hải sản, tạo ra tiềm năng cho sự phát triển của dân tộc. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nằm trong khu vực có khí hậu nóng ẩm hà khắc, thường xuyên có bão lụt, hạn hán, núi non hiểm trở, dân cư phân bố không đồng đều trong các vùng, ở đồng bằng tập trung đông đúc, miền núi tương đối thưa thớt. Ở Việt Nam, hệ thống sông ngòi khá dày đặc, để có khắc phục tình trạng ngập lụt trong các mùa mưa bão, người dân phải tích cực xây dựng hệ thống đê điều, kênh mương. Nước ta trong lịch sử cổ đại và trung đại luôn luôn bi đè nặng bởi bóng đen của những đế chế hùng mạnh từ phương Bắc. Đối với đế chế đó, phương Nam luôn là miền đất lạ, giàu có, nhiều sản vật quý. Dải đất phương Nam nằm giữa vùng núi cao trùng điệp và một bên là đại dương mênh mông, luôn luôn là cái hành lang cần thiết cho tham vọng bành trướng với những đoàn quân khổng lồ rong ruổi vó ngựa từ Bắc xuống Nam Á. Trong thời cận đại và hiện đại, Việt Nam có vị trí chiến lược trong khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương nhiều tài nguyên phong phú, là nơi bọn thực dân cũ và thực dân mới dòm ngó và xâm lược. Với điều kiện khách quan như vậy, để tồn tại được, các cư dân Việt Nam từ xưa đã phải sớm cố kết lại, chống chọi với thiên nhiên và ngoại xâm, đối phó với quá trình đống hoá hàng ngàn năm trong thời Bắc thuộc; vùng lên giành quyền tự chủ; xây dựng đất nước, giữ vững độc lập chủ quyền, chống các cuộc chiến tranh xâm lược liên tiếp của các thế lực hùng mạnh và tàn bạo của các đế chế phương Bắc và chủ nghĩa đế quốc thực dân phương Tây, trên cơ sở đó đã tạo nên đặc thù trong truyền thống dựng nước và giữ nước của Việt Nam. Hiểu hoàn cảnh đặc thù đó, chúng ta có thể khẳng định rằng lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước gắn bó với nhau. Dựng nước luôn luôn gắn chặt với giữ nước, trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản. Đây là quan điểm nhất quán của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh để dựng nước và giữa nước. Phải xây dựng đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và phải giữ nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ tư tưởng và các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta. Ngày nay, chúng ta đang đề cập đến hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó cũng chính là thể hiện mối quan hệ giữa dựng nước và giữ nước. Sự kết hợp bền vững giữa dựng nước và giữ nước, trong hoàn cảnh và điều kiện đặc thù Việt Nam tạo nên một truyền thống tốt đẹp xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay với biết bao kỳ tích anh hùng. 2. Một số quan điểm về các giá trị trong truyền thống của dân tộc Việt Nam Lâu nay, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống đã được nhiều người, nhất là các nhà khoa học quan tâm. GS Nguyễn Hồng Phong cho rằng, tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo; lạc quan. GS Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa GS Vũ Khiêu, chủ biên công trình "Đạo đức mới" cho rằng, trong những truyền thống quý báu của dân tộc, nổi bật lên nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con ngời, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc Kết quả nghiên cứu của Chơng trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Con ngời Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" cũng đã bước đầu khẳng định: Cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con ngời Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người. Những giá trị đạo đức - tinh thần truyền thống dân tộc cũng được đề cập đến trong một số văn kiện của Đảng, Nhà nước và tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một lần nữa khẳng định: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống..." Từ những nhận định trên có thể rút ra một số nhận xét sau: Một là, trong hệ thống giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật. Vì vậy, khi đề cập đến các giá trị văn hóa, giá trị tinh thần truyền thống hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh đến giá trị đạo đức. Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là giá trị cốt lõi, giá trị định hướng các giá trị khác. Ba là, một số phẩm chất đạo đức phổ biến của con ngời Việt Nam như tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, đức tính cần cù, tinh thần lạc quan... cũng thường được đề cập và coi đó là những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dựa vào tiêu chí xác định giá trị, giá trị đạo đức và từ quan điểm của Đảng ta cũng như của các nhà khoa học, có thể khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: - Chủ nghĩa yêu nước. - Lòng thương người sâu sắc. - Tinh thần đoàn kết cộng đồng. - Đức tính cần kiệm. - Lòng dũng cảm, bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan. Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả và là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của dân tộc mang đậm nét đặc thù của sự phát triển xã hội trong lịch sử Việt Nam. Đó còn là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều trào lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị đạo đức - văn hóa vốn có của mình, nhất là khi có sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. 3. Nội dung của những giá trị trong truyền thống dân tộc Việt Nam a. Truyền thống yêu nước Trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, yêu nước là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị", là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta". Yêu nước ở Việt Nam trở thành một truyền thống rồi được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ và đem lại nhiều lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước là tình cảm phổ biến của nhân dân các dân tộc trên thế giới. V.I. Lênin đã từng khẳng định: "Chủ nghĩa yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất đã được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập". Song, sự hình thành sớm hay muộn, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện của nó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc Trong lịch sử phát triển của một số quốc gia, tinh thần dân tộc có lúc phát triển chệch hướng theo chủ nghĩa sôvanh nước lớn, đại dân tộc hoặc sa vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của các xung đột sắc tộc và xung đột giữa một số quốc gia, khu vực trên thế giới. Nhưng lịch sử cũng cho thấy sức mạnh to lớn của chủ nghĩa yêu nước một khi nó được phát triển theo xu hướng lành mạnh, tích cực mà chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta là một minh chứng đầy sức thuyết phục. Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xa đến nay. Lòng yêu nước có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, là chăm lo xây dựng quê hương, đất nước, sẵn sàng chống đô hộ và xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với mỗi người, lòng yêu nước phát triển từ những tình cảm bình dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần dần phát triển thành tình cảm gắn bó với làng xóm, quê hương và cao hơn hết là tình yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc. Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Phải xây dựng đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có khả năng chiến thắng các thế lực thù địch bên ngoài và có giữ được Tổ quốc mới có điều kiện xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến những thành quả vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Yêu nước đối với nhân dân ta trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa... để tạo sức mạnh bên trong bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Trải qua hơn một nghìn năm dưới chính sách đô hộ của bọn phong kiến phương Bắc, cha ông ta vẫn bám trụ kiên cường, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả tổ tiên, giữ vững nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Mỗi làng xóm Việt Nam là một thành trì vững chắc chống chính sách đô hộ của ngoại bang, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Tinh thần yêu nước, thương nòi của nhân dân ta, trong muôn vàn khó khăn, gian khổ vẫn không giảm sút mà âm ỉ cháy trong lòng người Việt và được thể hiện bằng những hành động cụ thể trong đấu tranh chinh phục tự nhiên, xây dựng cuộc sống, giữ gìn những phong tục tập quán tốt đẹp có từ buổi đầu dựng nước để khi có thời cơ thì đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước. Khi công cuộc chống xâm lược, giải phóng đất nước đã hoàn thành, truyền thống yêu nước được thể hiện chủ yếu trong điều kiện tồn tại nhà nước phong kiến độc lập. Trong thời gian dài, nhất là từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, nhân dân cả n ước ta thực sự bắt tay vào việc xây dựng đất nước giàu mạnh. Công cuộc khai khẩn đất đai, xây dựng các công trình trị thủy để phát triển sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề... đã góp phần hình thành một nền kinh tế tự chủ, đáp ứng phần lớn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước và đặt cơ sở cho quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực. Trên cơ sở kinh tế đó, nhà nước phong kiến được củng cố và phát triển với đầy đủ các thiết chế chính trị, quân sự, văn hóa... ý thức dân tộc do đó cũng được tăng cường và củng cố thêm một bước. Trong sự nghiệp giữ nước, truyền thống yêu nước của nhân dân ta được thể hiện nổi bật. Nạn ngoại xâm là một nguy cơ gần như có tính chất thường trực trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Trong hầu hết các trường hợp, kẻ đi xâm lược là những nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn ta nhiều lần. Cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của nhân dân ta diễn ra trong sự so sánh lực lượng chênh lệch có lợi về phía địch. Lúc này, mọi mâu thuẫn trong nội bộ của nhân dân đều phải nhường chỗ cho nhiệm vụ trọng yếu là bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện đó, tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta. Không kể những thứ giặc có từ thời Hùng Vương được phản ánh trong những truyền thuyết dân gian, tính từ cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược của đế chế Tần vào cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đến kháng chiến chống Mỹ, thời gian chống ngoại xâm cộng lại lên đến trên 12 thế kỷ, chiếm hơn một nửa thời gian lịch sử với mời bốn cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Chỉ riêng thế kỷ XIII, đời Trần, trong vòng 30 năm (1258-1288) nước Đại Việt phải đương đầu với ba cuộc xâm lăng của đế quốc Mông Nguyên khét tiếng trên thế giới lúc bấy giờ. Từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1975, dân tộc ta phải đương đầu với các cường quốc đế quốc chủ nghĩa như đế quốc Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ. Có thể nói, ít có dân tộc nào trên thế giới phải trải qua những thử thách gay go, ác liệt như vậy. Chính lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược dù chúng to lớn đến bao nhiêu và từ đâu đến. Chính qua các cuộc chiến đấu trường kỳ, đầy gian khổ hy sinh đó mà chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta được bộc lộ rõ nét và được nâng lên ở tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lớt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước". Trong quan niệm phổ biến của nhân dân ta, lợi ích của Tổ quốc bao giờ cũng lớn hơn lợi ích của cá nhân, quyền lợi của gia đình, dòng họ, ngai vàng của vua chúa. Kẻ nào vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích dân tộc đều bị nhân dân trừng trị bằng nhiều cách và lịch sử đời đời lên án. Còn những người có công trong sự nghiệp dựng và giữ nước đều được nhân dân đặc biệt kính trọng và tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Nhiều đền thờ, miếu mạo đặt ở nơi trang trọng, trải dài khắp đất nước đã ghi lại bao chiến tích lẫy lừng của ông cha ta, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân với những người đã xả thân vì dân, vì nước. Nó có sức mạnh giáo dục và cổ vũ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của các thế hệ người Việt Nam từ xa đến nay. Chủ nghĩa yêu nước là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" là "dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một dạng triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn Việt Nam". Nó là tiêu chí cơ bản và phổ biến để đánh giá tính đúng đắn trong đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền cũng như hành vi của từng cá nhân. Hình thành sớm, được thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, chủ nghĩa yêu nước là một trong những giá trị cao quý và bền vững nhất của dân tộc ta. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lòng thương yêu và quý trọng con ngưười, nhất là người lao động. b. Truyền thống nhân nghĩa, yêu thương con người Truyền thống nhân nghĩa, yêu thương con người của cha ông ta có nguồn gốc sâu xa từ sinh hoạt trong công xã nông thôn, chế độ ruộng công, làng cùng họ từ thời cộng đồng nguyên thủy và được củng cố, phát triển qua quá trình chung lưng khai phá giang sơn, giữ gìn đất nước. Tình thương yêu con người của người Việt Nam thấm đợm trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, được phát triển trong quan hệ giữa gia đình và làng xóm và mở rộng ra cả cộng đồng dân tộc. Lấy tình thương yêu làm cơ sở cho cách xử thế ở đời là triết lý sống của người Việt Nam - khen ngợi hết lời những tấm gương vì nghĩa cả và lên án mạnh mẽ những kẻ ác nhân, ác đức cũng từ đó mà ra. Ng ười Việt Nam coi trọng tình nghĩa hơn lễ nghĩa. Trong gia đình, thương yêu là một tình cảm tự nhiên như cha mẹ thương yêu con cái và con cái khi đã trưởng thành phải có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi già yếu. Vợ chồng là những người chủ yếu xây dựng tổ ấm gia đình, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi nên ăn ở với nhau phải như "bát nớc đầy", không hề nghĩ đến chuyện thiệt hơn. Anh em trong nhà phải "như thể chân tay", coi "anh thuận, em hòa, là nhà có phúc". Đối với người dưng thì phải biết giúp đỡ khi họ gặp khó khăn hoạn nạn, bênh vực kẻ yếu với thái độ vô tư khi họ bị kẻ mạnh áp bức. Hàng ngàn năm dưới ách thống trị của phong kiến, cuộc sống của nhân dân lao động nước ta vô cùng cực khổ. Chính sách nô dịch, cướp bóc của bọn thống trị nước ngoài, sự bóc lột dưới nhiều hình thức của bọn địa chủ phong kiến trong nước cùng với bão lụt, hạn hán, mất mùa, các loại dịch bệnh... đã đè nặng lên cuộc sống của nhân dân lao động nước ta. Trước tình cảnh đó, họ cảm thấy thương mình và thương những người cùng cảnh ngộ như mình. Mỗi người đồng cảm với nỗi đau của người khác, sẵn sàng "nhường cơm sẻ áo" cho nhau với tinh thần "lá lành đùm lá rách", "lá rách ít đùm lá rách nhiều". Tư tưởng "thương người như thể thương thân" ấy được nhân dân ta tôn trọng giữ gìn và chuyển giao qua các thế hệ, trở thành một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Trong cuộc sống, người Việt Nam coi trọng sự dung hòa "chín bỏ làm mời" để tạo nên sự gắn bó lâu dài, nhất là với hàng xóm láng giềng "tối lửa, tắt đèn có nhau". Khi có những va chạm khó tránh khỏi trong cuộc sống thường nhật thì cố gắng giải quyết theo phương châm "có lý, có tình" nhưng thường thì đặt tình trước lý, nặng tình nhẹ lý, thậm chí trong nhiều trường hợp là duy tình. Người Việt Nam trọng tình nghĩa nên không tha thứ chuyện bạc tình, bạc nghĩa kiểu "ăn cháo, đá bát" ngay cả đối với những người ruột thịt: "Người dưng có ngãi (nghĩa) thì đãi người dưng. Anh em vô ngãi thì đừng anh em". Thương yêu và quí trọng con người, đề cao con người với lòng tự hào chân chính về sức mạnh và vẻ đẹp của nó là phẩm chất đạo đức cao đẹp của nhân dân ta: "Người ta là hoa đất", "Một mặt người hơn mười mặt của", "Người sống đống vàng". Vì giàu lòng thương người nên khi bị chà đạp, nhân dân ta luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh giành lấy quyền sống cho mình. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược và đồng hóa. Vì vậy, nhân dân ta hiểu rất rõ quyền sống của mình gắn với vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc. Đạo làm người của nhân dân ta trước hết là yêu nước và dám xả thân vì nước. Con người yêu nước và con người thương dân gắn bó chặt chẽ với nhau. Yêu nước và cứu nước là để đem lại quyền sống trong độc lập tự do của con người. Thương yêu con người trước hết là yêu nước và cứu nước. Nước không có độc lập thì nhân dân không thể có tự do, hạnh phúc. Chống áp bức, bất công, thần quyền, quân quyền, đả kích những ràng buộc khắt khe của đạo đức phong kiến là để đem lại quyền sống chân chính của con người. Lòng thương người truyền thống của dân tộc ta còn bao hàm cả lòng vị tha với những kẻ lầm đường lạc lối, biết lập công chuộc tội, trở về với chính nghĩa và "mở đường hiếu sinh" với kẻ thù một khi chúng đã bị thất bại. Lòng thương người truyền thống của dân tộc ta là cơ sở của lòng yêu chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ bang giao với các nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung đột dẫn đến cảnh "máu chảy, đầu rơi", tận dụng mọi cơ hội để giải quyết hòa bình các cuộc xung đột giữa nước mình với các quốc gia láng giềng, cho dù nguyên nhân là từ phía kẻ thù bên ngoài. Lòng thương người truyền thống của dân tộc ta thấm nhuần tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sức mạnh của con người và sự thắng lợi của chính nghĩa với phi nghĩa, của cái đẹp, cái thiện, cái đúng với cái xấu, cái ác, cái sai. Đó là nguồn lực tinh thần to lớn giúp nhân dân ta vợt qua mọi khó khăn thử thách, từng bước vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Lòng thương người truyền thống của nhân dân ta chủ yếu là lưòng thương người của nhân dân lao động, nhưng nhiều khi cũng được biểu hiện khá rõ nét ở những nhân vật cá biệt thuộc giai cấp phong kiến, nhất là các nhà trí thức phong kiến yêu nước vì lẽ này hay lẽ khác gắn bó với nhân dân. Thông thường, vào giai đoạn đầu của mỗi triều đại, nhất là lúc tập đoàn phong kiến mới lên dựa vào nhân dân để chống xâm lược hay giành lấy chính quyền từ tập đoàn phong kiến cũ đã đến lúc thối nát thì tư tưởng và chính sách của họ thể hiện sự quan tâm nhất định đến cuộc sống của nhân dân. Họ mong muốn nhân dân được sống trong cảnh thái bình và no ấm. Nhiều sáng tác của họ thấm đợm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Nhưng thư- ờng vào cuối mỗi triều đại, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng sâu sắc của chế độ phong kiến, thì sự áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến lên đến cực độ, đời sống nhân dân lao động vô cùng cực khổ. Trước tình hình đó, một số sĩ phu tiến bộ đã lên tiếng tố cáo sự tàn bạo của giai cấp phong kiến, xót thương với số phận của nhân dân và nói lên khát vọng giải phóng con người khỏi xiềng xích của chế độ phong kiến. Lòng thương người của dân tộc ta từ lâu đã trở thành nếp nghĩ, hành động phổ biến trong nhân dân, chi phối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Về sau, khi có sự du nhập của Phật giáo và Nho giáo thì quan niệm "Từ bi, bác ái" của Phật giáo và "Nhân" của Nho giáo cũng có ảnh hưởng nhất định đến đạo đức truyền thống Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng "từ bi" của Phật giáo có xu hướng cổ vũ con người đi về phía tu hành để mong giải thoát khỏi "bể khổ" nơi trần thế, còn "từ bi" trong quan niệm dân gian thì gần gũi và thiết thực. Đức thương người truyền thống của dân tộc ta nhằm vào trừ bạo, an dân, đem lại lợi ích cho đất nước. Chữ "Nhân" của Nho giáo được người Việt Nam hiểu trước hết là lòng thương người và không bị chế định bởi chữ "Lễ" khắc nghiệt trong quan niệm của Khổng, Mạnh. "Nhân" của người làm vua trong quan niệm của ông cha ta là phải thương dân như thương con, lời nói và việc làm phải phù hợp với lòng dân vì "ý dân là ý trời"; người làm quan có "Nhân" là người phải biết sống thanh liêm, đức độ, chăm lo đến cuộc sống của dân; người bình dân có "Nhân" là người sẵn lòng cưu mang người khác khi họ gặp hoạn nạn mà không màng vụ lợi. Lòng thương người là một trong những truyền thống rất đáng tự hào của dân tộc ta. Nó gắn liền với tinh thần chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm cứu dân, cứu nước, chống lại mọi bất công, chà đạp lên cuộc sống con người. Nó thấm nhuần tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa người và người trong sản xuất, đấu tranh xã hội, trong sinh hoạt thường ngày và lòng yêu chuộng hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, lạc quan tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân và tiền đồ tơi sáng của dân tộc. Lòng thương người vốn có của dân tộc đã được Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại biểu chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện - kế thừa và phát triển rực rỡ trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đúng như Đảng ta khẳng định: "Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương nước - thương nhà, thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết". Lòng yêu nước thương người là cơ sở sâu xa và vững bền của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. c. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước. Nhờ đoàn kết cha ông ta đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Nhờ đoàn kết cha ông ta đã sáng tạo nên nền văn minh sông Hồng, đặt cơ sở cho toàn bộ tiến trình phát triển về sau của đất nước. Đoàn kết đã giúp nhân dân ta vợt qua những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ đời sống của mình. Từ kinh nghiệm thực tế, cha ông ta nhận thức sâu sắc rằng: "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết", "Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại thành hòn núi cao". Tinh thần đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh lớn lao để nhân dân ta đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm. Lịch sử dân tộc ta cho thấy rằng, đứng trước các thế lực ngoại xâm mà không thực hiện đoàn kết toàn dân, để cho mầm chia rẽ làm suy yếu đất nước thì sự nghiệp giữ nước sẽ thất bại. Thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đầu thế kỷ XV là một trờng hợp tiêu biểu. Nhà Hồ có 7 năm để chuẩn bị kháng chiến (tuyển mộ quân lính, đắp thành, dựng lũy, rèn đúc vũ khí...) nhưng chỉ vì "chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận" như nhận xét của Nguyễn Trãi nên không đoàn kết được toàn dân để đánh giặc cứu nước. Vì vậy, sau nửa năm chống đỡ quân Minh, nhà Hồ đã bị thất bại hoàn toàn. Thấy rõ vai trò của yếu tố đoàn kết, cha ông ta luôn có ý thức chống chính sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng cát cứ của các thế lực phong kiến. Từ chính sách dùng ngời Việt đánh người Việt của các thế lực phong kiến phương Bắc (dĩ Di công Di) đến chính sách chia rẽ của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã lần lợt bị thất bại trước sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta. Chính sách "chia để trị" của bọn thực dân Pháp như chia rẽ giữa ba miền Bắc, Trung, Nam, chia rẽ các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân (chia rẽ giữa người theo đạo và không theo đạo, tách một số người ra khỏi dân tộc để làm tôi tớ cho chúng - bộ phận trí thức mất gốc, tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi gắn với đế quốc, bộ phận công chức làm chỗ dựa cho sự thống trị của chúng...) cũng như âm mưu chia cắt hai miền Nam - Bắc của đế quốc Mỹ đã lần lợt bị thất bại trước sức mạnh đoàn kết triệu người như một của nhân dân ta. Khuynh hướng phân quyền, cát cứ xuất phát từ lợi ích hẹp hòi của các thế lực phong kiến địa phương. Nó đi ngược lại xu thế phát triển của lịch sử dân tộc. Trong lịch sử nước ta, khuynh hướng này có lúc trỗi dậy khá mạnh (nạn cát cứ và tranh chấp của 12 sứ quân kéo dài 23 năm từ 944 đến 967, xung đột Nam - Bắc triều, xung đột Trịnh - Nguyễn, tình cảnh phân liệt Đàng trong - Đàng ngoài xuất hiện trong thời gian từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII) gây ra bao cảnh đau thương cho nhân dân ta nhưng không thể phá hoại tinh thần đoàn kết, ý chí thống nhất đất nước mà lịch sử hàng nghìn năm chung sức đấu tranh dựng nước và giữ nước đã tạo nên trong tư tưởng, tình cảm của nhân dân Việt Nam. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta là một điểm tựa tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Trước lúc đi xa, Người còn khẳng định: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta" và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên "... cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". d. Truyền thống cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm Cần kiệm là một giá trị đạo đức có từ bao đời của dân tộc ta. Cần cù là biểu hiện thái độ của con người trong hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần và các mặt hoạt động khác của con ngời. Nó là kết quả và là điều kiện không thể thiếu được của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người nói chung, dân tộc ta nói riêng. Lao động của con ngời, ngoài giá trị kinh tế còn là hình thức để phát triển năng lực tinh thần, phương tiện để giáo dục, rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp của con người. Trong lịch sử, nhân dân ta đã tận dụng nhiều yếu tố tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất và đời sống, nhưng cũng gặp vô vàn khó khăn, đòi hỏi phải nỗ lực khắc phục để tiến lên. Chính hoàn cảnh sản xuất và đấu tranh xã hội qua bao đời đã hình thành trong con người Việt Nam đức tính cần cù và tiết kiệm. Trong điều kiện thiên nhiên Việt Nam vừa hào phóng vừa rất khắc nghiệt, lao động của con người chủ yếu dựa vào cơ bắp, nếu không cần cù và tiết kiệm thì khó có thể tồn tại, lại càng không thể nói đến sự phát triển. Ngay trong bản thân hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng hết sức vất vả với tất cả các khâu phải dùng sức người là chính với một cường độ cao và thời gian kéo dài, thậm chí người ta phải tranh thủ làm cả về đêm. Rõ ràng là, do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nên muốn khai thác thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình, người Việt Nam phải đấu tranh vô cùng gian khổ. Sự hình thành một nền văn minh nông nghiệp trên đất nước ta chính là kết quả của cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt của nhân dân ta nhằm khắc phục mặt trái của thiên nhiên Việt Nam để sản xuất của cải vật chất, bảo đảm sự sống còn của mình. Cùng với thiên tai khắc nghiệt, các cuộc chiến tranh xâm lược và sự thống trị của các thế lực bên ngoài đã phá hoại nền kinh tế, làm cho nền kinh tế và đời sống của nhân dân ta bị kéo lùi mà thời gian tính bằng thế kỷ so với sự phát triển bình thường. Trong lịch sử, các cuộc chiến tranh xâm lược của quân nhà Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực bành trướng khác đã gây ra vô số tổn thất về tính mạng và tài sản của nhân dân ta. Dù vậy, trong suốt hành trình lịch sử của mình, nhân dân ta vẫn cố bám đất, bám làng, vừa cày ruộng vừa đánh giặc để nuôi sống mình và bảo vệ đất nước. Trong hoàn cảnh có nhiều thiên tai, địch họa, nhờ đức tính cần cù và tiết kiệm mà nhân dân ta đã vợt qua mọi khó khăn, trở ngại để từng bước tự khẳng định mình trên con đường tiến hóa của dân tộc. Trải qua bao đời, ý thức đề cao lao động, chống thói lời biếng đã ăn sâu vào trong tiềm thức của người Việt Nam. Thấu hiểu giá trị của sự kết hợp sức lao động và đất đai, người Việt Nam chú trọng giáo dục, động viên, giúp đỡ nhau trong sản xuất, làm cho "tấc đất" có thể trở thành "tấc vàng". Lao động cần cù là nguồn gốc của mọi của cải và hạnh phúc: "Năng nhặt chặt bị", "Kiến tha lâu đầy tổ", "Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu". Yêu quí lao động, người Việt Nam cũng tỏ thái độ phê phán thói lời biếng "ăn no lại nằm". Họ ý thức rất rõ thói ăn không ngồi rồi là nguồn gốc của tội lỗi: "Nhàn cư vi bất thiện". Người Việt Nam đánh giá phẩm chất đạo đức của con người cao hơn cái dáng vẻ bên ngoài: "Cái nết đánh chết cái đẹp" mà cái nết thể hiện rõ nhất ở sự chăm chỉ, khéo léo của con người. Trong một số trường hợp, sự cần cù còn để bù đắp những khiếm khuyết về trí tuệ của con người: "Cần cù bù thông minh". Cần cù gắn liền với tiết kiệm. Cần mà không kiệm thì cuộc sống bấp bênh do "làm đồng nào xào đồng nấy". Còn kiệm mà không cần là vô nghĩa vì lấy gì mà kiệm. Từ kinh nghiệm của mình, người Việt Nam thấy rằng: "Khi có mà không ăn dè, đến khi ăn dè chẳng có mà ăn". Vì vậy, trong cuộc sống không nên "Vung tay quá trán", nghĩa là phải biết tiết kiệm. Trong nhiều trường hợp, tiết kiệm còn được đặt lên trên nhiều thứ khác: "Buôn tàu, buôn bè, không bằng ăn dè hà tiện". Tiết kiệm còn có nghĩa là khéo léo sắp xếp cuộc sống, tránh những lãng phí không cần thiết. Rất cần kiệm trong sản xuất và đời sống của cá nhân và gia đình nhưng người Việt nam cũng hào phóng trong quan hệ với họ hàng, làng xóm, họ tỏ thái độ phê phán thói bủn xỉn, keo kiệt: "Của mình thì giữ bo bo. Của người thì để cho bò nó ăn". Tâm lý cần kiệm có từ nhân dân lao động và cũng được thể hiện ở một số trí thức yêu nước. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi quan niệm, với người làm quan thì cần kiệm là đức tính không thể thiếu được. Đó là phải chăm lo những công việc ích nước, lợi dân, chống tiêu xài lãng phí như xây dựng nhiều cung điện, mở nhiều yến tiệc và các nghi lễ phiền phức khác làm tốn kém thì giờ, tiền bạc của nhân dân và của cải của đất nước. Ông thay Lê Thái Tổ (Lê Lợi) thảo "Chiếu ra lệnh cho các quan không được làm lễ nghi chúc mừng", qua đó, ông phản đối việc xây cung điện và bày vẽ các lễ nghi, tiệc tùng gây tốn kém. Ông khuyên các quan từ lớn đến nhỏ mang trách nhiệm "coi quân" và "trị dân" thì phải chăm lo việc nước, tránh tham nhũng, lười nhác, phải "lấy nhiệm vụ quốc gia làm nhiệm vụ của mình, lấy điều lo của nhân dân làm điều lo của mình". Trong bài chiếu làm thay Lê Lợi để răn thái tử, ông cũng chú ý đến việc rèn luyện đức tính cần cù, giản dị: "... Phàm những phương pháp sửa lòng trị dân, phải gắng sức mà làm, không được lúc nào mảng vui lời biếng... chớ chứa nhiều của cải mà sinh thói xa xỉ, chớ tham hát hay, sắc đẹp mà sinh lòng hoang dâm..." Ngay cả với Lê Lợi, ông cũng có lời khuyên khéo léo về đức cần kiệm của người làm vua khi Lê Lợi sai ông soạn nhạc ca ngợi cảnh thái bình. Cả cuộc đời Nguyễn Trãi cũng là tấm gương sống cần kiệm, giản dị, thanh bạch, có sức cổ vũ lớn lao cho những người làm quan và dân chúng. Trong lịch sử của dân tộc ta, nhiều nhà trí thức yêu nước đã đề cao đức cần, kiệm, coi nó như một nguyên tắc cơ bản của đạo làm người. Cần cù và tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống có từ bao đời của nhân dân ta. Nó vừa là điều kiện bảo đảm nhu cầu sống của con người, vừa là sự thể hiện ý thức trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của mình. Tất cả những thành quả vật chất và tinh thần mà cha ông ta để lại cho đến ngày nay đều gắn liền với truyền thống cần kiệm đó. e. Lòng dũng cảm, tinh thần bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan. Lòng dũng cảm, bất khuất, tinh thần tự tôn dân tộc và tự tin ở sức mình là những phẩm chất khá nổi bật trong hệ giá trị văn hóa truyền thống. Nhờ có những phẩm chất đó dân tộc ta mới dám đương đầu và đương đầu thắng lợi mọi thiên tai, địch họa tưởng chừng không vợt qua nổi. Người Việt Nam khiêm tốn nhưng không hạ thấp mình; giản dị nên ghét thói xa hoa, cầu kỳ, phô trương hình thức; trung thực, thủy chung nên ghét kẻ "lá mặt, lá trái", "tiền, hậu bất nhất"; lạc quan nên không chùn bước trước mọi thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Trong trường kỳ lịch sử của mình, ông cha ta đã bền bỉ đấu tranh để giành và giữ độc lập dân tộc. Nhưng dới chế độ cũ, độc lập dân tộc chưa thể đem lại tự do, hạnh phúc thực sự và lâu dài cho nhân dân lao động vì giai cấp phong kiến thống trị, về bản chất là giai cấp bóc lột nhân dân. Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Tiếp tục truyền thống yêu nước, thương nòi, nhân dân ta đã anh dũng đấu tranh chống Pháp nhưng hầu hết các cuộc đấu tranh đều thất bại do thiếu đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Từ khi giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện và bước lên vũ đài lịch sử, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta đã được nâng lên một tầm cao mới do hấp thu được hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin qua việc truyền bá của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự giáo dục, rèn luyện của Đảng ta. Đúng như GS Trần Văn Giàu khẳng định: "... Chính cộng sản là những người có công phát kiến lại một cách có cơ sở khoa học và có hệ thống các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam". Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải nêu cao vai trò của đạo đức mới. Mặt khác, chính phong trào hành động cách mạng của quần chúng là môi trường thuận lợi rèn luyện phẩm chất đạo đức của con người mới, làm giàu thêm truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Sự phát triển của đạo đức cách mạng ngót 70 năm qua gắn liền với tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tấm gương của những người cộng sản tiêu biểu của thế hệ cách mạng đầu tiên như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Ngô Gia Tự và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác. Tấm gương của họ mãi mãi là nguồn động viên to lớn cho các thế hệ người Việt Nam vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được lịch sử giao phó cho mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta được nhận thức một cách khoa học, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc được phát huy mạnh mẽ và trở thành chủ nghĩa yêu nước mới mang nội dung XHCN và kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính. Truyền thống nhân ái của dân tộc ta được đặt trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó không chỉ dừng lại ở khát vọng giải phóng con người mà gắn với hành động cách mạng giải phóng người lao động bị áp bức, phát huy tiềm năng to lớn của cả cộng đồng và từng cá nhân trong cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của mình. Đức tính cần kiệm được các tầng lớp nhân dân, nhất là giai cấp công nhân Việt Nam đem lại một ý nghĩa mới mẻ gắn với yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì lợi ích của xã hội, tập thể, trong đó có lợi ích cá nhân người lao động. Tinh thần đoàn kết dân tộc, niềm lạc quan của người Việt Nam được cổ vũ bởi mục tiêu cao quý vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành nguồn sức mạnh vô địch của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đưa nước ta quá độ lên CNXH. Trong đời sống của dân tộc ta lúc này đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đó là biểu hiện tập trung của những phẩm chất đạo đức truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã trở thành hiện tượng phổ biến của hàng triệu quần chúng thuộc mọi tầng lớp và lứa tuổi khác nhau. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, trong kháng chiến chống Pháp, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền Nam, Bắc và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước đây, chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã trở thành một định hướng đạo đức cơ bản trong tư tưởng và hành động của mỗi ngời Việt Nam.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan