Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biểu mẫu - Văn bản Văn bản Phân tích bài bình ngô đại cáo ngữ văn lớp 10 theo từng đoạn...

Tài liệu Phân tích bài bình ngô đại cáo ngữ văn lớp 10 theo từng đoạn

.DOC
3
903
91
  • Ngữ văn lớp 10
    Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của
    Nguyễn Trãi
    DÀN Ý
    1. Mở bài:
    - Sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt
    làm tan mười lăm vạn viện binh của quân
    Minh, cuộc kháng chiến của quân dân Đại
    Việt đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai
    mươi năm ròng phải chịu đựng thảm khốc
    dưới ách cai trị tàn bạo của quân xâm lược.
    - Thừa lệnh của chủ soái Lợi, Nguyễn
    Trãi đã viết Đại cáo bình Ngô đổ tổng kế cuộc
    kháng chiến đại, báo cáo rộng rãi cho toàn
    thể nhân dân được biết.
    - Với nghệ thuật chính luận hùng hồn
    cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo
    tội ác tày trời của giặc Minh, đồng thời ca
    ngợi sức mạnh thần của cuộc khởi nghĩa
    Lam Sơn.
    2. Thân bài:
    * Bố cục bài văn gồm 5 đoạn:
    + Đoạn 1: "Từ đầu... đến Chứng cớ còn
    ghi": Khẳng định tưởng nhân nghĩa
    chân về chủ quyền độc lập của quốc gia
    Đại Việt.
    + Đoạn 2: Từ "Vừa rồi... đến Ai bảo thần
    nhân chịu được?": Tố cáo và kết án tội ác tày
    trời của giặc Minh.
    + Đoạn 3: Từ "Ta đây... đến Dùng quân mai
    phục, lấy ít địch nhiều": Hình ảnh của vị lãnh
    tụ nghĩa quân Lam Sơn những khó khăn
    trong buổi đầu dấy nghiệp.
    + Đoạn 4: Từ Trọn hay... Cũng là chưa thấy
    xưa nay: Quá trình mười năm kháng chiến và
    thắng lợi vẻ vang.
    + Đoạn 5: Phần còn lại: Khẳng định ý nghĩa
    to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lời
    tuyên bố hoà bình.
    * Nội dung bài Đại cáo bình Ngô
    + Nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi:
    - Bài cáo mở đầu bằng nguyên lí chính
    nghĩa dựa trên nền tảng là tư tưởng thần dân
    mà Nguyễn Trãi rất coi trọng:
    Việc nhân nghĩa cốt yên
    dân,
    Quân điếu phạt trước lo tr
    bạo.
    - Nhân nghĩa mối quan hệ giữa con
    người với con người được xây dựng trên nền
    tảng tình thương và đạo lí. Theo Nguyễn Trãi,
    trước hết muốn yên dân thì phải lo trừ bạo để
    cho dân được sống thanh bình, hạnh phúc.
    Cứu nước tức cứu dân bởi nước với dân
    một.
    - tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự
    nghiệp chống xâm lược. Phân định rạch ròi ta
    chính nghĩa, giặc phi nghĩa. Chiến đấu
    chống xâm lược phù hợp với đạo nhân
    nghĩa.
    - Bằng giọng văn hào hùng, Nguyễn Trãi đã
    thể hiện lòng tự hào, tự tôn về truyền thống
    văn hiến lâu đời của dân tộc ta. Quốc gia Đại
    Việt cương vực, ranh giới rõ ràng,
    phong tục tập quán riêng, từ lâu đời đã tồn tại
    song song với các quốc gia phương Bắc. Các
    triều đại vua nước Nam xưng đế, hùng cứ
    một phương, chứ không phải chư hầu.
    cách độc lập, chủ quyền quốc gia của dân tộc
    Đại Việt một chân tất nhiên, không
    bạo lực nào xâm phạm nổi.
    - Tác giả đã chứng minh cho đạo nhân
    nghĩa bằng chính những thất bại thảm hại
    của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Nhi (các tướng
    giặc). Đồng thời khẳng định chiến thắng luôn
    đứng về phía những người đấu tranh bảo vệ
    chính nghĩa.
    + Tố cáo tội ác dã man của giặc Minh:
    - Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm
    lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm
    độc cuối cùng đanh thép tố cáo tội ác
    của giặc Minh.
    - Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp
    nước đã từ lâu, vạch trần luận điệu bịp
    bợm “phù Trần diệt Hồ", để "mượn gió bẻ
    măng" cướp đất nước ta của chúng.
    - Nguyễn Trãi không tố cáo chủ trương
    đồng hoá thâm độc tố cáo chính sách cai
    trị khắc, tham tàn của giặc Minh: vét
    sản vật quý báu, bóc lột sức người, sức của
    bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật
    huỷ hoại môi trường sống, tàn sát dân
    chúng vô tội không biết ghê tay.
    - Tội ác chất chồng của giặc Minh khối
    căm hờn chất chứa của nhân dân ta đã được
    Nguyễn Trãi đúc kết bằng hai câu văn mang
    ý nghĩa khái quát rất cao:
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết
    tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa
    sạch mùi.
    Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn)
    để so sánh với cái hạn (tội ác của giặc);
    lấy cái cùng (nước Đông Hải) so sánh với
    cái cùng (sự bẩn của giặc). Câu văn
    đầy tính hình tượng khắc hoạ nhấn mạnh
    tội ác của quân thù; đồng thời thể hiện thái độ
    căm phẫn và khinh bỉ của tác giả.
    + Hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn
    vả những khó khăn trong buổi đầu dấy
    nghiệp:
    - Hình tượng lãnh tụ Lợi chủ yếu được
    khắc hoạ trong những ngày đấu dấy nghiệp
    đầy gian khổ. Trong hình tượng Lợi sự
    thống nhất, hòa hợp giữa con người bình
    thường thủ lĩnh nghĩa quân, ông xứng
    đáng linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam
    Sơn. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi nói
    lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa
    chống quân Minh.
    - Những ngày đầu khởi nghiệp đầy gian
    nan, vất vả bởi sự chênh lệch quá lớn trong
    mối tương quan giữa ta địch. Cuộc khởi
    nghĩa đã vượt qua những khó khăn, thử
    thách ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng
    phản công giành thắng lợi.
    - Lợi thể hiện rất vai trò của một bậc
    minh chủ. Trong tâm trí ông luôn canh cánh
    mối lo đánh đuổi giặc thù để cứu nước, cứu
    dân thoát khỏi ách lệ lầm than. Lợi tự
    tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia,
    dân tộc lên vai mình. Nhiệt huyết cứu nước
    đã trở thành hoài bão cao đẹp của ông. Tài
    năng của Lê Lợi thể hiện qua ý chí, quyết tâm
    kháng chiến ông đã tìm được con đường
    cứu nước đúng đắn.
    + Nguyên nhân dẫn tới thành công của sự
    nghiệp cứu nước:
    - Trước hết, nghĩa quân sức mạnh của
    tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của
    mục đích chiến đấu nhằm mưu cầu hạnh
    phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập
    truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia
    Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết
    định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tài trí
    mưu lược, phẩm chất anh hùng của chủ
    tướng Lê Lợi.
    - truyền thống đoàn kết trên dưới một
    lòng; chiến lược đánh giặc cùng linh
    hoạt và hiệu quả của nghĩa quân.
    - Tài năng của Lợi thể hiện qua ý chí,
    quyết tâm đánh giặc cứu nước, qua thái độ
    trân trọng và sử dụng người tài, khả năng thu
    phục nhân tâm và tài thao lược xuất sắc, đưa
    ra đường lối kháng chiến sáng suốt đúng
    đắn. Lợi đã dùng chiến lược trường
    kháng chiến, lấy thời gian ủng hộ mình.
    Trong quân sự, lúc đầu ông dùng chiến thuật
    lấy "đoản binh” chống "trường trận". Đánh
    mai phục, đánh bất ngờ, dựa vào địa thế núi
    sống hiểm trở, dựa vào lòng dân tận tình giúp
    đỡ.
    + Quá trình kháng chiến gian khổ thắng
    lợi vẻ vang:
    - Nguyễn Trãi đã vẽ nên toàn cảnh về
    những ngày tháng cả dân tộc Đại Việt sống
    trong không khí chiến đấu sôi sục, khẩn
    trương. Khi tái hiện giai đoạn hai của cuộc
    kháng chiến, tác giả hào hứng miêu tả khí thế
    đạp trên đầu thú của nghĩa quân sự thất
    bại thảm hại của giặc Minh xâmợc. Thông
    qua đó khẳng định tính chất chính nghĩa
    truyền thống nhân đạo sáng ngời của cuộc
    khởi nghĩa Lam Sơn.
    - Trong đoạn văn này, từ hình tượng đến
    ngôn ngữ, từ màu sắc tới âm thanh, nhịp điệu
    đều mang đậm tính chất anh hùng ca. Độ dài
    ngắn khác nhau của các câu văn và hàng loạt
    hình ảnh so sánh được tác giả vận dụng rất
    linh hoạt nhằm đặc tả khí thế tấn công như vũ
    bão của quân ta.
    - Thất bại không thể tránh khỏi của giặc
    cũng được tác giả khắc hoạ tài tình bằng thủ
    pháp liệt kê chính xác.
    - Truyền thống nhân nghĩa và tư tưởng hoà
    bình của dân tộc Đại Việt được thể hiện rất
    trong đoạn này. Giặc đại bại, thể lòng trời ta
    mở đường hiểu sinh, cấp thuyền, cấp ngựa
    cho chúng về nước. Thế của ta thế của
    người chiến thắng:
    Họ đã tham sống sợ chết hoà
    hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân hơn, để nhân
    dân nghỉ sức.
    - Đây cũng tầm nhìn chiến lược sáng
    suốt của Lợi, tạo sở cho một nền hoà
    bình lâu dài giữa hai nước. Nguyễn Trãi
    khẳng định:
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    + Ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến
    lời tuyên bố hoà bình:
    - Trong đoạn kết của bài cáo, Nguyễn Trãi
    thay mặt chủ tướng Lợi trịnh trọng tuyên
    bố: Chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt
    đã được lập lại, một thời mới của lịch sử
    đã được mở ra:
    Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    - Niềm vui to lớn này kết quả tất yếu của
    bao nhiêu gian khổ, hi sinh xương máu, của
    bao nhiêu chiến thắng của quân dân Đại Việt:
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững
    chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    ....
    Xa gần bá cáo,
    Ai nấy đều hay.
    - Trong lời tuyên bố kết thúc chiến tranh,
    cảm hứng của Nguyễn Trãi về nền độc lập
    dân tộc tương lai tươi sáng của đất nước
    đã hòa quyện với niềm tin vào quy luật vận
    động tất yếu của lịch sử. Nguyễn Trãi cũng
    đã thể hiện quyết tâm xây dựng nền thái bình
    muôn thuở của nhân dân Đại Việt.
    3. Kết bài:
    - Bài Đại cao bình Ngô có sự thống nhất hài
    hoà giữa yếu tố chính luận yếu tố nghệ
    thuật, nhằm tổng kết cuộc kháng chiến
    cùng gian lao và tuyệt vời anh dũng của quân
    dân Đại Việt chống giặc Minh xâm lược.
    - Kiệt tác này niềm tự hào biên của
    dân tộc bởi truyền lại cho muôn đời con
    cháu về tình yêu nước, thương dân, tinh thần
    tự hào, tự tôn dân tộc, tưởng nhân nghĩa,
    hòa bình...
    - Bài cáo tuy lấy lời Lợi nhưng đó
    tưởng, tình cảm, cuộc sống, máu xương của
    chính bản thân Nguyễn Trãi. Trên cơ sở chân
    chính nghĩa tất thắng. Nguyễn Trãi đã viết
    nên áng "thiên cổ hùng văn", giống như một
    tượng đài chiến thắng hoành tráng, cao vút
    giữa bầu trời nước Việt.
    II. BÀI LÀM
    Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm
    tan mười lăm vạn viện binh của giặc Minh,
    tướng giặc ơng Thông buộc phải giảng
    hoà, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc
    kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã
    hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm
    thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở
    ra kỉ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc.
    Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lợi viết
    Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về
    cuộc kháng chiến đại để báo cáo rộng rãi
    cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô
    được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai"
    Trang 1
  • sau Thơ Thần của Thường Kiệt, xứng
    đáng áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử
    văn chương nước ta.
    Với ngh thuật chính luận chặt chẽ
    cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo
    tội ác tày trời của kẻ thù xâmợc, đồng thời
    ca ngợi sức mạnh thần của cuộc khởi
    nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo
    bình Ngô được triển khai trên cơ sở tưởng
    nhân nghĩa chân về chủ quyền độc lập
    của nước Đại Việt.
    Bố cục của bài cáo gồm 5 đoạn:
    Đoạn 1: "Từ đầu... đến Chứng cớ còn
    ghi": Khẳng định tưởng nhân nghĩa
    chân về chủ quyền độc lập của quốc gia
    Đại Việt.
    Đoạn 2: Từ "Vừa rồi... đến Ai bảo thần
    nhân chịu được?": Tố cáo và kết án tội ác tày
    trời của giặc Minh.
    Đoạn 3: Từ "Ta đây... đến Dùng quân mai
    phục, lấy ít địch nhiều": Hình ảnh của vị lãnh
    tụ nghĩa quân Lam Sơn những khó khăn
    trong buổi đầu dấy nghiệp.
    Đoạn 4: Từ Trọn hay... Cũng là chưa thấy
    xưa nay: Quá trình mười năm kháng chiến và
    thắng lợi vẻ vang.
    Đoạn 5: Phần còn lại: Khẳng định ý nghĩa
    to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lời
    tuyên bố hoà bình.
    một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng
    thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn
    Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh giặc
    Ngô viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất
    hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm
    chiếm cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau
    đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian
    của Đại Việt trải qua hàng nghìn năm,
    được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói
    chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy
    Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi nhân
    dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phẫn
    coi thường của mình.
    Đoạn 1: Đạo nhân nghĩa của Nguyễn
    Trãi.
    Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo
    nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng
    tư tưởng thân dân mà ông rất coi trọng:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Nhân nghĩa mối quan hệ giữa con
    người với con người được xây dựng bằng
    tình thương yêu đạo lí. Điều đáng nói hơn
    nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tưởng
    nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực
    tiễn của lịch sử dân tộc. Theo ông, yên dân
    trước hết phải trừ bạo để cho dân được
    sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước
    độc lập, hoà bình.
    Trong bài văn này cũng như trong các tác
    phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân
    đen, con đỏ chung chung đã cụ thể ra
    manh, lệ (kẻ đi cày, người đi ở), dân mọn
    nơi xóm làng, nhân dân lao động khắp
    bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất
    nước đồng nghĩa với giày xéo nhân dân. Lo
    nước tức lo n, thương nước tức thương
    dân, cứu nước tức cứu dân. Nước dân
    một.
    Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong
    phạm vi đạo đức đã một tưởng
    hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc
    (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vì thế phải chăm lo
    cho dân chúng được no ấm, bình yên.
    tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự
    nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống
    xâm lược, chống xâm lược nhân nghĩa.
    Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu
    nhân nghĩa xảo trá của địch phân định
    rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.
    Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm
    lược phù hợp với đạo nhân nghĩa, cho
    nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc
    gia Đại Việt cũng là một chân lí khách quan.
    Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng
    văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về
    đất nước có một nền văn hiến lâu đời:
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền
    độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên
    xưng đế một phương
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    So hào hào kiệt đời nào cũng có
    Đại Việt một đất nước cương vực,
    ranh giới ràng (Tiệt nhiên định phận tại
    thiên thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song
    song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc.
    Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương
    Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ
    một phương, chứ không phải chư hầu.
    Truyền thống văn hiến tự ngàn năm cùng
    với hào kiệt đời nào cũng đã khẳng định
    Đại Việt quốc gia chủ quyền độc lập, tự
    do.
    So với bài Thơ Thần của Thường Kiệt
    thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến
    dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh
    khái niệm về quốc gia dân tộc. Thường
    Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ
    quyền dân tộc lãnh thổ riêng biệt, ý chí
    độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong
    sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ
    nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng
    cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam
    cũng xưng đế chẳng khác các đời vua của
    Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương,
    hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn
    Trãi cũng i đến bờ cõi riêng biệt, nhưng
    không viện đến quy định của trời mà nói đến
    truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn
    hoá của con người sống trên bờ cõi đó,
    nghĩa nói đến một dân tộc với đầy đủ
    cách độc lập. Như vậy, chủ quyền của quốc
    gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên, không
    bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng
    minh cho đạo nhân nghĩa bằng chính
    những chứng cứ còn ghi trong lịch sử:
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa
    Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn
    mạnh ý: Những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu
    vong, đồng thời khẳng định chiến thắng luôn
    đứng về phía những người đấu tranh cho
    chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi
    trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.
    Đoạn 2: Tố cáo tội ác man của giặc
    Minh.
    Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những
    chi tiết cụ thể nhận định khái quát, tác giả
    đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới
    ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ
    nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào
    cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than.
    Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng
    đanh thép kết tội bọn bán nước quân
    cướp nước.
    Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm
    lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm
    độc cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những
    hành động tội ác của giặc Minh:
    Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán
    giận.
    Quân cuồng Minh thừa gây
    hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp
    nước Đại Việt của giặc Minh đã từ lầu,
    đồng thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù
    Trần diệt Hồ”, để “mượn gió bẻ măng” của
    chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ
    một nguyên nhân, đúng hơn chỉ một cái
    cớ để giặc Minh thừa gây hoạ. Những từ
    như nhân (nhân dịp), thừa đã góp phần
    phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của
    chúng. Điều đáng lưu ý khi vạch âm
    mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã
    đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố
    cáo chủ trương cai trị thâm độc tội ác của
    giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường
    nhân nghĩa:
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai
    hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi
    con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác
    man rợ kiểu trung cổ của giặc, vừa mang
    tính khái quát như khắc vào bia căm thù để
    muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa
    quân xâm lược bạo tàn.
    Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không
    đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hoá
    thâm độc tố cáo những chủ trương cai trị
    phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không
    chỉ vét hết các sản vật quý báu còn
    bóc lột sức người, sức của bằng thuế má,
    phu phen, dâng nạp cống vật huỷ hoại cả
    môi trường sống, tàn sát dân chúng tội
    không biết ghê tay. Người dân nước Nam
    sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực. Cái
    chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như
    lời bài cáo đã nêu:
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò
    ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn
    nỗi rừng sâu nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới
    chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi
    cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Đối lập với thảm cảnh của người dân
    tội hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn,
    man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu
    mỡ bấy no chưa chán. Câu văn đã khắc
    hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm
    lược.
    Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc
    khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta,
    Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng
    hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết
    tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa
    sạch mùi.
    Tác giả đã lấy cái hạn (trúc Nam Sơn)
    để so sánh với cái hạn (tội ác của giặc),
    dùng cái cùng (nước Đông Hải) để nói cái
    vô cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy
    hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận
    sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân
    tộc ta chỉ còn con đường duy nhất đứng
    lên hành động:
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng
    hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi,
    khi thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật
    to, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một
    lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong
    tâm tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo
    bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết
    yếu của một bản "tuyên ngôn độc lập" bởi
    chính những nội dung đã phân tích ở trên.
    Đoạn 3: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa
    quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi
    đầu dấy nghiệp.
    Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai
    đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng
    bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả
    đã khắc hoạ thành công hình tượng Lợi
    trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:
    Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Trang 2

Mô tả:

Tài liệu liên quan