Đề bài: Phân tích quá trình biến đổi cách tiếp cận của pháp luật quốc tế trong lĩnh
vực người khuyết tật.
BÀI LÀM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, ngày nay, quyền con người
luôn được cộng đồng quốc tế và các quốc gia coi trọng, coi đó như một thành tựu
của nền văn minh trong thời đại ngày nay; là thước đo của sự tiến bộ xã hội, không
phân biệt hệ tư tưởng, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa, trình độ phát triển của các
quốc gia. Cũng theo cách hiểu đó, chúng ta thừa nhận rằng, nhận thức của xã hội về
con người chính là tấm gương phản chiếu lại sự tiến bộ của đất nước đó. Tuy nhiên,
con người là danh từ chung mà chúng ta cần cắt nghĩa nó và đi vào từng đối tượng
con người cụ thể, mà đặc biệt là nhóm người dễ bị tổn thương nhất để thấy rõ được
từng mức phát triển của xã hội. Người khuyết tật là một trong những nhóm người
như thế, họ là những con người dễ bị tổn thương về cả thể chất và tinh thần, họ cần
sự hòa nhập của cộng đồng, cần được xã hội quan tâm nhiều hơn cả. Cùng với thời
gian, cách tiếp cận của xã hội và của pháp luật về người khuyết tật đã có những thay
đổi nhất định. Với mong muốn hiểu rõ hơn, nghiên cứu rõ hơn về người khuyết tật,
em xin chọn đề tài: “” để thấy được sự thay đổi về nhận thức cũng như pháp luật
quốc tế về người khuyết tật qua từng giai đoạn.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Với tư cách là đối tượng, thực thể tồn tại trong đời sống xã hội, người khuyết
tật có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Tuy nhiên, do những
khiếm khuyết không mong muốn về cơ thể mà người khuyết tật gặp phải nhiều tở
ngại, khó khăn trong việc hòa nhập cộng đồng, cũng như thực hiện quyền và nghĩa
vụ công dân của mình. Cùng với đó là sự kỳ thị của xã hội, nó đã trở thành rào cản
vô hình đến tàn nhẫn, đẩy người khuyết tật ra bên lề của cuộc sống. Điều đáng nói,
kì thị không phải là vấn đề thuộc vật chất, của khoa học – kỹ thuật, mà nó là vấn đề
thuộc tâm láy và sự ý thức sâu xa giá trị sống của con người. Chính vì vậy, thay đổi
nhận thức của xã hội chính là đang thay đổi cuộc sống của người khuyết tật. Cùng
với quá trình phát triển của xã hội, nhận thức về người khuyết tật đã ngày càng đúng
đắn và phát triển hơn. Lịch sử thế giới cũng như ở mỗi quốc gia đã ghi nhận những
thành công nhất định trong quá trình thay đổi nhận thức về người khuyết tật. Với
mong muốn hiểu rõ hơn và đóng góp một chút công sức cho cuộc sống của người
khuyết tật, em xin chọn đề tài nghiên cứu: “Phân tích quá trình biến đổi cách tiếp
cận của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực người khuyết tật”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Ngân hang thế giới ước tính có khoảng 10% dân số t hế giới (khoảng 650 triệu
người) phải sống chung với những khuyết tật, Con số này sẽ còn tăng lên do dân số
già hóa và những tiến bộ của y học. Có đến 80% số người khuyết tật sống ở các
nước đang phát triển – theo Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Người
khuyết tật được coi là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Với tình trạng
khuyết tật họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả các phương diện của
đời sống xã hội. Theo khảo sát của Ngân hang thế giới, Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc, mặc dù chỉ chiếm 10% tổng số nhân loại song người khuyết tật chiếm đến
19% số người học vấn thấp, 20% số người nghèo trên thế giới. Không những vậy,
khuyết tật còn là nguyên nhân khiến nhiều người phải đối mặt với nguy cơ bị vi
phạm nghiêm trọng các quyền về nhân phẩm.
Trong thời gian dài, người khuyết tật chỉ mới được coi là đối tượng của tình
thương; việc bảo vệ, hỗ trợ họ chủ yếu dưa trên cách tiếp cận của lòng nhân đạo chứ
không bắt nguồn từ nhận thức rằng họ cũng là những chủ thể của quyền, còn nhà
nước, xã hội và các cá nhân khác là những chủ thể có nghĩa vụ phải tôn trọng và
đảm bảo thực hiện các quyền ấy. Thực tế cho thấy cách tiếp cận cũ không những
không đảm bảo cho người khuyết tật dduc hưởng đầy đủ các quyền con người mà
còn ngăn cản họ tham gia, hội nhập có hiệu quả vào đời sống xã hội.
Sở dĩ khiếm khuyết ở một (hoặc một vài chức năng) đã trở thành rào cản đối
với việc hòa nhập của người khuyết tật bởi vì nhu cầu của họ chưa được xã hội tính
đến. Các thiết kế công cộng thường chỉ dành cho người có các chức năng được thực
hiện bình thường, do vậy người khuyết tật khó tiếp cận các dịch vụ giao thông, công
cộng, giáo dục, việc làm,… và cuối cùng họ bị cô lập hoặc bị loại trừ khỏi những
sinh hoạt cộng đồng. Cũng từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng, tiếp cận giáo
dục, người khuyết tật bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn và cơ hội
việc làm cũng như thu nhập thấp hơn. Vòng luẩn quẩn còn tiếp tục khi những khó
khăn về vật chất lại dẫn đến những thiệt thòi về tinh thần. Người khuyết tật có thể bị
coi là gánh nặng của gia đình, xã hội, bị coi thường, bị ngược đãi hoặc bỏ mặc…
Như vậy, tình trạng khuyết tật làm tăng nguy cơ nghèo đói và sự nghèo đói lại làm
tình trạng khuyết tật bị trầm trọng thêm.
Sau nhiều năm, với những cuộc vận động kiên trì và mạnh mẽ của nhiều cá
nhân và tổ chúc xã hội, nhận thức rằng người khuyết tật cũng là chủ thể bình đẳng
của các quyền con người mới dần chiếm ưu thế (Đại học QGHN, Luật quốc tế về
quyền của những người dễ bị tổn thương, nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội, 2011,
tr.98). Sự chuyển biến về nhận thức dẫn tới thay đổi về cả cách gọi ten của nhóm xã
hội này, thay cho việc dùng từ “người tàn tật” có vẻ miệt thị, hạ thấp, phân biệt
thành từ “người khuyết tật” thể hiện nhận thức lại đúng mức hơn đối với họ. Tên gọi
mới, bên cạnh những yếu tố khác, mang hàm ý rõ ràng rằng đây là nhóm người tuy
có khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần nhưng họ không hải là những người “vô
dụng”, là gánh nặng của gia đình, của xã hội,... mà là một trong các nhóm cộng đồng
nhân loại với sự đa dụng vốn có của nó.
2. Pháp luật
1. QUAN ĐIỂM Y TẾ
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1(Công ước này đước
Đại hội đồng Liên hợp quốc ban hành theo Nghị quyết số 2200A (XXI) ngày
16/12/1966, có hiệu lực từ 1976) cũng có những quy định chung liên quan đến vấn
đề y tế cho người khuyết tật. Đó là dịch vụ, hàng hóa và phương tiện y tế được cung
cấp không có sự phân biệt đối xử ; phải sẵn có, có thể tiếp cận, được tiếp nhận và có
chất lượng tốt. Chúng phải dễ tiếp cận ở góc độ thân thể (trong khả năng an toàn cho
mọi thành phần dân cư, nhất là người khuyết tật và những nhóm dễ bị tổn thương
khác) cũng như ở góc độ tài chính và dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử. Tính
tiếp cận cũng ngụ ý quyền được tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin vè sức khỏe
ở mọi dạng có thể tiếp cận được (dành cho tất cả mọi ng, kể cả người khuyết tật),
nhưng không làm ảnh hưởng tới quyền được khám chữa bệnh một cách riêng tư...
Như vậy, có thể thấy, các văn bản pháp luật trong giai đoạn này đề cập tới quyền của
người khuyết tật hầu hết được xét trên phương diện chăm sóc y tế là phần nhiều.
Cũng theo Công ước này, vấn đề bình đẳng và không phân biệt đối xử cũng
được đề cập tới. Các quốc gia phải thừa nhận sự khác biệt của những nhóm người
đặc thù (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật) để từ đó cho họ được hưởng những tiêu
chuẩn riêng biệt về sức khỏe.
Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã chỉ rõ rằng, cả về mặt pháp
luật lẫn thực tiễn, không thể biện hộ cho việc thiếu các biện pháp bảo vệ những
người yếu thế bị phân biệt đối xử về các dịch vụ y tế trong xã hội. Vì vậy, ngay cả
khi khó khăn nhất, những người yếu thế trong xã hội cần phải được bảo vệ, chẳng
hạn bằng việc tiến hành những chương trình y tế trọng điểm có chi phí thấp 1(Bình
luận tổng quát số 14, đoạn 18, Nhiều khía cạnh và những tinh chất quan trọng của
quyền về sức khỏe được làm sáng tỏ trong bình luận chung số 14 (2000) về quyền về
sức khỏe của Ủy ban Kinh tế, Văn hóa và Xã hội.
Mặc dù có trên 650 triệu ng trên toàn thế giới bị khiếm khuyết một bộ phận
hay giác quan cửa cơ thể (2/3 trong số đó sống ở các nước đang phát triển), nhưng
hầu hết những người này bị nhà nước và xã hội bỏ mặc từ lâu. Chỉ trong một vài
năm trở lại đây mới có bước chuyển mang tính đột phá trong thái độ đối với người
khuyết tật..
Tầm quan trọng cốt yếu của mối liên hệ giữa Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa và Quyền con người của người khuyết tật thường được Cộng
đồng quốc tế nhấn mạnh. Vì vậy, báo cáo đánh giá năm 1992 của Tổng thư ký về
thực hiện Chương trình hành động quốc tế về người khuyết tật và Thập kỷ của Liện
hợp quốc về người khuyết tật đã kết luận rằng « Vấn đề người khuyết tật có liên hệ
chặt chẽ với các nhân tố kinh tế và xã hội » và rằng « điều kiện sống ở nhiều nơi trên
thế giới vẫn còn quá hạn chế nên quy định về các nhu cầu tối thiểu cho tất cả mọi ng
bao gồm thực phẩm, nước uống, nhà ở, bảo vệ y tế, giáo dục cần phải được coi là cơ
sở nền tảng trong các chương trình phát triển
- Xem thêm -