I. MỞ ĐẦẦU
Quyềền nhân thân là một khái niệm pháp lý chỉ quyềền năng dân sự c ủa cá
nhân được pháp luật ghi nhận. Quyềền nhân thân găắn liềền với nh ững giá tr ị tinh
thâền của con người và vềề nguyền tăắc không thể chuyển giao cho ng ười khác.
Một xã hội càng tiềắn bộ, phát triển bao nhiều thì quyềền nhân thân c ủa cá
nhân càng được pháp luật tôn trọng và mở rộng bâắy nhiều. Cùng v ới s ự phát
triển của đâắt nước, quyềền nhân thân của cá nhân cũng ngày càng đ ược công
nhân và bảo vệ cao hơn trong pháp luật Việt Nam. Từ Bộ luật dân sự (BLDS)
năm 1995 đềắn Bộ luật dân sự năm 2005, pháp luật đã mở rộng thềm quyềền
nhân thân của cá nhân từ 20 lền 26 quyềền nhân thân. Trong ph ạm vi bài ti ểu
luận, em xin phép được đi sâu phân tích một trong những quyềền nhân thân c ơ
bản đó là quyềền được bảo đảm an toàn vềề tính m ạng, sức kh ỏe, thân th ể c ủa
cá nhân.
II. NỘI DUNG CHI TIẾẾT
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại quyềền nhân thân.
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Điềều 24, BLDS năm 2005 quy định: “Quyềền nhân thân được quy định
trong Bộ luật này là quyềền dân sự găắn liềền với môỗi cá nhân, không th ể chuy ển
giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” . Quy định
này đã nều lền được khái niệm vềề quyềền nhân thân thông qua hai đ ặc đi ểm c ơ
bản là: găắn liềền với cá nhân, không chuyển dịch. Tuy nhiền theo Tiềắn sĩ Bùi
Đăng Hiềắu (Đại học Luật Hà Nội), nềắu chỉ dừng l ại ở nh ững đ ặc đi ểm đó thì
khái niệm quyềền nhân thân seỗ vướng phải một sôắ bâắt c ập. Thứ nhâắt, hai đặc
điểm trền chưa thực sự đâềy đủ để phân biệt quyềền nhân thân v ới các quyềền
dân sự khác, bởi leỗ một sôắ quyềền tài sản chung cũng mang đ ủ hai đ ặc đi ểm
này. Thứ hai, Điềều 24 BLDS 2005 quy định răềng quyềền nhân thân là quyềền “găắn
1
liềền với cá nhân”, tuy nhiền theo tìm hiểu thì các chủ thể khác như pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có các quyềền nhân thân của mình (Điềều 604 và
611 BLDS 2005 có đềề cập đềắn danh dự, uy tín c ủa pháp nhân, ch ủ th ể khác).
Từ đó, ta có thể hoàn thiện vềề khái niệm quyềền nhân thân nh ư sau:
“Quyềền nhân thân là quyềền dân sự găắn với đời sôắng tinh thâền c ủa môỗi ch ủ th ể,
không định giá được băềng tiềền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Từ định nghĩa trền, ta có thâắy quyềền nhân thân có một sôắ đặc đi ểm sau:
- Quyềền nhân thân luôn găắn liềền với một chủ thể nhâắt định và vềề
nguyền tăắc không thể chuyển dịch được cho các chủ thể khác;
- Quyềền nhân thân không xác định được băềng tiềền;
- Hành vi xâm phạm quyềền nhân thân của cá nhân không nhâắt thiềắt
phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó;
- Thiệt hại khi quyềền nhân thân bị xâm phạm không có tiều chí c ụ th ể
để định lượng.
1.2. Các nhóm quyềền nhân thân cơ bản.
Hiện nay, các quyềền nhân thân có thể được phân loại thành nhiềều nhóm
theo nhiềều tiều chí khác nhau, môỗi tiều chí thể hiện một khía c ạnh pháp lý đ ặc
thù. Một trong những cách phân loại quyềền nhân thân được sử d ụng ph ổ biềắn
hiện nay là phân loại dựa vào đôắi tượng của quyềền. Theo tiều chí này, quyềền
nhân thân được phân thành năm nhóm sau đây:
- Nhóm các quyền cá biệt hóa chủ thể;
- Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân;
- Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể;
2
- Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá
nhân;
- Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Theo cách phân loại này thì quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể của cá nhân thuộc nhóm quyền liên quan đến thân thể của cá nhân.
Sau đây, ta sẽ đi sâu phân tích, tìm hiểu các quyền này.
2. Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của
cá nhân.
Thân thể của mỗi cá nhân không phải là tài sản, mà thuộc về nhân thân của
cá nhân đó. Các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân được bảo vệ một cách
giống nhau ở mọi cá nhân (tính mạng, sức khoẻ, thân thể của mỗi cá nhân đều
được bảo vệ như nhau và đều là vô giá mà không phụ thuộc vào giới tính hay địa
vị xã hội) và được bảo vệ một cách tuyệt đối khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể
khác, bất kể chủ thể quyền có yêu cầu hay không yêu cầu được bảo vệ.
2.1. Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng
Trong thế giới vật chất đang tồn tại và phát triển không ngừng có một đặc
quyền chỉ dành cho một chủ thể duy nhất là con người đó là quyền được bảo đảm
an toàn về tính mạng. Đây được xem là quyền dân sự cốt yếu của con người, đồng
thời cũng là ranh giới của việc có hay không có quyền con người.
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng là quyền con người gắn liền với
sự ra đời của nhà nước. Ở những nhà nước khác nhau việc bảo đảm quyền ấy cũng
khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản khi nói đến quyền được bảo đảm an toàn về tính
mạng thì chúng ta không thể hiểu khác đi được rằng đó là quyền dân sự của cá
nhân, theo đó cá nhân có quyền duy trì sự sống và quyền làm chủ cuộc sống.
3
Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn tính mạng đã được đề cập đến từ
rất sớm và xuyên suốt trong đời sống pháp luật quốc tế. Từ Tuyên ngôn độc lập
của nước Mỹ năm 1976, cho đến Tuyên ngôn thế giới nhân quyền năm 1948, hay
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều có nhận định
một cách rõ ràng rằng quyền sống là một quyền tự nhiên và không thể tước đoạt
được của mỗi con người. Theo đó, con người có sự sống và có quyền làm chủ tính
mạng của mình không phụ thuộc vào bất kỳ một chủ thể nào khác.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định quyền được đảm bảo an toàn về tính
mạng là một quyền nhân thân của cá nhân. Nội dung của nó thể hiện ở khía cạnh
là quyền được cứu chữa. Khoản 2, Điều 32 BLDS năm 2005 quy định: “Khi phát
hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có
trách nhiệm đưa đến cơ sở y tế; cơ sở y tế không được từ chối việc cứu chữa mà
phải tận dụng mọi phương tiện, khả năng hiện có để cứu chữa”.
Đây là quyền có ý nghĩa về mặt thực tế rất lớn, bởi lẽ tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng đối với cá nhân là hiện tượng tồn tại khách quan. Trong nhiều
trường hợp, tính mạng của cá nhân không thể được đảm bảo nếu không được cứu
chữa kịp thời. Quyền này cũng đồng nghĩa với trách nhiệm, bổn phận của người
phát hiện có điều kiện và cơ sở y tế. Việc một người có điều kiện nhưng không
cứu giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là căn cứ
truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng không đương nhiên là căn cứ truy cứu trách
nhiệm dân sự.
Quyền bảo đảm an toàn về tính mạng của cá nhân không đơn thuần ở góc độ
chúng ta thừa nhận nó như một quyền hiến định hay một quyền nhân thân. Mà còn
ở khái cạnh về trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với người có hành vi vi phạm.
Có thể nói rằng, hành vi vi phạm quyền bảo đảm an toàn về tính mạng là
hành vi đặc biệt nghiêm trọng, có thể áp dụng nhiều trách nhiệm pháp lý khác
nhau tiêu biểu là trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
4
Đối tượng của các hành vi vi phạm nói trên là sự sống của con người, đây là
một loại thiệt hại đặc biệt lớn và không thể khôi phục lại như tình trạng ban đầu.
Trên phương diện hình sự, chế tài rất nghiêm khắc, mọi hành vi xâm phạm quyền
sống của con người bị coi là hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và bị nghiêm trị
theo quy định của pháp luật. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đã dành hẳn 18
Điều luật quy định những mức án nghiêm khắc đối với các tội trực tiếp hoặc gián
tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người.
Trên phương diện dân sự, trách nhiệm đặt ra là trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm không có tiêu chí chung để định lượng,
chính vì thế người gaay ra thiệt hai không thể đền bù toàn bộ những tổn thất đã
gây ra. Họ chỉ có thể bù đắp một phần cho những tổn thất đó bằng cách bồi
thường. Nói một cách cụ thể hơn, người có hành vi xâm phạm đến tính mạng
người khác phải bồi thường các thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần cho nạn
nhân hay người thân của nạn nhân nhằm một phần nào đó khắc phục những tổn
thất đã gây ra.
Pháp luật dân sự có quy định người có hành vi xâm phạm đến tính mạng của
người khác phải bồi thường phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bối
dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai
táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng. Ngoài ra còn phải bồi thường tổn thất về tinh thần cho những người thân
thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại…Mức bồi thường do các
bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 60 tháng
lương tối thiểu do nhà nước quy định (Điều 60 BLDS 2005).
Một trong những vấn đề được đặt ra trên thế giới trong suốt những năm qua
liên quan đến quyền được sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng của cá
nhân đó là vấn đề áp dụng hình phạt tử hình và quyền được chết.
5
Hiện nay, trên thế giới, đã có rất nhiều quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình,
xuất phát từ quan điểm cho rằng, quyền sống là quyền tuyệt đối hóa của cá nhân
và không một ai có quyền tước đi sự sống của cá nhân.
Ở Việt Nam hiện nay, do một số lý do phát sinh trong quá trình đấu tranh
phòng chống tội phạm, hình phạt tử hình vẫn được duy trì. Tuy nhiên, hình phạt
này chỉ áp dụng với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Pháp luật cũng
đã quan tâm bảo vệ quyền an toàn tính mạng các đối tượng đặc biệt bằng cách quy
định không áp dụng biện pháp tử hình đối với người phạm tội chưa thành niên,
phụ nữa đang có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.
Hiện nay, xuất hiện những tranh cãi xung quanh cái được gọi là “quyền
được chết”.Trên thực tế chúng ta thấy có nhiều trường hợp những người bị bệnh
nan y không thể cứu chữa, sự sống của họ được duy trì bằng máy móc, họ sống
trong sự đau đớn, dày vò về thể xác. Trong trường hợp đó, họ có thể yêu cầu bác sĩ
kết liễu cuộc sống của mình hay không và bác sĩ có thể thõa mãn yêu cầu này hay
không?
Pháp luật Việt Nam hiện vẫn chưa thừa nhận cái được gọi là quyền được
chết. Mạng sống là vốn quý giá nhất của con người, con người không tạo ra tính
mạng cho mình, đó là cái có sẵn. Con người chỉ có tính mạng và quyền bảo vệ tính
mạng nhưng con người không có quyền hủy bỏ sự sống của mình.
2.2. Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe
Có quan niệm khi có sức khỏe thì có 100 điều ước, khi không có sức khỏe
thì chỉ có một điều ước là có sức khỏe. Thật vậy, từ xưa đến nay, ông bà ta luôn
coi sức khỏe là vốn quý giá nhất của con người. Con người sẽ không thể làm gì
nếu không có sức khỏe, đó là một tiêu chí, một yếu tố quan trọng bảo đảm cho sự
tồn tại ý nghĩa của mỗi người.
6
Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe của cá nhân là quyền của cá nhân
được chăm sóc sức khỏe thường xuyên và quyền được khám, chữa bệnh khi đã
mắc bệnh. Có thể nói, đây là quyền có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với cuộc
sống của con người. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi ngày càng xuất hiện
nhiều những căn bệnh hiểm nghèo, cướp đi sinh mạng của nhiều người trên thế
giới.
Ý thức được việc này, Đảng và Nhà nước đã cụ thể quyền được bảo đảm an
toàn về sức khỏe bằng cách đưa ra những quy định về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
cá nhân, từ Hiến pháp 1959, Hiến pháp năm 1980 cho đến Luật bảo vệ sức khỏe
nhân dân ngày 30/06/1989. Ngay tại Điều 1, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm
1989 quy định: “Công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, giải trí, rèn
luyện thân thể, bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vẹ sinh môi
trường sống”.
Mới đây, trong Nghị quyết của Bộ Chính trị số 46 – NQ/TW ngày
23/02/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân dân trong
tính trạng mới, một lần nữa khẳng định quan điểm chỉ đạo trong việc bảo vệ sức
khỏa nhân dân là: “Sức khỏe nhân dân là vốn quý giá nhất của mỗi con người và
của toàn xã hộ, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là hoạt động
nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc…”. Chúng ta hướng tới đạt mục tiêu “Giảm tỉ lệ người mặc bệnh và tử vong,
nâng cao sức khỏe, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng
cao cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực”.
BLDS năm 1995 lần đầu tiên quy định những quyền nhân thân của cá nhân
trong đó có quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe tại Điều 32, BLDS năm
2005 cũng kế thừa quyền này.
Bên cạnh đó, BLDS 2005 cũng có quy định trách nhiệm dân sự đối với
người thực hiện hành vi xâm phạm đến sức khỏe người khác. Xuất phát từ đặc
trưng thiệt hại khi sức khỏe bị xâm phạm không có chuẩn mực chung đề định
7
lượng. Chính vì thế, pháp luật, lấy yếu tố chi phí làm căn cứ để xác định thiệt hại.
Chi phí đó bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực
tế đã bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại. Bên cạnh việc bồi thường
những chi phí trên người xâm phạm đến sức khỏe của người khác còn phải bồi
thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại
phải gánh chịu. Mức bồi thường do các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận
được thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định
(Điều 609 BLDS).
2.3. Quyền được bảo đảm an toàn về thân thể.
Cùng với tính mạng và sức khỏe, thân thể là yếu tố không thể thiếu của con
người. Quyền được bảo đảm an toàn về thân thể là một đặc quyền chỉ có ở con
người. Sự an toàn của thân thể thể hiện ở hai khía cạnh, khía cạnh thứ nhất đó là
quyền được tự do về thân thể, tức là thân thể của cá nhân không thể bị giam hãm
hay kìm kẹp trái phám luật. Khía cạnh thứ hai là cá nhân được quyền quyết định
những tác động từ bên ngoài đến thân thể mình. Quyền được bảo đảm an toàn về
thân thể của cá nhân là quyền của cá nhân được tự do thân thể và được bảo đảm sự
toàn vẹn của thân thể.
Cũng như quyền con người, quyền được bảo đảm an toàn về thân thể đã
được các nhà làm luật trên thế giới luật hóa từ rất sớm. Đầu tiên là Tuyên ngôn thế
giới nhân quyền năm 1948 cho đến Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966 đều ghi nhận quyền này.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền được bảo đảm an toàn về thân thể đã được
ghi nhận từ Hiến pháp năm 1946, được cụ thể hóa trong Luật đảm bảo quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật năm 1957. Quyền được
bảo đảm an toàn về thân thể của cá nhân có bước phát triển mới khi nó được thừa
nhận là một quyền nhân thân của cá nhân được quy định trong pháp luật dân sự.
8
BLDS năm 1995 thừa nhận quyền được bảo đảm an toàn về thân thể của cá
nhân tại Điều 32. Trong điều luật này, quyền này được thể hiện ở khía cạnh cá
nhân có quyền quyết định về an toàn thân thể khi cho phép hay không cho phép
một sự tác động từ bên ngoài vào cơ thể của mình đặc biệt trong việc chữ bệnh
theo phương pháp mới hoặc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận cơ thể. Theo
điều luật trên bác sĩ không được phép phẫu thuẫn nếu như không được sự đồng ý
của bệnh nhân, nếu bệnh nhân là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân
sự hoặc bất tỉnh thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ hoặc người
thân thích của người đó. Tuy nhiên, cũng theo điều luật này thì trong trường hợp
có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của
cha, mẹ, người giám hộ hoặc người thân thích của người đó thì bác sĩ có thể tiến
hành phẫu thuận với sự cho phép của người đứng đầu cơ sở chữa bệnh.
BLDS năm 2005 ra đời đã kế thừa toàn bộ quy định này. Khoản 3, Điều 32
BLDS năm 2005 có quy định: “Việc thực hiện phương pháp chữa bệnh mới trên
cơ thể người, việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận của cơ thể phải được sự
đông ý của người đó; nếu người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự
hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên
hoặc người giám hộ của người đó đồng ý; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa
tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người trên thì
phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế”.
III. KẾT LUẬN
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của cá nhân
là một trong những quyền cơ bản của các quyền nhân thân. Nó thể hiện sự ghi
nhận của Nhà nước đối với quyền được sống, được chăm sóc, được bảo vệ và
những giá trị thiết yếu nhất của con người.
Quyền nhân thân là những quyền để con người có thể sống và tồn tại theo
đúng nghĩa, nó gắn liền với những giá trị tinh thần, chúng ta nên quan niệm rằng
9
quyền nhân thân như là thuộc tính vốn có của cá nhân, từ đó có những biện pháp
thích hợp để những quyền này phát huy hết giá trị trên thực tế.
10
- Xem thêm -